Đề tài Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Mục lục

Lời mở đầu 2

Nội dung.

ICơ sở lí luận về kinh tế tư nhân 3

1Kinh tế tư nhân và nội dung phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta 3

1.1Khái niệm kinh tế tư nhân 3

1.2Đặc điểm của kinh tế tư nhân 3

1.3Nội dung phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta .4

1.4Mục tiêu cụ thể của kinh tế tư nhân ở nước ta .5

II Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân 6

III Các chính sách và giải pháp để phát triển 11

1Chính sách phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta 11

2Các giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta 12

Kết luận 16

 

 

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1469 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải phát triển kinh tế tư nhân nói chung và mô hình doanh nghiệp nói riêng .Sự tham gia của kinh tế tư nhân là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế tăng trưởng Đặc điểm KTTN ở nước ta : Kinh tế tư nhân mới được phục hổi và phát triển nhờ công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo Kinh tế tư nhân mới được phục hổi và phát triển nhờ công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong bối cảnh thực hiện công nghiệp hóa -hiện đại hóa , giải phóng sức sản xuất , chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành vấn đề trung tâm . 1.3 Nội dung phát kinh tế tư nhân ở nước ta Đổi mới trong nhận thức và thống nhất chỉ đạo phát triển KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . Trước năm 80 do nhận thức nhận thức được sai lầm về KTTN, xuất phát từ quan niệm cho rằng KTTN gắn liền với bóc lột nên bộ phận kinh tế này được coi là đối tượng cải tạo của xã hội và từng bước bị thu hẹp và xóa bỏ . Kể từ khi thực hiện các chính sách đổi mới kinh tế , nhất là sau đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng , KTTN đã được hồi sinh trở lại và mở rộng quy mô , phạm vi hoạt động khá nhanh . - Đổi mới tổ chức quản lí kinh tế tư nhân theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế qua việc định rõ tiêu chuẩn doanh nghiệp vừa và nhỏ theo ngành kinh tế ; định hướng rõ hơn chính sách ưu đãi doanh nghiệp vừa và nhỏ giúp kinh tế tư nhân phát triển đúng hướng . Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận với một thị trường toàn cầu rộng lớn , tăng khả năng thu hút vốn , tiếp cận chuyển giao công nghệ và nguồn tri thức , tăng cường năng lực quản lý , nâng cao năng lực cạnh tranh. Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế còn đặt ra cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam nhiều thách thức .Nếu không có sự hỗ trợ của chính phủ với các biện pháp ứng phó tốt để vượt qua khó khăn và phát triển bền vững thì nguy cơ “ thua ngay trên sân nhà “ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam không xa sẽ thành hiện thực . 1.4 Mục tiêu cụ thể của kinh tế tư nhân ở nước ta - Phát triển mạnh mẽ các hộ kinh doanh cá thể ở lĩnh vực phù hợp .Tăng thêm vốn và trình độ của những hộ kinh doanh nhỏ . Một bộ phận không ít các hộ sản xuất , kinh doanh sẽ phát triển chuyển thành doanh nghiệp .Khi trở thành các doanh nghiệp thì sẽ có điều kiện thuận lợi hơn về huy động và sử dụng nguồn lực để phát triển với quy mô lớn hơn , làm ăn lâu dài hơn . - Mục tiêu phát triển trang trại trong thời gian tới là kết hợp giữa trồng trọt , chăn nuôi , sản xuất , chế biến và kinh doanh tổng hợp .Vì vậy , sẽ có những trang trại quy mô lớn , sản xuất kinh doanh mới , mở rộng và phát triển theo chiều sâu. Hình thành một số doanh nghiệp của tư nhân có năng lực cạnh tranh cao , tham gia các tập đoàn kinh tế mạnh do doanh nghiệp nhà nước làm nòng cốt .Đến năm 2010 sẽ có 50 vạn doanh nghiệp của tư nhân được đăng kí .Đến thời điểm đó , các doanh nghiệp của tư nhân sẽ trở thành nòng cốt của kinh tế tư nhân , trở thành động lực cho phát triển kinh tế - xã hội . Tăng tỉ trọng doanh nghiệp của tư nhân hoạt động trong các ngành công nghiệp , trước hết là công nghiệp chế biến .Khuyến khích họ tham gia những dịch vụ có giá trị gia tăng cao.Tăng cường sự tham gia vào các hoạt động công ích .Từng bước mở rộng hoạt động đầu tư ra nước ngoài. II THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Một trong những thành tựu lớn của công cuộc đổi mới hơn 20 năm qua ở nước ta là đã hình thành một nền kinh tế đa thành phần , với các khu vực kinh tế khác nhau ngày càng phát triển năng động .Trong số đó khu vự trẻ trung và năng động nhất là khu vực KTTN trong nước.Nhưng trong bước đường phát triển vừa qua cũng như trong thời gian tới , khu vực kinh tế này còn phải đương đầu với rất nhiều khó khăn , trở ngại .Để có thể trở thành động lực tăng trưởng thực thụ và tham gia hội nhập quốc tế thành công , họ sẽ phải vượt qua những thử thách rất lớn . Khu vực KTTN ở nước ta bao gồm hơn 200.000 doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp , hơn 2,6 triệu hộ kinh doanh cá thể , một bộ phận của gần 100.000 trang trại và hơn 10 triệu hộ nông dân có sản xuất nông sản hàng hóa không tham gia các hợp tác xã hoặc tổ hợp tác.Trong số này, 200.000doanh nghiệp tư nhân (DNTN) , với các hình thức tổ chức khác nhau ( công ty trách nhiệm hữu hạn , công ty cổ phần , công ty hợp danh , doanh nghiệp tư nhân một chủ ) , có đủ tư cách pháp nhân , thường được coi là khu vực doanh nghiệp tư nhân chính thức ; số còn lại được tổ chức kinh doanh ở hình thức thấp hơn, chưa có tư cách pháp nhân và do đó thường được coi là khu vực tư nhân phi chính thức hoặc phi hình thức . Từ khi luật doanh nghiệp được thi hành ( 1-1-2000) DNTN ở nước ta đã phát triển mạnh mẽ .Trước đó , trong thời gian 10 năm chúng ta đã thi hành được một đội ngũ khoảng 40.000 doanh nghiệp ,nhưng với quyền kinh doanh còn hạn chế, dị trói buộc và kỳ thị nặng nề .DNTN của chúng ta vẫn chỉ là một lực lượng nhỏ yếu , bị xem nhẹ và đóng góp không đáng kể vào nền kinh tế. Trong suốt hơn một thập kỷ đầu cải cách , kinh tế nước ta tăng trưởng chủ yếu nhờ hai động lực xuất khẩu và đầu tư nước ngoài , còn khu vực tư nhân chưa trở thành động lực phát triển như ở các “ con rồng châu Á “ và hầu hết các nước khác. Cơ hội lớn : Từ năm 200 trở lại đây , khu vực KTTN nói chung , DNTN nói riêng , đang phát triển mạnh , đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và ngày càng khẳng định vai trò động lực của mình . Với việc thi hành luật doanh nghiệp và hàng loạt các biện pháp cải cách khác , môi trường kinh doanh ở nước ta trong mấy năm gần đây đã có những cải thiện quan trọng theo hướng mở rộng quyền tự do kinh doanh của người dân trên nguyên tắc doanh nghiệp và người dân tự do kinh doanh tất cả những lĩnh vực mà phát luật không cấm , khuyến khích người dân làm ăn , kinh doanh làm giàu cho mình và cho đất nước , khuyến khích mọi doanh nghiệp tham gia các ngành xuất khẩu , chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ …Chính trong môi trường đó , khu vực KTTN và đặc biệt là DNTN đã phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng , đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của đất nước trên các mặt : tạo công ăn việc làm , tăng vốn đầu tư phát triển , mở rông xuất khẩu , thúc đẩy tăng trưởng các ngành kinh tế công nghiệp nông nghiệp , dịch vụ , thúc đẩy phát triển các thị trường , đổi mới kinh tế và hành chính … Khu vực KTTN phát triển nhanh chóng trong thời gian qua còn do tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước , khởi đầu từ khi chúng ta đổi mới , và đặc biệt phát triển từ giữa thập kỷ 90 , khi nước ta lần lượt tham gia ASIAN ,ASEM ,APEC và không ngừng mở rộng quan hệ song phương với các nước khác trên thế giới .Thị trường các nước mở rộng dần cho các sản phẩm của Việt Nam đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam , trong đó có khu vực KTTN phát triển sản xuất , kinh doanh các sản phẩm của mình trên thị trường khu vực và quốc tế .Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thị trường trong nước còn hạn hẹp do nghèo , mức thu nhập và khả năng tiêu dùng còn thấp , các doanh nghiệp Việt Nam rất thiếu “đầu ra” .Các quan hệ thương mại và đầu tư rộng mở cũng tạo cho doanh nghiệp Việt Nam cơ hội có các đối tác làm ăn ,cơ hội học hỏi kinh nghiệm quản lý , tiếp thu công nghệ của họ , đào tạo nguồn nhân lực cho mình và trưởng thành dần qua hợp tác và cạnh tranh . Khi nước ta tham gia WTO , các cơ hội này lại càng mở rộng , những rào cản sẽ được dỡ bỏ , các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có vị trí bình đẳng , không bị phân biệt đối xử trên thị trường các nước .Họ sẽ có quyền không chỉ xuất nhập khẩu , tiếp nhận đầu tư , mà còn mở rộng nhiều phương thức hợp tác khác và đầu tư ra các thị trường nước ngoài , khai thác tối đa những lợi thế cạnh tranh của mình và tận dụng sự phân công lao động quốc tế , tham gia mạng lưới kinh doanh và chuỗi giá trị toàn cầu theo cách có lợi nhất cho mình .Tham gia WTO cũng thúc đẩy nước ta cải thiện mạnh mẽ môi trường pháp lý , chính sách cho kinh doanh , tạo thuận lợi cho cạnh tranh và phát triển của mọi doanh nghiệp . Thách thức không nhỏ : Tuy nhiên, trong bước đường phát triển vừa qua cũng như trong thời gian tới , khu vực kinh tế này còn phải đương đầu với nhiều khó khăn trở ngại : Một là , bản thân khu vực KTTN và các DNTN của nước ta nhìn chung còn nhỏ , yếu , mới hình thành , rất thiếu các nguồn lực cần thiết cũng như sự liên kết để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển . Trong DNTN của chúng ta có tới 95% thuộc quy mô vừa và nhỏ ( theo tiêu chí của nước ta là có dưới 300 lao động và /hoặc dưới 10 tỉ đồng vốn ) trong đó khoảng 50% thuộc quy mô nhỏ hoặc cực nhỏ ( dưới 100 lao động và /hoặc dưới 5 tỉ đồng vốn ) .Cái yếu nhất của DNTN ở nước ta thể hiện rõ nhất ở năng suất lao động , hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh nhìn chung còn thấp so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngòai và doanh nghiệp các nước xung quanh .Họ cũng yếu hơn phần lớn các các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong cùng lĩnh vực về quy mô , về khả năng tiếp cận các nguồn lực và kinh nghiệm thương trường .Do nhỏ , yếu , DNTN nước ta rất khó đương đầu với cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường trong nước và quốc tế , vừa dễ bị tổn thương trước những biến động thị trường .Hơn 80% DNTN ở nước ta mới ra đời sau khi luật doanh nghiệp 1999 được thi hành nên họ còn rất thiếu kinh nghiệm thương trường , chưa đủ thời gian để trưởng thành , trong khi đã phải đối phó với áp lực cạnh tranh ngày càng mạnh . Hầu hết các DNTN ở nước ta đều thiếu những nguồn lực cơ bản cần thiết cho họ : nguồn vốn , đất đai , công nghệ , kỹ năng quản lý , nhân lực có chất lượng , thị trường , thông tin …và cả mối quan hệ với các đối tác quan trọng .Bản thân họ không thể có đủ nguồn lực , lại gặp khó khăn rất lớn trong việc tiếp cận với các nguồn lực sẵn có ở bên ngoài doanh nghiệp , kể cả những nguồn được nhà nước cam kết hỗ trợ , ưu đãi hoặc giành quyền bình đẳng khi tiếp cận .Tình trạng thiếu nguồn lực của DNTN bị kéo dài đã hạn chế rất lớn sự phát triển của họ .Tuy trong thời gian qua ,DNTN đạt tốc độ phát triển nhanh trên một số lĩnh vực , nhưng điều đó cũng do điểm xuất phát của họ rất thấp .Nếu tính tới hàm lượng tăng trưởng ,DNTN khó sánh được với DNNN , còn tính cả về hàm lượng và chất lượng họ cũng khó sánh được với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài , nhất là trong phát triển công nghiệp và các lĩnh vực đòi hỏi nguồn vốn lớn .Do vậy ,DNTN vừa khó cạnh tranh vừa khó là đối tác bình đẳng với DNNN , doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp nước khác .Cho tới nay , số DNTN trưởng thành , đạt quy mô kinh tế hiệu quả còn chiếm tỷ lệ thấp trong DNTN ở nước ta .Ngay trong số doanh nghiệp tư nhân đã trưởng thành cũng không ít doanh nghiệp đang lúng túng về chiến lược và nguồn lực để tiếp tục phát triển trong thời gian tới DNTN cũng chưa thiết lập được sự liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế với nhau trong từng ngành , giữa các ngành liên quan , hoặc trong từng vùng để tạo thế mạnh của tính hệ thống và hiệu quả của sự phối hợp .Từng DNTN mới chỉ dựa vào sức mính là chính , chưa khai thác , sử dụng được sức mạnh của sự liên kết vốn cần thiết , nhất là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ . Thực tế cho thấy đây cũng là vấn đề chung của các doanh nghiệp Việt Nam , với những mạng lưới kinh doanh chưa được hình thành đầy đủ , thiếu những doanh nghiệp thật mạnh có khả năng làm trụ cột , đầu đàn tạo sự liên kết , hợp tác vững chắc để thêm sức mạnh trong cạnh tranh quốc tế . Hai là , môi trường kinh doanh trong nước còn nhiều khó khăn và thiếu bình đẳng .Tình trạng này kéo dài đã lâu nhưng chậm được khắc phục , khiến cho môi trường kinh doanh luôn là thách thức lớn nằm ngoài khả năng kiểm soát của doanh nghiệp .Trong môi trường kinh doanh ở nước ta hiện nay , trở ngại lớn nhất của khu vực KTTN và DNTN là ở 5 điểm sau : +Việc gia nhập thị trường tuy đã được cải thiện nhiều do luật doanh nghiệp nhưng vẫn còn đỏi hỏi chi phí cao về tiền của và thời gian .Do vậy ,vẫn còn có khó khăn cho nhiều người , nhiều vùng kinh tế muốn lập thêm doanh nghiệp mới .Hiện nay , ngoài khâu đăng ký kinh doanh là nhanh chónh và ít tốn kém nhất , các doanh nghiệp mới ra đời còn phải qua 3 khâu ( khắc dấu , đăng ký mã số thuế , mua hóa đơn ) trước khi có thể bắt đầu hoạt động, với tổng thời gian 50-60 ngày và chi phí khoảng 5-6 triệu đồng , tương đương với 49% thu nhập bình quân đầu người trong 1năm ở nước ta .Ngoài ra , quyền kinh doanh của DNTN trong một số lĩnh vực cũng còn bị hạn chế , hoặc do các quy định về điều kiện kinh doanh hoặc do quy hoạch ngành , vùng ở một số nơi , hoặc do các rào cản thực tế khác . + Còn những rào cản lớn về mặt pháp lý và hành chính trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp .Hệ thống luật pháp và chính sách của nước ta còn những nhược điểm : thiếu minh bạch , thiếu nhất quán , thiếu ổn định khó tiên liệu ; tổ chức thực thi lại kém .Hế thống hành chính của ta kém hiệu quả , với tình trạng can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp phổ biến và kéo dài .Sự yếu kém , nhũng nhiễu của không ít công chức đã làm vô hiệu hóa những chính sách tốt và cam kết cải cách của Nhà nước .Nhiều vướng mắc của doanh nghiệp trong lĩnh vực thanh tra ,kiểm tra, thuế ,phí , hải quan , đất đai ..kéo dài đã lâu nhưng rất chậm được giải quyết .Đó là những vấn đề chung của mọi loại hình doanh nghiệp ở nước ta , nhưng đối với DNTN , những vấn đề này còn nặng nề hơn do sự phân biệt đối xử vẫn tồn tại trên thực tế + Tiếp cận các nguồn lực rất khó khăn và tốn kém .Như đã nêu trên ,DNTN rất khó tiếp cận với các nguồn lực cần thiết , họ phải trả giá rất cao để tiếp cận những nguồn lực đó .Trong khi đó , các doanh nghiêph nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại được tiếp cận dễ dàng hơn , với những điều kiện ưu đãi , chi phí thấp hơn nhiều .Thực tế này gây ra sự bất bình đẳng lớn cho DNTN, làm cho họ mất đi nhiều cơ hội thị trường , tăng rủi ro và giảm đáng kể khả năng đầu tư của họ . + Chi phí kinh doanh ở nước ta là khá cao so với các nước trong khu vực , khiến cho doanh nghiệp của ta có thể giảm giá thành để nâng cao năng lực cạnh tranh.Đồng thời chi phí cao cũng hạn chế khả năng sinh lời , làm giảm động lực và nguồn lực kinh doanh , cản trở nhiều người đi vào hoạt động thương trường hoặc tích lũy thêm vốn cho đầu tư mới . So với các nước trong khu vực , chi phí kinh doanh ở nước ta cao về nhiều mặt .Các dịch vụ hạ tầng như đất đai , nhà xưởng , điện nước , thông tin liên lạc …đều có mức giá cao , chất lượng phục vụ thì thấp khiến cho chi phí thực tế đối với doanh nghiệp càng lớn .Chi phí vốn cao về lãi suất , phí tiếp cận , lại khó vay trung hạn , dài hạn nên thêm đắt đỏ cho các doanh nghiệp cần vốn đầu tư .Chi phí hành chính , chi cho các dịch vụ cần thiết , nhiều khoản chi không được tính vào giá thành để trừ thuế … càng làm tăng chi phí thực của doanh nghiệp .Những nguyên nhân cơ bản của tình trạng chi phí kinh doanh cao ở nước ta như quản lý yếu kém , độc quyền kinh doanh của một số DNNN trong một số lĩnh vực … chậm được khắc phục , nên tình trạng này kéo dài và trở thành gánh nặng lớn đối với DNTN. + Thiếu hệ thống dịch vụ và tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp .Hệ thống phục vụ phát triển kinh doanh , hệ thống tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp rất cần thiết đối với khu vực KTTN, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa , các doanh nghiệp phi hình thức .Ở nước ta , cả 2 hệ thống này đề chưa được phát triển , vừa thiếu , vừa yếu , vừa kém về chất lượng . Ba là , thách thức của môi trường kinh doanh quốc tế trong tiến trình hội nhập. Là nước đi sau, doanh nghiệp tham gia sâu vào thị trường thế giới, nước ta và các doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực KTTN gặp không ít trở ngại trong quan hệ với cộng đồng kinh doanh quốc tế trên thế giới. Trước hết, môi trường kinh doanh quốc tế chứa đựng nhiều điều kiện không thuận lợi cho các nước đang phát triển như nước ta. Sự bất công, bất bình đẳng không những không giảm mà còn có chiều hướng tăng lên trên nhiều lĩnh vực. Các nước lớn, các công ty đa quốc gia nắm quyền chi phối thị trường đã luôn tìm cách lái thị trường thế giới theo hướng có lợi cho họ. Trong khi các nước đang phát triển luôn luôn gặp sức ép đòi phải mở cửa thị trường, thì trong thực tế các rào cản thuế và phi thuế, các hàng rào kỹ thuật lại ngày càng được các nước phát triển dựng lên nhiều hơn, gây trở ngại cho xuất khẩu của các nước đang phát triển. Nước ta và khu vực KTTN của nước ta thậm chí còn phải chịu sự phân biệt đối xử từ những thủ tục như chứng minh năng lực sản xuất, kiểm tra tại doanh nghiệp... do một số nước bạn hàng tạo thêm. Trong điều kiện như vậy, khoảng cách với bạn hàng, sự hạn chế của khu vực KTTN do thiếu thông tin, hiểu biết, kinh nghiệm, kỹ năng, phương tiện trong kinh doanh quốc tế càng đẩy chúng ta vào thế khó khăn hơn. Trong tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta còn đang bị sức ép rất lớn về thời gian. Nước ta cần hội nhập sớm, nhưng doanh nghiệp ta lại có quá ít thời gian để chuẩn bị. Chúng ta phải chấp nhận cạnh tranh toàn cầu ngay từ bây giờ, trong khi năng lực cạnh tranh của chúng ta còn thấp và phải mất nhiều thời gian, công sức để cải thiện. Chúng ta phải cố gắng để theo kịp trình độ phát triển ở một số nước khác, nhưng do thế giới bên ngoài thay đổi nhanh, nên tốc độ và chất lượng thay đổi của chúng ta khó theo kịp họ. Dù tốc độ tăng trưởng GDP, tăng trưởng xuất khẩu của nước ta hiện nay có khá cao, thì với hàm lượng tăng nhỏ hơn, năng suất lao động thấp hơn nhiều nước khác, trên thực tế chúng ta vẫn đang tụt lại xa hơn sau họ. Thực tế đó còn khiến chúng ta kém khả năng ứng phó với các biến động của thị trường và dễ bị tổn thương hơn... III CÁC CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KTTN 1Các chính sách phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta * Chính sách thuế : Chính sách thuế đã có nhiều mặt tích cực, hỗ trợ cho các cơ sở kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân phát triển sản xuất kinh doanh: hệ thống thuế ngày càng hoàn chỉnh hơn, mục đích của các sắc thuế rõ ràng hơn; đối tượng chịu thuế được mở rộng, về cơ bản không có sự phân biệt đối xử theo thành phần kinh tế; thuế suất áp dụng theo hướng áp dụng thống nhất cho các đối tượng và đơn giản hóa: giảm cả về số lượng và mức thuế suất; có nhiều ưu đãi thuế cho các cơ sở kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân theo các sắc lệnh thuế hiện hành. * Chính sách vốn, tín dụng Chính sách vốn, tín dụng đã có nhiều đổi mới rất cơ bản, góp phần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi hơn cho khu vực kinh tế tư nhân trong hoạt động sản xuất- kinh doanh của mình.Tạo môi trường và điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả .Nhưng bên cạnh đó chính sách tín dụng còn nhiều điểm bất hợp lý. Và một trong những bất lợi đối với khu vực kinh tế tư nhân là vấn đề thế chấp . *Chính sách thương mại Chính sách thương mại được đổi mới trên các mặt: tự do hoá thương mại, đổi mới chính sách xuất nhập khẩu, đổi mới hệ thống thuế quan, giảm bớt các quy định về hạn ngạch. - Tự do hoá thương mại bao gồm tự do hoá giá cả, tự do kinh doanh, bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. -Đổi mới chính sách xuất nhập khẩu: chuyển từ độc quyền ngoại thương do một số công ty ngoại thương của Nhà nước nắm giữ sang khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế cùng tham gia. -Đổi mới hệ thống thuế quan: giảm mức thuế và hợp lý hoá thuế xuất nhập khẩu. -Đổi mới thủ tục hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu. -Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu: chuyển từ quản lý bằng phương pháp hành chính là chủ yếu sang quản lý bằng phương pháp kinh tế. *Chính sách khoa học- công nghệ Trong thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới chính sách khoa học-công nghệ với các nội dung: xác định phương thức nhập công nghệ hợp lý; khuyến khích đầu tư nước ngoài có công nghệ tiên tiến, các ưu đãi về công nghệ mới, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và triển khai; khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo kỹ năng và xây dựng kết cấu hạ tầng khoa học- công nghệ, tạo môi trường thị trường và thông tin khoa học- công nghệ thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân hoạt động 2 Các giải pháp phát triển KTTN ở nước ta * Hỗ trợ tài chính Thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam vừa được khôi phục lại với thời gian không nhiều trong một nước nông nghịêp nghèo nàn lạc hậu. Do vậy vốn cho cán bộ, các doanh nghiệp tư nhân tất yếu phải được quan tâm hỗ trợ bằng nhiều hướng và nhiều cách: hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách Nhà nước, hỗ trợ thông qua các dự án trong và ngoài nước, hỗ trợ thông qua các quỹ và qua hệ thống ngân hàng. Bộ tài chính cùng ngân hàng nhà nước cần phối hợp với phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam và các tổ chức hiệp hội khác để xây dựng các chương trình mục tiêu cụ thể theo hướng xác định để trình chính phủ duyệt. Do đó cần phải có những định hướng cơ bản cho từng phương thức hỗ trợ tài chính như sau: - Hỗ trợ trực tiếp qua ngân sách nhà nước: Về nguyên tắc, Nhà nước không bỏ vốn đầu tư ban đầu cho doanh nghiệp tư nhân song phải được tâm lý yên tâm và niềm tin của chủ đầu tư giám chuyển hết số tiền có thể có vào vốn đầu tư. Trong trường hợp cần thiết và những hoàn cảnh cụ thể, chính phủ hoặc các doanh nghiệp nhà nước có thể tham gia đầu tư thông qua mua trái phiếu hoặc đầu tư liên doanh với các chủ doanh nghiệp tư nhân. Với doanh nghiệp thuộc dạng nghiên cứu và triển khai cần có sự hỗ trợ của chính phủ về chi phí cho các công trình, sản phẩm nghiên cứu hoặc các chuyến đi tìm hiểu thị trường nước ngoài được tổ chức hàng năm để tìm hiểu công nghệ mới, tìm đối tác liên doanh hay tham gia vào các chương trình nghiên cứu, các cuộc hội thảo khoa học trong lĩnh vực kinh doanh. Những đối tượng đầu tư theo phương thức nàyphải được thể hiện trong các chương trình mục tiêu nói trên. Ngoài ra , chính phủ có thể hỗ trợ một phần vốn điều lệ qua các ngân hàng thương mại thẩm định về cấp vốn hoặc cho vay dài hạn với lãi xuất ưu đãi. Đồng thời tranh thủ các dự án của các tổ chức phi chính phủ - Về vay vốn ngân hàng: Cần giúp khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận tốt hơn với ngân hàng qua “ chương trình hỗ trợ vốn với khu vực kinh tế tư nhân”. Mục tiêu của chương trình này giúp các nhà kinh doanh hiểu rõ hơn về các dịch vụ của các ngân hàng trên cả nước do Ngân hàng Nhà nước trực tiếp cung cấp thông tin. Đồng thời cần giúp cho các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về chế độ cho vay và ưu đãi vay. Chương trình này sẽ giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí tìm kiếm thông tin và nhanh chóng tìm ra ngân hàng phù hợp với mình. Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với các tỉnh, thành phố để xác định chính xác hơn danh mục mặt hàng được vay ưu đãi, tránh tình trạng có tỉnh không được cho vay ưu đãi ngay với mặt hàng chủ lực của tỉnh. Cải tiến về các điều kiện thế chấp tài sản: Nhà nước cần điều chỉnh lại giá nhà đất cho phù hợp với thực tế. Trong khi chưa có điều chỉnh này thì các ngân hàng phải linh hoạt trong việc định giá đối với tài sản thế chấp để số tiền cho vay gần bằng tài sản thế chấp. Mặt khác, hiện nay chính phủ đã có nghị định về thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng, nhưng trong thực tế quỹ này đang gặp khó khăn trong việc phát triển ở các địa phương. Do vậy Ngân hàng nhà nước cần phối hợp với các địa phương để triển khai tốt quỹ này. Bên cạnh đó cần gia tăng các hoạt động tư vấn và các hoạt động đan xen giữa ngân hàng với công ty được cho vay vốn để có thể kiểm soát được tình trạng sử dụng vốn, đồng thời tăng niềm tin của doanh nghiệp với khách hàng. Về lâu dài, cần nghiên cứu kinh ngiệm của các nước phát triển trong việc thành lập các quỹ và các tổ chức ngân hàng chuyên phục vụ doanh nghiệp vừa và nhỏ. * Bồi dưỡng và nâng cao trình độ nghề nghiệp và quản lý trong khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Trình độ nghề nghịêp và quản lý của các cơ sở kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian này cũng có thể coi là dạng hình thức vốn tri thức. Giải quyết vấn đề này cần thông qua những chương trình dự án khác nhau như chương trình đào tạo nghề, chương trình tư vấn phát triển, chương trình đào tạo quốc gia. Nguồn đào tạo cho hoạt động này thu từ các doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp phải nộp từ 1 đến 3% thu nhập của công dân nhưng không cao hơn một mức cố định nào đó. Chương trình hỗ trợ đào tạo nghề từ nguồn tài trợ trên về kinh phí huấn luyện nghề nghiệp để giúp các chủ doanh nghiệp đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân. Chương trình này tạo cho công nhân nâng cao tay nghề hay học những nghề mới để có thể tìm được việc làm ổn định. * Cải thiện môi trường tâm lý xã hội đối với khu vực kinh tế tư nhân. Môi trường tâm lý phụ thuộc vào hai yếu tố: xã hội và bản thân cơ sở kinh doanh. Về phía xã hội, nếu giải quyết được những vấn đề nhận thức về thành phần kinh tế và giai cấp, về trách nhiệm của mỗi người trong phát triển kinh tế tư nhân thì tâm lý xã hội sẽ được giải toả, niềm tin của doanh nhân sẽ được nâng cao và đầu tư phát triển cũng như hiệu quả của nó đối với xã hội sẽ có những thay đổi đột biến. Về phía các doanh nhân và cơ sở sản xuất cũng cần phát huy nội lực của mình. Song trong

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11815.doc
Tài liệu liên quan