Một điểm đáng chú ý và cần nhấn mạnh là, trong điều kiện tự do kinh doanh, công tác quản lý hoạt động của các DN phải được thực hiện hết sức sát xao, chính xác - trong khi vẫn không gây khó khăn cho các DN. Đây là một điểm yếu trong quá trình thực hiện chính sách. Có thể nêu một ví dụ điển hình cho vấn đề này là: ở Thành phố Hồ Chí Minh cuối năm 1999, trước khi Luật DN có hiệu lực thi hành, thì bỗng dưng, các cơ quan chức năng thấy “biến mất” gần hai trăm đơn vị trước đó đã có trong đăng ký kinh doanh. Có lẽ, không cần phải bình luận gì thêm về công tác quản lý DN và thực hiện chính sách, khi để xảy ra hiện tượng như thế.
Ở khía cạnh khác lại phải thấy rằng, trong khi đường lối và các chính sách nói trên đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý chung khá thuận lợi thì nhiều văn bản dưới luật (những qui định của Chính phủ, của các Bộ, ngành, địa phương) lại quá chồng chéo, mâu thuẫn, gây phiền hà và khó khăn rất nhiều cho các DN. Nhằm khắc phục tình hình này, ngày 3/2/2000 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định (số 19/2000/QĐ- TTg) bãi bỏ 84 loại giấy phép liên quan đến hoạt động kinh doanh, trái với Luật DN. Hiện tại, các Bộ, ngành, địa phương đang tiếp tục rà soát các loại quy định tuơng tự để thực hiện theo tinh thần Quyết định nói trên. Đây là bước tiến tích cực, tạo thuận lợi cho hoạt động của giới kinh doanh nói chung, KTTN nói riêng.
41 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1690 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại hội ĐCSVN lần thứ V thông qua kế hoạch 5 năm (1981 - 1985), đặt vấn đề đổi mới tư duy, điều chỉnh đường lối và chính sách kinh tế. Với quan điểm thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần (3 thành phần ở miền Bắc, 5 thành phần ở miền Nam), ĐCSVN đã đề ra chính sách “kết hợp cải tạo với sử dụng, thông qua sử dụng để cải tạo các thành phần kinh tế phi XHCN”. Chính sách này đã cứu KTTN khỏi nguy cơ bị tiêu diệt, tuy rằng nó chưa được khuyến khích phát triển.
Song, nhân tố kích thích khuynh hướng phát triển của KTTN lúc này lại không phải là những quyết định chính sách đối với bản thân nó mà chính là những quyết định chính sách (nhằm cứu vãn) đối với khu vực kinh tế XHCN
Có hai quyết định quan trọng thuộc lại này:
- Quyết định 25/CP của chính phủ (ngày 21/01/1981) “Về một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và tự chủ tài chính của xí nghiệp quốc doanh”. Thực chất, đây là bước điều chỉnh công tác kế hoạch hoá của DNNN, cho phép, ngoài một số chỉ tiêu kế hoạch buộc phải thực hiện, các DN tự tìm kiếm đầu vào và khách hàng, sản xuất và cung ứng theo “giá cả thoả thuận”.
- Chỉ thị 100/ CT của Ban Bí thư ĐCSVN (13/11/1981) về việc thực hiện chế độ khoán trong hợp tác xã nông nghiệp. Theo chính sách này, hộ nông dân nhận ruộng khoán của hợp tác xã và được đầu tư vào một số khâu sản xuất, hợp tác xã không nắm quyền kiểm soát chặt chẽ việc bán sản phẩm, cho phép nông dân được tự do trao đổi phần sản lượng vượt khoán.
Những quyết định trên đây cùng với cuộc tổng điều chỉnh giá cả và tiền tệ (tháng 10/1985) đã góp phần quyết định làm phân huỷ cơ cấu bên trong khu vực kinh tế XHCN, làm phát triển các quan hệ thị trường tự do, và do đó tạo ra môi trường cho sự bột phát của KTTN. Đến hết năm 1985, khu vực kinh tế XHCN “chỉ còn” chiếm 70,9% tổng sản phẩm xã hội, khu vực kinh tế tư nhân đã chiếm được 29,1%.
Mặc dù chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp cứng rắn - kiểm tra hành chính, kiểm soát thị trường, nhưng cho đến giữa thập kỷ 80, KTTN đã phát triển và có xu hướng trở thành một khu vực kinh tế hiện thực. Và vì vậy, việc tạo lập một môi trường kinh tế vĩ mô nói chung, một hệ thống chính sách kinh tế phù hợp với sự phát triển của khu vực KTTN cũng như toàn bộ hệ thống DN là vấn đề đã được đặt ra.
2.2. Chính sách phát triển KTTN trong thời kì đổi mới (từ 1986 đến nay)
2.2.1. Bối cảnh kinh tế vĩ mô: Định hướng cải cách kinh tế và tác động của nó đối với KVTN
Đến năm 1985, về hình thức, kinh tế XHCN (quốc doanh và tập thể) vẫn giữ vị trí tuyệt đối trong nền kinh tế. Những cố gắng điều chỉnh trước đó đã đặt kinh tế Việt Nam trước ngưỡng cửa của KTTT. Nền kinh tế rơi vào khủng hoảng và sa sút nghiêm trọng, lạm phát gia tăng, sản xuất đình trệ, đời sống dân cư rất khó khăn.
Đại hội ĐCSVN lần thứ VI (tháng 12/1986) đã đề ra Cương lĩnh chiến lược và đường lối đổi mới nền kinh tế. Một trong những quyết định quan trọng nhất của Đại hội VI là xác định mục tiêu xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có sự quản lý của nhà nước và phát triển theo định hướng XHCN. Theo mục tiêu này, ĐCSVN chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần như một chiến lược lâu dài và là chính sách cơ bản để dân chủ hoá kinh tế, giải phóng các nguồn lực nhằm phát triển kinh tế.
Đại hội lần thứ VII và VIII của ĐCSVN đã tiếp tục hoàn thiện các quan điểm được đề xuất từ Đại hội lần thứ VI. Mục tiêu kinh tế của Việt Nam được xác định là: xây dựng nền KTTT (nhiều thành phần) có sự điều tiết của nhà nước và phát triển theo định hướng XHCN.
Những quyết định trên đây là sự định hướng chiến lược cho tiến trình kinh tế Việt Nam, đồng thời mở ra cơ hội và điều kiện thuận lợi cho KTTN phát triển như một khu vực quan trọng của nền kinh tế quốc gia.
Thực hiện chiến lược đó, kể từ 1989, Việt Nam đã áp dụng nhiều chính sách quan trọng và đồng bộ để xoá bao cấp, chuyển sang kinh tế thị trường. Những chính sách này đã tác động mạnh và tích cực đối với sự phát triển KVTN.
2.2.2. Những chính sách kinh tế mới của Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân
* Khuôn khổ pháp lý chung.
Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng khuôn khổ pháp lý để khuyến khích KVTN. Tháng 12/ 1987, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Riêng đối với KVKTTN trong nước, có thể nêu một số văn bản pháp lý quan trọng nhất là: Luật Công ty (21/12/1990), Luật DNTN (1991), Hiến pháp sửa đổi (4/1992, trong đó thừa nhận và bảo hộ sở hữu tư nhân, cho phép mọi công dân được tự do kinh doanh theo pháp luật), Luật Đất đai (1993), Luật Phá sản, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (6/1994) và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi (được Quốc hội khoá X thông qua ngày 20/5/1998, có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999). Năm 1999, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật DN (có hiệu lực từ 1/1/2000).
Các bộ luật quan trọng nói trên đã tạo ra khuôn khổ pháp lý chung, thuận lợi cho sự hoạt động của hệ thống DN nói chung, khu vực KTTN nói riêng. Theo tinh thần của các bộ luật này, mọi cá nhân và tổ chức ở Việt Nam có đủ điều kiện, đều được phép đăng ký tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, phục vụ cho quốc kế dân sinh; Nhà nước tạo điều kiện cho việc sử dụng đất đai, thuê mướn mặt bằng để sản xuất kinh doanh, tuỳ theo ngành nghề và quy mô DN.
Từ chỗ bị coi là đối tượng cải tạo , cấm đoán và hạn chế phát triển, giờ đây, KVTN đã có môi trường phát triển tương đối thuận lợi và trên thực tế đã phát triển nhanh, đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Nếu như năm 1990, cả nước có khoảng 500 xí nghiệp và công ty tư nhân, khoảng 360 ngàn hộ kinh doanh cá thể, thì đến năm 1996, những con số này là 28.480 xí nghiệp và hơn 1 triệu hộ kinh doanh. Đóng góp của KVTN vào GDP năm 1996 ước tính lên tới 40,16% (chưa kể khu vực có vốn nước ngoài).
Một điểm đáng chú ý và cần nhấn mạnh là, trong điều kiện tự do kinh doanh, công tác quản lý hoạt động của các DN phải được thực hiện hết sức sát xao, chính xác - trong khi vẫn không gây khó khăn cho các DN. Đây là một điểm yếu trong quá trình thực hiện chính sách. Có thể nêu một ví dụ điển hình cho vấn đề này là: ở Thành phố Hồ Chí Minh cuối năm 1999, trước khi Luật DN có hiệu lực thi hành, thì bỗng dưng, các cơ quan chức năng thấy “biến mất” gần hai trăm đơn vị trước đó đã có trong đăng ký kinh doanh. Có lẽ, không cần phải bình luận gì thêm về công tác quản lý DN và thực hiện chính sách, khi để xảy ra hiện tượng như thế.
Ở khía cạnh khác lại phải thấy rằng, trong khi đường lối và các chính sách nói trên đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý chung khá thuận lợi thì nhiều văn bản dưới luật (những qui định của Chính phủ, của các Bộ, ngành, địa phương) lại quá chồng chéo, mâu thuẫn, gây phiền hà và khó khăn rất nhiều cho các DN. Nhằm khắc phục tình hình này, ngày 3/2/2000 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định (số 19/2000/QĐ- TTg) bãi bỏ 84 loại giấy phép liên quan đến hoạt động kinh doanh, trái với Luật DN. Hiện tại, các Bộ, ngành, địa phương đang tiếp tục rà soát các loại quy định tuơng tự để thực hiện theo tinh thần Quyết định nói trên. Đây là bước tiến tích cực, tạo thuận lợi cho hoạt động của giới kinh doanh nói chung, KTTN nói riêng.
* Chính sách cơ cấu
- Về sở hữu, nền kinh tế Việt Nam là hệ thống nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vị trí chủ đạo, đảm nhận chức năng dẫn dắt các thành phần khinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN, KTTN phát triển bình đẳng với mọi thành phần kinh tế khác.
- Nhà nước Việt Nam cho phép các thành phần kinh tế đầu tư trên mọi vùng lãnh thổ theo quy hoạch thống nhất của Nhà nước. Luật Khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi (1998) đưa ra nhiều biện pháp hỗ trợ và ưu đãi mạnh mẽ các hoạt động đầu tư trong nước nhằm phát huy tôí đa nội lực của nền kinh tế, đặc biệt dành nhiều ưu đãi cho các dự án đầu tư vào những địa bàn khó khăn.
- KVTN không bị giới hạn lĩnh vực kinh doanh. Luật DN mới ban hành gần đây nhất cho phép mọi loại hình kinh tế, trong đó có KTTN, được đầu tư kinh doanh trong mọi ngành nghề, trừ lĩnh vực an ninh quốc phòng.
- Trong tiến trình CNH - HĐH, và phát triển theo định hướng XHCN,Việt Nam dành những ưu tiên đặc biệt cho đầu tư phát triển kinh tế ở các vùng sâu, vùng xa, ở khu vực nông nghiệp và nông thôn. Hệ thống các chính sách ưu tiên theo hướng này đã đưa đến những thay đổi hết sức quan trọng ở khu vực nông nghiệp và nông thôn. Biểu hiện tập trung nhất của những thay đổi này là sự phát triển của kinh tế nông hộ và sự xuất hiện của loại hình kinh tế trang trại. Tuy nhiên, trong thực tế, KTTN hoạt động yếu trong công nghiệp, chưa được tham gia hệ thống ngân hàng và chưa dược tham gia hoạt động kinh tế đối ngoại với mức độ như DN nhà nước, và do đó, chưa có cơ hội tham gia chuyển giao công nghệ, thực hiện mục tiêu CNH và HĐH.
* Chính sách thuế
- Từ năm 1990, những cải cách thuế đã thực hiện đối xử bình đẳng giữa KVTN với KVNN. Nói một cách cụ thể, trong các luật thuế hiện nay không có bất cứ một sự phân biệt đối xử nào đối với KVKTTN.
Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, hiện nay trong chính sách thuế, các DN có vốn đầu tư nước ngoài, các DNNN được hưởng nhiều lợi ích hơn so với KTTN. Vấn đề không phải là ở chỗ các luật thuế tạo ra những kỳ thị đối với khu vực KTTN, mà là ở chỗ, những quy định dưới luật đã đưa lại những lợi ích cho các loại hình DN khác, mà KTTN không được hưởng. Chẳng hạn, những quy định về việc miễn giảm thuế lợi tức, quy định về hoàn thuế giá trị gia tăng, hay gần đây, quyết định giảm thuế xuất nhập khẩu… đều là những chính sách không nhằm vào khuyến khích khu vực KTTN.
- Một khó khăn khác trong việc thực hiện chính sách thuế là quy chế lỏng lẻo, lạc hậu về kế toán và kiểm toán trong KVTN. Điều này tạo nhiều sơ hở, gây thất thoát thuế từ khu vực này, nhất là trong điều kiện áp dụng Luật Thuế giá trị gia tăng (1/1/1999).
* Chính sách tín dụng
Chính sách về tín dụng và hỗ trợ vốn là vấn đề hết sức nhạy cảm đối với giới kinh doanh. Theo chính sách hiện hành, KVTN có quyền bình đẳng với các khu vực khác trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng. Theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, các DNTN cũng được nhận mọi sự ưu đãi cần thiết như các DN trong nước khác, được xét ưu đãi vay vốn sản xuất hàng xuất khẩu, và kể cả việc ưu đãi vay vốn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia.
Tuy nhiên, trên thực tế, trong nhiều năm qua, hầu hết các DNTN gặp khó khăn khi vay vốn ngân hàng do bị ràng buộc bởi các điều kiện thế chấp tài sản, không được thế chấp bằng quyền sử dụng đất, càng không được hưởng quy chế bảo lãnh như các DNNN. Các DNTN không đủ khả năng gọi vốn liên doanh. Chỉ có một bộ phận dân cư (nhất là nông thôn) được sự ưu đãi tín dụng qua các chương trình xoá đói giảm nghèo và cho vay phát triển kinh tế. Có thể nói rằng, trên thực tế vẫn tồn tại sự phân biệt đối xử rất lớn giữa DNTN và DNNN. Bằng chứng là, trong khi các DNTN và các loại hình dân doanh gặp khó khăn rất lớn về vốn, thì trong các năm 1997- 1999, các DNNN đã nhận được những khoản hỗ trợ khổng lồ: 6.482 tỷ đồng do cấp bổ sung vốn, 1.465 tỷ bù lỗ; ngoài ra, từ năm 1996- 1999, được miễn giảm thuế 2.228 tỷ đồng, xoá nợ 1.088,5 tỷ đồng, khoanh nợ 3.392 tỷ đồng, giảm nợ 540 tỷ, và cho vay vốn tín dụng ưu đãi 8.685 tỷ đồng; ở nhiều DNNN, số nộp của DN vào ngân sách ít hơn số tiền do nhà nước hỗ trợ. Theo hướng này, dù có thế nào đi nữa, KVKTTN cũng không thể có được vị thế bình đẳng, không thể cạnh tranh một cách lành mạnh với các DNNN.
Một cố gắng tích cực gần đây nhất nhằm cải thiện tình hình nói trên là Nghị định 178 ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. Theo quy định, các biện pháp bảo đảm tiền vay bao gồm bảo đảm bằng tài sản (cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay) và bảo đảm tiền vay trong trường hợp không có bảo đảm bằng tài sản. Các quy định trước đây buộc các DNTN khi vay vốn của các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần đều phải có tài sản thế chấp. Theo Nghị định 178, kể từ 1/1/2000, các DN thuộc mọi thành phần kinh tế, khi vay các tổ chức tín dụng không cần có bảo đảm bằng tài sản; các tổ chức tín dụng căn cứ vào uy tín, khả năng tài chính của khách hàng, hiệu quả và tính khả thi của dự án vay vốn của khách hàng để xem xét việc cho vay có cần đảm bảo bằng tài sản hay không. Có thể cho đây là một cơ hội mới đã mở ra cho các DNTN. Song điều này cũng không có nghĩa là các DNTN đương nhiên sẽ dễ dàng nhận được sự hỗ trợ tài chính của các ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại quốc doanh. Về nguyên tắc, sau khi xem xét, các ngân hàng và tổ chức tín dụng vẫn hoàn toàn có quyền từ chối hoặc đòi hỏi phải có bảo lãnh (do điều kiện kém kỷ cương của thị trường tài chính hiện nay) thì các DN thuộc KVKTTN vẫn khó có thể tiếp cận được các nguồn vốn cần thiết.
Một vấn đề khác cần phải nói thêm là, sau khi ban hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1994), chính phủ đã tiến hành lập Quỹ hỗ trợ Đầu tư Quốc gia (từ Trung ương đến địa phương) với mục tiêu ưu đãi tín dụng cho các dự án đầu tư trong nước được ưu đãi. Tuy nhiên phần lớn các khoản tín dụng từ quỹ này lại đang được dành cho các DNNN: tính đến hết tháng 6/1998, có tới 81% tín dụng từ quỹ này dành cho các DNNN; một số địa phương dành hết quỹ này cho DNNN, thậm chí dồn cho cả các DNNN không thuộc diện ưu đãi; bên cạnh đó, có tới 11 tỉnh trong nước, các nhà đầu tư tư nhân không thể tiếp cận được nguồn vốn này. Năm 1999, việc điều hành Quỹ hỗ trợ Đầu tư Quốc gia đã có cải thiện chút ít theo hướng có lợi cho KVTN. Cả nước (54/61 tỉnh, thành phố) đã duyệt ưu đãi đầu tư cho 586 dự án với tổng số vốn 7.112 tỷ đồng. Trong số này, KVTN có 429 dự án (chiếm 73,2% số dự án) được ưu đãi đầu tư. Tuy nhiên, xét về cơ cấu vốn, hơn 65% của tổng số vốn ưu đãi đầu tư là dành cho dự án của các DN nhà nước, chỉ có gần 35% là dành cho KVTN.
Có thể nói, cả chính sách tín dụng và cơ chế thực hiện đang còn nhiều bất cập, khiến cho vấn đề vốn cho KVTN còn trong tình trạng bế tắc.
* Chính sách đất đai
Trong điều kiện Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu nhà nước, chính sách đất đai giữ vai trò quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển KVTN. Luật Đất đai năm 1993 đã đặt cơ sở pháp lý cho việc các thành phần kinh tế sử dụng hợp pháp đất đai vào mục đích kinh doanh. Sau khi có Luật Đất đai, Nhà nước cũng đã ban hành Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được nhà nước giao đất và cho thuê đất.
Tuy thế, hiện nay, các nhà đầu tư tư nhân chưa được quyền chuyển nhượng, góp vốn, thế chấp hoặc cho thuê lại đối với đất kinh doanh (như trong nông nghiệp). Thêm vào đó, các quy định về việc thuê đất đối với tư nhân hết sức phiền hà, nhiều thủ tục, nhiều đầu mối; chính sách cho thuê đất đối với người đầu tư là người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam vẫn còn chưa rõ. Bởi vậy, việc giao đất và cho thuê đất đối với KVTN còn hết sức khó khăn. Chẳng hạn, sau khi có Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, tính đến hết tháng 6/1998, có 149 dự án đầu tư được cấp đất và cho thuê đất với tổng diện tích đất là 111,42 triệu m2, thì có tới 110 dự án (73,8%) với 108,6 triệu m2 (97,47% diện tích đất) là dành cho khu vực quốc doanh, KVTN chỉ nhận được rất ít trong số đó (16,2% của tổng số dự án, và 2,53% diện tích đất).
Do điều này, chính sách đất đai còn là trở ngại lớn cần phải sửa đổi nhằm thực sự khuyến khích KVTN.
* Chính sách thương mại
Từ 1989, Việt Nam thi hành chính sách tự do thương mại, cho phép các DNTN được tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Năm 1998, Nhà nước đã nới lỏng quy chế, cho phép một cách hạn chế tư nhân được phép xuất khẩu gạo.
Tuy thế, các văn bản dưới luật hiện gây khó khăn rất nhiều cho KVTN. Các DNTN gặp nhiều trở ngại khi dăng ký và xin giấy phép kinh doanh do thủ tục rườm rà và bộ máy quan liêu; họ cũng rất khó khăn để nhận được quota, so với DNNN, kể cả trong lĩnh vực gia công xuất khẩu. Có thể nói rằng, những chính sách ưu đãi trong kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay, phần lớn rơi vào tay các DN nhà nước. Sở dĩ nói như vậy là vì, hầu hết quota xuất nhập khẩu là dành cho các DNNN, các DNNN lại không phải khó khăn gì nhiều để nhận được sự bảo lãnh của ngân hàng khi tiến hành các thủ tục xuất nhập khẩu, nhất là trong việc thanh toán với ngân hàng nước ngoài. Điều này hạn chế sức cạnh tranh của KVTN.
* Chính sách lao động
Ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam ban hành Luật lao động. Sau Luật lao động, đến nay đã có 1 Pháp lệnh, 26 Nghị định, quyết định, 62 thông tư liên bộ và nhiều văn bản pháp luật khác được ban hành, căn bản tạo nên khung thể chế cho thị trường lao động. Chính sách lao động mới cho phép KVTN tự do thuê mướn, ký hợp đồng sử dụng lao động, nhưng cũng đặt ra những nghĩa vụ đối với chủ DN. Có thể nói, hiện không có bất cứ rào cản nào lớn nào ngăn trở KVTN thuê mướn và sử dụng lao động.
Tuy nhiên, KVTN vấp phải tâm lý e ngại, chưa có được lòng tin của dân cư về quan hệ lao động. Thêm vào đó, khó khăn lớn hiện nay là sự yếu kém của các cơ quan quản lý lao động của chính phủ. Các cơ quan này trên thực tế là không kiểm soát được tình hình thuê mướn và sử dụng lao động ở các DN thuộc KVTN, trong khi ở phần lớn các DNTN hiện nay đều có vấn đề vi phạm Luật lao động. Các văn bản pháp lý dưới luật cũng chưa có khả năng chi phối các DNTN trong việc chấp hành các nghĩa vụ của người sử dụng lao động đối với người lao động. Rõ rệt nhất xung quanh vấn đề này là việc trả công lao động, đóng bảo hiểm xã hội và quyền lợi cho người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động . Cũng bởi vậy, có ý kiến cho rằng, KVTN hiện nay chỉ là nơi trú chân tạm thời của người lao động- có rất ít ai muốn làm việc lâu dài ở KVTN, kể cả lớp trẻ. Đây chắc chắn là một nhân tố gây bất ổn định cho sự phát triển của KVTN.
Nhìn chung, đổi mới các chính sách kinh tế đã thúc đẩy sự phát triển của KVTN. Tuy nhiên, trên thực tế, đóng góp của KVTN vào ngân sách nhà nước hiện thấp hơn nhiều so với KVNN, tốc độ tăng trưởng của khu vực KTTN cũng thấp hơn KVNN và của nền kinh tế. Điều này chứng tỏ rằng còn có những trở ngại chính sách làm hạn chế khả năng của KVTN.
2.2.3. Một số chính sách kinh tế khác và ảnh hưởng của nó đối với khu vực
* Những chính sách và biện pháp đổi mới khu vực DN nhà nước.
Sự yếu kém và sa sút của khu vực DNNN khiến cho nó không đảm đương nổi vai trò chủ đạo, dẫn dắt các thành phần kinh tế phát triển, đã buộc Đảng và Nhà nước tiến hành cuộc cải cách toàn diện đối với khu vực này. Về thực chất, cải cách các DNNN là quá trình cơ cấu lại khu vực DNNN, biến nó trở thành một khu vực DN hoạt động hiệu quả, làm công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước, đủ sức dẫn dắt các loại hình DN khác phát triển theo định hướng XHCN. Kể từ cuối thập kỷ 80, nhà nước đã xoá bỏ các quan hệ bao cấp đối với DNNN. Đầu thập kỷ 90, quá trình cải cách được xúc tiến với những nội dung cơ bản là:
Sắp xếp lại, củng cố và lành mạnh hoá hoạt động tài chính DN.
Đổi mới công nghệ, hoàn thiện quản lý nhằm nâng cao sức cạnh tranh của DN.
Thành lập và hoàn thiện tổ chức quản lý các tổng công ty nhà nước.
Cổ phần hoá DNNN, đa dạng hoá sở hữu và quản lý DNNN.
Thanh lý, giải thể, cho phá sản những DN thua lỗ triền miên, không có khả năng cải thiện tình hình.
* Chính sách phát triển kinh tế hộ và kinh tế trang trại trang trại trong lĩnh vực nông – lâm - ngư nghiệp
Hơn mười năm qua, Chính phủ và Nhà nước đã thi hành những chính sách và biện pháp quan trọng nhằm phát triển nông – lâm - ngư nghiệp và nông thôn. Điển hình của vấn đề này là việc thực hiện chuyển đổi các hợp tác xã theo Luật hợp tác xã mới; thực hiện giao đất, giao rừng, giao quyền sử dụng mặt nước lâu dài cho nông dân; cho phép được chuyển nhượng, thừa kế phần đất đai, rừng, mặt nước được giao hay đã thuê; khuyến khích tính tự chủ của gia đình nông dân mà thực chất là khuyến khích sự phát triển của kinh tế hộ.
Yếu tố quyết định nhất trong việc khuyến khích sự phát triển kinh tế hộ nông dân là những quy định mới của chính phủ về đất đai và hỗ trợ tín dụng:
- Nghị định 12/ CP tháng 3/1993 về việc chuyển hoạt động sản xuất trực tiếp gắn với đất đai, mặt nước, cây trồng, vật nuôi, cho kinh tế hộ gia đình công nhân, kể cả hộ nông dân ngoài DN …
- Luật Đất đai với những quy định về quyền sử dụng, chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, góp đất để sản xuất kinh doanh phù hợp với mục đích và thời hạn giao đất; quy định hạn điền cho từng loại đất được giao hay thuê.
- Nghị định 163/ 1999 NĐ-CP ( tháng 11/1999) của Chính phủ về việc giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình, và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
- Ngoài ra là các chính sách nhằm hỗ trợ tín dụng cho kinh tế hộ nông dân: cho vay phát triển kinh tế của Ngân hàng phát triển nông nghiệp và nông thôn, Quỹ cho vay ưu đãi theo Chương trình 327, tín dụng ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ Đầu tư Quốc gia…
Những chính sách khuyến khích sự phát triển kinh tế hộ gia đình nông dân đã dẫn tới làm xuất hiện một loại hình tổ chức kinh tế mới là kinh tế trang trại. Với tính cách là một loại hình tổ chức đơn vị kinh doanh, kinh tế trang trại không còn là kinh tế hộ. Về thực chất, kinh tế trang trại là KTTN Trong quá trình hình thành, kinh tế trang trại tuy chưa được thừa nhận đầy đủ về mặt pháp lý, song đã có nhiều chính sách quan trọng hỗ trợ cho sự phát triển của loại hình kinh tế này. Trên cơ sở những chính sách trước kia đối với hộ nông dân, Đảng và Chính phủ đã có một số chủ trương quan trọng như : Nghị quyết TƯ 4 (12/1997), Nghị quyết TƯ6 (lần 1, tháng 10/ 1998), Nghị quyết 6 của Bộ chính trị, và Nghị quyết 03 tháng 2/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại.. Rõ rệt nhất là các chính sách sau đây:
- Luật Đất đai sửa đổi (1998), quy định hạn điền 2-3 ha đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, 10 ha đối với nuôi trồng thuỷ sản ở đồng bằng (30 ha ở miền núi), cho phép giao đất, thuê đất với thời hạn 20 năm đối với đất trồng cây hàng năm và nuôi trồng thuỷ sản, 50 năm đối với trồng cây lâu năm.
- Nghị định 51/ 1999/ NĐ-CP (tháng 7/ 1999) của Chính phủ về khuyến khích và tạo điều kiện cho hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế trang trại, nhất là ở các vùng đất trống, đồi núi trọc, bãi bồi đầm phá ven biển, thực hiện miễn thuế thu nhập cho trang trại trong thời gian tối đa.
- Nghị định 43/NĐ-CP (6/1999) về chính sách tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Nghị định 178/ NĐ-CP (12/ 1999) về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng…
Nhờ vậy, cho đến nay đã hình thành hơn 113 ngàn trang trại hoạt động trong các lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp. Đáng chú ý là, trong số các chủ trang trại hiện nay, có tới 71,19% là nông dân; mức vốn bình quân hiện nay của mỗi trang trại là 291 triệu đồng- trong đó, 91,03% là vốn tự có; quy mô đất đai bình quân là 6,5 ha. Theo tính toán sơ bộ, các trang trại đã cung ứng hàng ngàn tỷ đồng sản phẩm hàng hoá cho xã hội, tạo thu nhập khá và giải quyết được nhiều vịêc làm cho người lao động ở nông thôn. Chắc chắn, đây là một lực lượng quan trọng của KTTN trong tương lai không xa.
Tuy nhiên, sự phát triển của kinh tế trang trại đang gặp phải những trở ngại đáng kể, nổi bật là:
+ Chính sách đất đai đối với hộ gia đình và trang trại:
- Hạn điền giao đất, cho thuê đất nông nghiệp và lâm nghiệp theo quy định của Luật Đất đai hiện nay là quá thấp so với quy mô bình quân của trang trại ( 2-3 ha so với 6,5 ha). Vì vậy, dẫn đến tình trạng các chủ trang trại phải nộp thuế bổ sung rất lớn do sử dụng quá hạn điền. Điểu này thật sự gây khó khăn cho các chủ trang trại, vì nói chung họ rất thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh.
- Việc buộc các chủ trang trại phải chuyển sang chế độ thuê đất đối với phần diện tích chuyển nhượng vượt hạn điền sẽ gây trở ngại cho các trang trại muốn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh . Với quy định hiện hành, các chủ trang trại vừa phải trả tiền mua quyền sử dụng đất cho người chuyển nhượng đất, vừa phải nộp tiền cho Nhà nước về phần diện tích vượt trội. Cùng với những điều nói trên, điều này hạn chế khả năng mở rộng quy mô của các chủ trang trại, không phù hợp với chủ trương chung về việc khuyến khích phát triển loại hình kinh tế mới này.
+ Chính sách thuế đối với các trang trại :
- Về thuế giá trị gia tăng: Theo quy định của Luật thuế hiện nay, khi các chủ trang trại bán các sản phẩm thô là nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến do mình trực tiếp sản xuất thì không phải nộp thuế giá trị gia tăng; nhưng nếu chủ trang trại có đầu tư vốn, công nghệ để chế biến các sản phẩm trước khi đưa ra bán trên thị trường thì phải nộp thuế này với thuế suất 10%. Lẽ đương nhiên, nộp thuế là nghĩa vụ của người sản xuất kinh doanh. Song, trong điều kiện các trang trại ở Việt Nam quy mô nhỏ, vốn ít và thiếu thì điều này gây ra khó khăn lớn cho chủ trang trại . Thêm vào đó, đối với những sản phẩm các trang trại đưa ra bán, trước đây chỉ nộp thuế doanh thu 1-2%, nay phải nộp thuế gía trị gia tăng, tính ra, mức thuế cao gấp 4-5 lần so với thuế doanh thu. Điều này chắc chắn ảnh hưởng không tốt tới ham muốn đầu tư của các chủ trang trại, và cũng trái với chính sách CNH – HĐH nông nghiệp và nông thôn của Đảng và Nhà nước ta.
- Về chính sách thuế th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam.doc