Đề tài Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kì qua độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 2

I. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam. 2

1.1. Kinh Tế Tư Nhân - tính tất yếu tồn tại và phát triển KTTN trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam. 2

1.1.1_ Quan niệm về Kinh Tế Tư Nhân. 2

1.1.2 _ Đặc điểm của Kinh tế Tư Nhân ở nước ta hiện nay. 2

1.1.3_ Sự tồn tại, phát triển Kinh Tế Tư Nhân định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu khách quan và lâu dài. 3

1.2_ Quan niệm của Đảng ta về mô hình Kinh Tế Tư Nhân trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam. 4

1.2.1_ Quan niệm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển khu vực Kinh Tế Tư Nhân. 4

1.2.2_ Bản chất của Kinh tế tư nhân. 6

1.2.3_ Những đặc trưng của Kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay. 6

1.3_ Cơ sở thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay. 7

II_ Thực trạng phát triển Kinh Tế Tư Nhân ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ. 8

2.1_ Những thành tựu đạt được của Kinh tế tư nhân. 8

2.1.1_ Sự phát triển về số lượng của khu vực Kinh tế tư nhân. 8

2.1.2_ Về quy mô vốn, lao động và lĩnh vực, địa bàn kinh doanh. 9

2.1.3_ Đóng góp của khu vực Kinh tế tư nhân. 10

2.2_ Một số hạn chế của khu vực kinh tế tư nhân. 12

2.3_ Những rào cản đối với sự phát triển kinh tế tư nhân. 13

III_ Một số phương hướng, chính sách và giải pháp phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay. 16

3.1_ Phương hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân. 16

3.2_ Một số chính sách cụ thể khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam. 17

3.3_ Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay. 20

KẾT LUẬN 23

DANH MÔC TµI LIÖU THAM KH¶O 24

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1449 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kì qua độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình chuyển đổi của nền kinh tế nước ta trong những năm qua cũng đã chứng minh điều đó. Sự hồi sinh và phát triển của kinh tế tư nhân trong những năm đổi mới chính là nhờ sự kết hợp đúng lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong quá trình sản xuất, do đó đã tạo động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do gằn liền với lợi ích cá nhân nên kinh tế tư nhân có sức sống mãnh liệt. Trong một thời gian dài, kinh tế tư nhân, cá thể bị ngăn cấm bởi các mệnh lệnh của nhà nước nhưng vẫn tồn tại như một tất yếu khách quan. Hai là, kinh tế tư nhân mà tiêu biểu là doanh nghiệp của tư nhân, là mô hình tổ chức kinh doanh của nền sản xuất hàng hoá. Hoạt động sản xuất trao đổi hàng hoá ra đời gắn liền với sự phân công lao động xã hội. Bắt đầu từ thời kì tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, cùng với nó là nền sản xuất hàng hoá giản đơn, gắn liền với nền sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp. Hình thức tổ chức sản xuất doanh nghiệp là sản phẩm của nền sản xuất xã hội hoá. Nó được phát triển cùng với sự xác lập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và gắn liền với nền đại công nghiệp. Với hình thức tổ chức sản xuất doanh nghiệp, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất tăng lên nhiều , trình độ xã hội hoá cũng được phát triển nhanh chóng. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Trong đó, cơ cấu của kinh tế thị trường chủ yếu dựa trên cơ sở của mô hình tổ chức doanh nghiệp có mục tiêu cao nhất. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người cho đến nay, đó là mô hình tổ chức kinh doanh có hiệu quả nhất, có vai trò thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy, mô hình tổ chức doanh nghiệp đã, đang và còn tiếp tục là một mô hình tổ chức kinh tế có hiệu quả, phù hợp với cơ chế thị trường hiện đại. Ba là, kinh tế tư nhân là bộ phận quan trọng của kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường là cách thức tốt nhất và duy nhất để một nền kinh tế vận hành có hiệu quả cao, và là phương tiện để đạt đến một nền sản xuất lớn, hiện đại. Ngược lại, kinh tế thị trường khó có thể tồn tại và phát triển nếu không có sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân. Nói cách khác, cơ chế thị trường hiện đại chính là dạng thức sinh tồn của kinh tế tư nhân mà điển hình là mô hình tổ chức doanh nghiệp. Hình thức tổ chức sản xuất này là sản phẩm tự nhiên của cơ chế thị trường và tự nó lớn lên trong cơ chế thị trường. 1.3_ Cơ sở thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay. Sở hữu tư nhân và khu vực kinh tế tư nhân là một trong những vấn đề chủ yếu trong chuyển đổi kinh tế rất nhạy cảm ở Việt Nam. Sau năm 1978, Việt Nam phải đối mặt với những vấn đề đời thường của thời bình. Nền kinh tế VN rơi vào khó khăn, thậm chí khủng hoảng cùng với cuộc chiến tranh biên giới Bắc - Trung Nam, cấm vận kinh tế của phương Tây. Trước đây, trong cơ chế thị trường quan liêu, bao cấp, khu vực kinh tế tư nhân không có điều kiện tồn tại, bị coi là loại hình kinh tế xấu vì nó là tàn dư của chế độ cũ , mang nặng tính chất bóc lột, ăn bám. Trong công cuộc đổi mới (1986), Đảng ta chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Quan hệ thị trường đã từng bước mệt nhọc vượt qua cơ chế kế hoạch hoá tập trung để hình thành và phát triển một quan hệ mới, đó là doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, các hoạt động kinh tế tư nhân ngày càng tăng lên và giữ vai trò quan trọng. Trong thời kì quá độ, nền kinh tế nước ta đang rất khó khăn: viện trợ từ nước ngoài bị cắt, dự trữ từ thời kỳ chiến tranh giảm mạnh, nền kinh tế bị bao vây, cấm vận, cơ chế kế hoạch hoá tập trung trói buộc tiềm năng con người và các tổ chức kinh tế; do vậy không đáp ứng được nhu cầu hàng hoá và dịch vụ của nhân dân đang ngày càng tăng lên sau một cuộc chiến tranh lâu dài, khắc nghiệt. Trong thời kỳ này, nhà nước, dân tộc bắt đầu suy yếu, thêm vào đó hiệu quả sản xuất thấp của các doanh nghiệp công do cách quản lý quan liêu bao cấp cứng nhắc, cơ cấu cồng kềnh, hiệu suất sử dụng vốn thấp càng khẳng định rõ hơn vai trò cuả Kinh tế tư nhân, thể hiện quy luật phát triển kinh tế riêng.Tư nhân hoá được xem như một công cụ nâng cao tinh hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Kinh tế tư nhân là một nhân tố quan trọng thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển, đặc biệt trong giai đoạn quá độ lên CNXH. II_ Thực trạng phát triển Kinh Tế Tư Nhân ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ. 2.1_ Những thành tựu đạt được của Kinh tế tư nhân. 2.1.1_ Sự phát triển về số lượng của khu vực Kinh tế tư nhân. - Về hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ. Hộ kinh doanh cá thể có số lượng lớn và tăng nhanh. Tính đến cuối năm 2003, cả nước có 2,7 triệu hộ kinh doanh cá thể công thương nghiệp, 130.000 trang trại và trên 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hoá. Nếu tính ở thời điểm năm 2000, thì số hộ kinh doanh thương mại, dịch vụ chiếm 51,89%, số hộ sản xuất công nghiệp chiếm 30,21%, giao thông vận tải chiếm 11,63%, xây dựng chiếm 0,81%, các hoạt động khác chiếm 5,64%. Số hộ kinh doanh trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp thương mại và dịch vụ tăng lên 3 triệu hộ năm 2005. - Về doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân: Năm 1991, cả nước chỉ có 414 doanh nghiệp thì đến năm 1992 có 5.189 doanh nghiệp, năm 1995 có 15.276 doanh nghiệp, năm 1999 có 28.700 doanh nghiệp. Trong giai đoạn 1991- 1999, bình quân mỗi năm tăng thêm 5.000 doanh nghiệp. - Luật doanh nghiệp có mặt từ ngày 1-1-2000 là một khâu đột phá thúc đẩy sự phát triển vượt bậc của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Sau gần 4 năm thực thi Luật doanh nghiệp, đến cuối năm 2003 đã có gần 73.000 doanh nghiệp mới đăng kí, đưa tổng số doanh nghiệp đăng kí lên gần 120.000 doanh nghiệp. Sau gần 5 năm thi hành luật doanh nghiệp đến cuối năm 2005, cả nước có hơn 108.300 doanh nghiệp mới đăng kí đưa tổng doanh nghiệp đăng ký lên 150.000 doanh nghiệp. Trong 10 tháng đầu năm 2005, có 28.003 doanh nghiệp mới đăng kí với mức vốn là 54.000 tỉ đồng tăng thêm 368 về số lượng doanh nghiệp và trên 29% về vốn đăng kí cá biệt so với cùng kì năm trước. - Số doanh nghiệp đăng kí trung bình hàng năm của thời kì 2000-2005 gấp 3.76 lần so với trung bình của thời kì 1991-1999. Tỷ trọng công ty trấch nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần tăng từ 36% lên 60% năm 2003; 67,9% năm 2004 và 68,5% năm 2005. Loại hình công ty cổ phần tăng từ 1,1% lên đến 14,2% năm 2004. -Trong số các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thì loại hình doanh nghiệp tư nhân chiếm khoảng 70%, tiếp đó là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Cho đến nay chưa có số liệu chính xác về doanh nghiệp không còn hoạt động. Tuy nhiên theo số liệu của Sở Kế hoạch và Đầu tư một số tỉnh, thành phố thì tỷ lệ số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn không còn liên hệ với cơ quan thuế là không đáng kể. ở thành phố Hồ Chí Minh, đến tháng 7- 2002 có khoảng 900 trong tổng số 27.000 doanh nghiệp, chiếm khoảng 2,3%; ở thành phố Hà Nội, tỷ lệ này là khoảng 3,3%. Theo số liệu của tổ công tác thi hành Luật doanh nghiệp, trên phạm vi cả nước, số doanh nghiệp đang hoạt động chiếm khoảng 80- 85% số doanh nghiệp đăng ký. Như vậy số doanh nghiệp giải thể, không hoạt động ở nước ta thấp hơn nhiều nước khác. 2.1.2_ Về quy mô vốn, lao động và lĩnh vực, địa bàn kinh doanh. Cho đến nay, khu vực kinh tế tư nhân đã thu hút một lượng lớn vốn đầu tư và xã hội. Vốn đầu tư các doanh nghiệp dân doanh và hộ kinh doanh cá thể đang trở thành nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế ở nhiều địa phương. Tỷ trong đầu tư của các hộ kinh doanh cá thể và các doanh nghiệp dân doanh trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 28,8% năm 2002. Mức vốn đăng ký trung bình/doanh nghiệp cũng có xu hướng tăng lên. Theo báo cáo tổng kết 4 năm thi hành Luật doanh nghiệp, thời kỳ 1991- 1999 vốn đăng ký bình quân/ doanh nghiệp là gần 0, 57 tỷ đồng, năm 2000 là 0,96 tỷ đồng, năm 2002 là 2,8 tỷ đồng, 3 tháng đầu năm 2003 là 2,6 tỷ đồng. Tính chung, mức vốn đăng ký trung bình của doanh nghiệp là khoảng 1,25 tỷ đồng. Khu vực kinh tế tư nhân, chủ yếu là các doanh nghiệp đã mở rộng các hoạt động kinh doanh trong hầu hết các ngành và lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Kinh tế tư nhân không chỉ còn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, thương mại, mà đã mở rộng hoạt động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ cao cấp như công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, chế biến, công nghệ thông tin, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm ,tư vấn… 2.1.3_ Đóng góp của khu vực Kinh tế tư nhân. Khu vực kinh tế tư nhân đang thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta. - Đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của khu vực Kinh tế tư nhân là tạo công ăn việc làm. Trong điều kiện ở nước ta, vấn đề lao động và việc làm đang là vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách. Hệ thống các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện đang trong quá trình cải cách không tạo thêm được nhiều việc làm mới; khu vực hành chính nhà nước đang giảm biên chế và tuyển dụng mới không nhiều Do đó khu vực kinh tế tư nhân chính là nơi thu hút, tạo việc làm mới cho xã hội. Các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể (phi nông nghiệp) đã sử dụng khoảng 16% lực lượng lao động xã hội với khoảng hơn 6 triệu người. Trong 3 năm (2000-2002), các doanh nghiệp dân doanh và hộ cá thể mới thành lập đã tạo ra khoảng 1,5 triệu chỗ làm việc mới. Hầu hết các doanh nghiệp cũng góp phần chủ yếu đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động và phát triển nguồn nhân lực. Một bộ phận lớn lao đông nông nghiệp đã được thu hút vào các doanh nghiệp và thích ứng với phương thức sản xuất công nghiệp. Sự phát triển của kinh tế tư nhân không chỉ góp phần tạo việc làm, mà còn có tác dụng đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu lao động vốn đang rất mất cân đối ở nước ta hiện nay. - Khu vực Kinh tế tư nhân đã đóng góp quan trọng vào GDP và thúc đẩy tăng trương kinh tế. Tính đến cuối năm 2003, kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 8% GDP. Tuy nhiên theo các nhà kinh tế thì con số thực tế còn lớn hơn nhiều. Trong thực tế, nhiều hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp nhỏ đã không trực tiếp đứng tên trong một số hoạt động giao dịch hoặc uỷ thác cho các doanh nghiệp nhà nước hoặc các kênh khác ở khâu cuối cùng của quy trình sản xuất. Trong những năm gần đây, khu vực kinh tế tư nhân có tốc độ tăng trưởng rất nhanh, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Trong 4 năm (200-2003), tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vục kinh tế tư nhân trong công nghiệp đạt mức 20%/năm. trong nông nghiệp, khu vực knh tế tư nhân đã có đóng góp đáng kể trong trồng trọt, chăn nuôi và đặc biệt là trong các ngành chế biến, xuất khẩu. Nhờ sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có sự chuyển dịch quan trọng theo hướng sản xuất hàng hoá, đẩy nhanh quá trình CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn. - Đóng góp về xuất khẩu và tăng nguồn thu ngân sách. Đến năm 2002, khu vực kinh tế tư nhân trong nước đóng góp khoảng 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Kinh tế tư nhân là nguồn lực chủ yếu phát triển các mặt hàng mới, mở rộng thị trường xuất khẩu. Một số doanh nghiệp tư nhân đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu về một số mặt hàng quan trọng. ở một số địa phương, kinh tế tư nhân là khu vực đóng góp chủ yếu về xuất khẩu (Hà Giang: 60%, Bình Thuận: 45%, Quảng Ngãi: 34%). - Đóng góp của doanh nghiệp dân doanh vào ngân sách Nhà nước đang có xu hướng tăng nhanh, từ khoảng 6,4% năm 2001 lên hơn 7% năm 2002. Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. Ngoài ra, khu vực kinh tế tư nhân còn góp phần tăng nguồn thu ngân sách như thuế môn bài, VAT trong nhập khẩu và các khoản phí khác. ở một số địa phương, đóng góp của doanh nghiệp dân doanh chiếm tỷ trọng rất lớn trong ngân sách. Chẳng hạn ở Tp. Hồ Chí Minh khoảng 15%, Đồng Tháp 16%, Gia Lai 22%, Bình Định 33%... - Khu vực kinh tế tư nhân đã có đóng góp rất lớn trong việc thu hút các vốn đầu tư xã hội. Tính đến cuối năm 2003, đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân chiếm 27% tổng đầu tư xã hội của Việt Nam (khoảng 10 tỷ USD), cao hơn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế địa phương. Chẳng hạn, năm 2002 đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh ở Tp. Hồ Chí Minh đã chiếm 38% tổng số vốn đầu tư xã hội trên địa bàn, cao hơn tỷ trọng vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và ngân sách gộp lại (36,5%). - Khu vực kinh tế tư nhân góp phần quan trọng tạo môi trường kinh doanh, thúc đẩy phát triển cơ chế kinh tế thi trường định hướng XHCN, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, xoá đói giảm nghèo. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân là nhân tố chủ yếu tạo môi trường cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, phá bỏ dần tính độc quyền của một số doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế kinh tế thị trường ngày càng thích ứng hơn với cơ chế kinh tế mới. Các loại thị trường bắt đầu hình thành và phát triển (thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ). Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta sẽ không thể thực hiện nếu không có sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân. 2.2_ Một số hạn chế của khu vực kinh tế tư nhân. Một là, hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta mới được thành lập, hơn 90% là doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh thấp nên dễ bị tổn thương. Theo số liệu của phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, hơn 61% doanh nghiệp mới thành lập thiếu nguồn lực cơ bản như vốn, năng lực quản lý, thị trường, đất đai, khó tiếp cận với nguồn cung ứng hỗ trợ. Hai là, khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta nhìn chung năng lực cạnh tranh thấp, trình độ công nghệ và năng lực quản lý kém. Ba là, các doanh nghiệp tư nhân mới chủ yếu tập trung kinh doanh trong các ngành thương mại và dịch vụ sơ cấp. Số lượng doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ cao cấp còn rất ít. Bốn là, kinh tế tư nhân, nhất là các doanh nghiệp mới chỉ tập trung phát triển ở một số thành phố lớn. Trong khi đó, ở nhiều vùng nông thôn, miền núi…hầu như có rất ít các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Năm là, nhiều đơn vị kinh tế tư nhân chưa thực hiện tốt những quy định của pháp luật về lao động, hợp đồng lao động, chế độ bảo hiểm, tiền công, tiền lương, bảo hộ lao động, giờ làm việc… đối với người lao đông. Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ cả phía chủ doanh nghiệp lẫn người lao động: - Từ chủ doanh nghiệp, hoặc là không biết (do thiếu thông tin, trình độ thấp), hoặc là biết mà không thực hiện (do tính răn đe của luật không nghiêm hoặc không có chế tài cụ thể để thực hiện luật). - Từ người lao động, hoặc là không biết (do trình độ thấp, do thiếu thông tin), hoặc do biết nhưng không dám đòi hỏi. Sáu là, một số doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể vi phạm pháp luật, trốn lậu thuế, kinh doanh trái phép, chưa thực hiện đúng luật doanh nghiệp và các quy định khác về dăng ký kinh doanh. Bảy là, quản trị nội bộ của nhiều doanh nghiệp còn yếu kém, bất cập như: thiếu chiến lược và kế hoạch kinh doanh, chưa thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo tài chính theo quy định. 2.3_ Những rào cản đối với sự phát triển kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân nước ta mới được hình thành và phát triển trong một thời gian ngắn và đang gặp nhiều thách thức. Ngoài những hạn chế của chính khu vực kinh tế tư nhân như đã nêu ở trên, ở nước ta hiện nay đang gặp phải những rào cản từ phía các cơ quan nhà nước cũng như các điều kiện và môi trường kinh doanh. Những vấn đề bức xúc của khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay là: Một là, một bộ phận cán bộ, công chức và dư luận xã hội chưa thực sự có cách nhìn đồng thuận về vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân cũng như các doanh nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Do quán tính tâm lý, một bộ phận không nhỏ trong xã hội, trong đó có cả cán bộ, công chức nhà nước chưa hết mặc cảm với kinh tế tư nhân, chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nước ta hiện nay, chưa thực sự quán triệt chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Đồng thời vẫn có nhiều ý kiến cho rằng kinh tế tư nhân là đối lập với định hướng XHCN. Tâm lý dè dặt, e ngại đối với kinh tế tư nhân đang là rào cản cho sự phát triển của khu vực kinh tế này. Từ những biểu hiện sai trái của một số ít doanh nghiệp, một số người còn cho rằng kinh tế tư nhân trốn lậu thuế, làm ăn phi sản phẩm…Mặc dù đã qua gần 20 năm đổi mới nhưng thái độ và cách nhìn nhận đối với kinh tế tư nhân như trên đã làm giảm sự kích thích ý chí kinh doanh và tinh thần lập nghiệp của một bộ phận dân cư, đặc biệt là các doanh nhân.Vì vậy, cần phải khắc phục cách nhìn trái với đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân, đồng thời cần quán triệt quan điểm phát triển kinh tế tư nhân là vấn đè chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. Hai là, rào cản do hệ thống cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chưa minh bạch. Công cuộc cải cách hành chính còn nhiều mặt chưa theo kịp với yêu cầu của đổi mới kinh tế. - Tổ chức bộ máy nhà nước vừa cồng kềnh, vừa kém hiệu lực. - Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức chưa đủ năng lực, trình độ, chậm đổi mới tư duy; coi việc thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, của cơ quan mình đối với khu vực kinh tế tư nhân là “ban ơn”, “phát lộc”. - Thủ tục hành chính rườm rà làm cho các doanh nghiệp mất nhiều thời gian, tiền bạc và mất thời cơ kinh doanh. Khi ra nhập thị trường, doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân phải mất nhiều thời gian và còn phải chịu chi phí khá cao. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, sau đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân còn gặp phải “bức tường đá” về thủ tục hành chính là: khắc dấu, lấy mã số thuế và xin hoá đơn. Chi phí ra nhập thị trường ở nước ta còn cao hơn các nước khác trong khu vực. Có những hồ sơ, thủ tục không cần thiết như xác nhận địa điểm kinh doanh, hợp đồng thuê trụ sở,...vẫn còn tồn tại. Ba là, môi trường pháp lý cũng đang là rào cản đối với kinh tế tư nhân; thể hiện ở hệ thống luật, chính sách chưa đầy đủ, chồng chéo. Một số văn bản chưa theo kịp với các chế tài quy định trong Luật doanh nghiệp.Việc thi hành Luật doanh nghiệp chưa nghiêm túc. Sự chậm chễ trong việc ban hành các văn bản pháp lý như thông tư hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghề tư nhân pháp lý, hướng dẫn xác định thân nhân người lập doanh nghiệp.Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng về khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân chưa được cụ thể hoá và tổ chức thực hiện đúng. Một số Bộ, ngành và địa phương lúng túng trong công tác quản lý, chưa thực hiện tốt chức năng hướng dẫn, thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp. Một số cán bộ, công chức do năng lực yếu kém; do lợi ích cá nhân, cục bộ hoặc do tư duy cũ đã gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp. Những bức xúc về môi trường pháp lý cũng như cũng như sự yếu kém, bất cập của các cơ quan quản lý nhà nước ở một số nơi đã làm sai lệch, méo mó những chủ trương, chính sách của Đảng, kìm hãm sự phát triển của kinh tế tư nhân. Bốn là, môi trường kinh doanh trong nước còn bất cập cho kinh tế tư nhân. trong cạnh tranh với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chi phí trung gian vẫn tiếp tục tăng làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải đóng nhiều loại phí, lệ phí khác. Mức chi phí đầu vào cao đã tác động đến giá thành sản phẩm làm cho khu vực kinh tế tư nhân khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa và hạn chế vươn ra chiếm lĩnh thị trường khu vực và thế giới. Tình trạng độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong một số ngành cũng có tác động tiêu cực đến môi trường kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân đang ở vị thế bất lợi trong việc tiếp cận các nguồn lực, trong đó bức xúc nhất là mặt hàng sản xuất và vốn tín dụng. Năm là, tiềm lực về vốn cũng như năng lục quản lý của khu vực dân doanh có hạn; các điều kiện vật chất, kỹ thuật (kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nguồn nhân lực…) còn nhiều hạn chế. Điều đó hạn chế khả năng phát triển quy mô lớn của khu vực kinh tế tư nhân. III_ Một số phương hướng, chính sách và giải pháp phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay. 3.1_ Phương hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước có nghĩa là chuyển dịch nền kinh tế đất nước từ nông nghiệp sang công nghiệp, nâng cao tỷ trọng các ngành sản xuất công nghiệp theo các chỉ tiêu về giá trị sản xuất, về tỷ trọng lao động công nghiệp. Xuất phát từ các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay, đồng thời tính đến các đặc điểm về quy mô vừa và nhỏ của các cơ sở của khu vực kinh tế tư nhân, cần khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư vào các khu vực và lĩnh vực sau đây: - Đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn gồm nhóm ngành công nghiệp chế biến như xay xát, gia công chế biến lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chế biến nông sản, chuyển từ xuất khẩu sản phẩm sơ chế sang sản phẩm tinh chế vừa tạo việc làm thu hút lao động vừa gia tăng được giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị hàng xuất khẩu. - Nhóm ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động như ngành dệt, may, giày da phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Những ngành này đòi hỏi vốn không lớn, lao đông không cần trình độ cao, đồng thời đây là những ngành nghề truyền thống của kinh tế cá thể, nếu được khuyến khích sẽ được mở rộng về quy mô và phát triển cao hơn cả về công nghệ. Ngành may phát triển sẽ sử dụng được nguyên liệu từ ngành dệt, ngành dệt phát triển đến lượt mình lại hỗ trợ đầu ra trong phát triển nông nghiệp đó là ngành trồng dâu nuôi tằm. - Nhóm ngành cơ khí chế tạo phục vụ sản xuất nông, ngư nghiệp như sản xuất máy cày, máy kéo, máy xay xát, máy tuốt lúa, các loại tàu thuyền đánh cá, các sản phẩm cơ khí gia công lắp ráp khác phục vụ cho các ngành xây dựng dân dụng, công nghiệp và giao thông nông thôn… Đây chính là những ngành cung cấp tư liệu sản xuất cho sản xuất nông nghiệp. - Nhóm ngành tiểu thủ công mỹ nghệ truyền thống phục vụ xuất khẩu và các ngành hàng tiêu dùng khác phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như nhu cầu xuất khẩu. 3.2_ Một số chính sách cụ thể khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam. * Chính sách đầu tư: Năm 1987, Quốc hội đã ban hành Luật đầu tư nước ngoài và năm 1994 ban hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Đồng thời chính phủ đã ban hành Nghị định 29/CP ngày 12-5-1995 quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Chính sách đầu tư đã góp phần tạo môi trường đầu tư cho khu vực kinh tế tư nhân trên các mặt sau: - Tiếp cận các nguồn lực được thuận tiện hơn, giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về xây dựng kết cấu hạ tầng, vay vốn tín dụng. - Hỗ trợ đầu tư trên các mặt: cho thuê mặt bằng trong các khu công nghiệp, lập và khuyến khích các quỹ hỗ trợ đầu tư để cho vay trung hạn và dài hạn; mở rộng diện khuyến khích, ưu đãi đầu tư và tăng mức độ khuyến khích ưu đãi đầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu, sản xuất để xuất khẩu, bảo đảm công bằng hơn trong khuyến khích và ưu đãi đầu tư giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cụ thể là: + Cơ sở sản xuất mới thành lập được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 2 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và được giảm 50% số thuế thu nhập phải nộp trong 2 năm tiếp theo, riêng các cơ sở sản xuất mới thành lập ở miền núi, hải đảo thì được giảm thuế thu nhập 50% thêm 2 năm nữa. Cơ sở kinh doanh hàng hoá dịch vụ mới được thành lập được giảm 50% thuế thu nhập trong thời gian 1-2 năm đầu và giảm 50% thuế trong 5 năm tiếp theo.Mức thuế thu nhập cho phần lợi nhuận tăng thêm do đầu tư từ lợi nhuận. + Các dự án thuộc diện đặc biệt khuyến khích được miễn thuế nhập khẩu thiết bị máy móc. Chủ đầu tư thuộc diện ưu đãi nếu bảo đảm có hiệu quả thì được xem xét cho vay tín dụng trung hạn và dài hạn từ quỹ hỗ trợ đầu tư. Cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu thuộc diện ưu tiên phát triển được bảo lãnh tín dụng và cấp tín dụng xuất khẩu. - Bảo đảm an toàn cho hoạt động đầu tư, xúc tiến hình thành bảo lãnh tín dụng đầu tư, bảo hộ đầu tư, bảo đảm tài sản, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. * Chính sách thuế: Nhà nước ban hành nhiều sắc thuế và đã nhiều lần sửa đổi, điều chỉnh, bổ xung cho phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế. Các sắc thái thuế hiện hành có liên quan tới kinh tế tư nhân gồm: thuế VAT; thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế nhà đất; thuế chuyển quyền sử dụng đất; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế môn bài; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Hệ thống thuế ngày càng hoàn chỉnh hơn, mục đích các sắc thái thuế rõ ràng hơn; thuế suất áp dụng cho các đối tượng và đơn giản hoá; có nhiều ưu đãi thuế cho các cơ sở kinh tế. * Chính sách đất đai: Chính sách đất đai đã tạo điều kiện bước đầu cho các cơ sở sản xuất – kinh doanh tư nhân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35796.doc
Tài liệu liên quan