Đề tài Phát triển KTTN trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam

Mục lục

 

LỜI MỞ ĐẦU 3

I/ Lý luận tổng quan về KTTN và phát triển KTTN trong điều kiện hội nhập KTQT ở VN hiện nay: 4

1. Khái niệm về KTTN: 4

1.1 KTTN là hình thức kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. 4

1.2 KTTN năng động, nhạy bén, phát huy cao độ mọi nguồn lực nhưng mang tính tự phát cao, tiềm ẩn nhiều nguy cơ xấu: 5

2. Việt Nam trong tiến trình hội nhập: 6

2.1 Hiểu biết chung về hội nhập: 6

2.2 Quá trình hội nhập ở Việt Nam: 7

4. Phương hướng chung cho phát triển KTTN trong điều kiện hội nhập: 11

4.1 Định vị các doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu: 11

4.2Đặt khu vực KTTN vào vị trí xứng đáng: 12

4.3 Xây dựng chiến lược phát triển doanh nghiệp theo tinh thần của tư duy toàn cầu, hội nhập và phát triển bền vững: 12

II/Hội nhập với thực tiễn phát triển KTTN của Việt Nam trong những năm qua: 12

1.Điều kiện thuận lợi mang lại những tăng trưởng cao: 13

1.1 Môi trường kinh doanh cải thiện đáng kể làm gia tăng số lượng chủ thể trong KTTN: 13

1.2 Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy thu hút vốn, đẩy mạnh hợp tác và xuất khẩu: 15

1.3 Các đóng góp của khu vực KTTN trong nền kinh tế quốc dân: 17

2. Đánh giá về sự phát triển của KTTN, những khó khăn cơ bản và những mặt còn hạn chế: 18

2.1Phát triển nhanh,mang lại nhiều đóng góp to lớn cho kinh tế-xã hội của đất nước: 18

2.2 Những khó khăn cơ bản cần giải quyết: 20

3. Một số giải pháp được đưa ra: 24

KẾT LUẬN 26

Tài liệu tham khảo 27

 

 

doc27 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1202 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển KTTN trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n cơ sở đường lối đổi mới và “mở cửa” nền kinh tế và trên cơ sở chính sách, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với phương châm “đa phương hoá, đa dạng hóa quốc tế. +Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 3 (khoá VI) chỉ rõ: Việt Nam sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả các nước, các công ty nước ngoài trên cơ sở cùng có lợi và không có điều kiện chính trị ràng buộc, hạn chế đến mức thấp nhất cái giá phải +Cụ thể hoá đường lối Đại hội VII, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 3 (khoá VII) đã ra chuyên đề Chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá mà Đại hội VII nêu ra, đánh dấu bước khởi đầu của tiến trình hội nhập của Việt Nam. +Đại hội VIII (năm 1996) đã khẳng định chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, đó là xây dựng một nền kinh tế “mở” và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế +Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 4 (khoá VIII) đã nêu nhiệm vụ cụ thể cho quá trình này là tích cực chủ động xâm nhập và mở rộng vào thị trường quốc tế vững chắc, tích cực, khẩn trương đàm phán với Mỹ, gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Có kế hoạch cụ thể để chủ động cam kết gia nhập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Như vậy, Đại hội VIII và các Nghị quyết Trung ương khoá này đã chỉ đạo tiến trình hội nhập khẩn trương hơn +Đến Đại hội IX (năm 2001), tiếp tục khẳng định chủ trương Đại hội VIII nêu ra và đã đưa ra một khẩu hiệu: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Đồng thời, Đại hội IX nhấn mạnh: Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ môi trường. +Báo cáo Chính trị Đại hội IX của Đảng, nhất là Nghị quyết 07-NQTW ngày 27/11/2001 của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế đã nhấn mạnh quan điểm: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoại để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; đảm bảo tính độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy bản sắc và văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái” Các bước đi trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta được thực hiện trên hai mặt chính: + Đối với bên ngoài: 1993 đã khai thông quan hệ với Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới(WB), Ngân hàng phát triển Châu Á(ADB) 25/7/1995: Chính thức gia nhập ASEAN và AFTA và Chương trình thuế quan và ưu đãi có hiệu lực chung( CEPT) 3/1996 tham gia diễn đàn hợp tác Á-Âu ASEM với tư cách thành viên sáng lập 11/1998: là thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương APEC 2000 :Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ được ký kết 12/2006: Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn PNTR được Mỹ thông qua 11/1/2007 Chính thức gia nhập WTO 6/2007: Hiệp định thương mại và đầu tư(TIFA) với Mỹ được ký kết. +Đối với trong nước chúng ta đã làm 2 việc cơ bản Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật, văn bản dưới luật tạo hành lang pháp lý phù hợp cho hội nhập (Ví dụ: Luật Doanh nghiệp, Luật Công ty, Luật Đầu tư nước ngoài); Thực hiện sự chuyển đổi thể chế kinh tế, đổi mới chính sách và hệ thống kinh tế vĩ mô và cố gắng cải cách kinh tế, xây dựng cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế ) Theo Bộ trưởng Bộ công thương( 30/1/2008) các giải pháp hội nhập hiệu quả trong thời gian tới là: Tăng cường cơ hội tiếp cận thị trường cho hàng hóa xuất khẩu VN: đàm phán các khu vực mậu dịch tự do với Hàn Quốc, Trung quốc, Nhật Bản, Ấn Độ Tạo môi trường thương mại minh bạch, cạnh tranh bình đẳng: bảo vệ các doanh nghiệp trong những vụ kiện bán phá giá, xử lý các hình thức cạnh tranh không lành mạnh, tăng cường công tác vận động các nước công nhận nền kinh tế thị trường ở VN.. Từng bước triển khai Chính phủ điện tử, tăng cường cung cấp và trao đổi thông tin với doanh nghiệp qua các cổng thương mại điện tử, hỏi đáp về chính sách thương mại. Khó khăn lớn nhất của Việt Nam là nội lực còn yếu kém, thiếu kinh nghiệm và định hướng mang tính chiến lược. Bước đầu hội nhập thu được nhiều thành tựu về thu hút vốn đầu tư, ký kết các hiệp định hợp tác và xuất khẩu.Tuy vậy tình trạng nhập siêu còn phổ biến, lạm phát thường xuyên ở mức cao, khủng hoảng tài chính tiền tệ 3. Phát triển KTTN trong thời kỳ hội nhập là xu thế khách quan, phù hợp quy luật “QHSX phù hợp tính chất và trình độ phát triển của LLSX”: Với trình độ phát triển của LLSX mà nhân loại đạt được như hiện nay, việc theo đuổi lợi ích thiết thân vẫn chưa thể mất đi. KTTN với những ưu khuyết điểm của nó tồn tại như một tất yếu, vừa khuyến khích con người tham gia kinh doanh sản xuất, vừa có thể thực hiện những mục tiêu xã hôi. Sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN Đông Âu cũ một phần do sự nhận thức sai dẫn đến kìm hãm KTTN phát triển. Nhiều chuyên gia kinh tế cũng cho rằng việc Việt Nam vẫn có thể theo đuổi mô hình CNXH khi đó là do thành phần KTTN vẫn ngầm tồn tại dưới sự kiểm sóat lỏng lẻo của chính phủ, như chiếc “phao cứu sinh” khi kinh tế Nhà nước, tập thể khủng hoảng, suy thoái. Trong điều kiện hiện nay, Việt Nam thiết lập nền kinh tế thị trường định hướng XHCN để phù hợp với sự phát triển không đồng đều , còn yếu kém của LLSX. Nếu như kinh tế Nhà nước tạo nên định hướng XHCN thì KTTN là cốt lõi của kinh tế thị trường.Sự xuất hiện của ngày càng nhiều các tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc khu vực KTTN trong tất cả các ngành, lĩnh vực đã đẩy lùi độc quyền, làm sản xuất hàng hóa phát triển, thị trường được mở rộng, các quy luật kinh tế thị trường phát huy được hết tiềm năng. Hội nhập cũng là sản phẩm của sự phát triển LLSX tới trình độ xã hội hóa cao. Và mỗi quốc gia chỉ thực sự hội nhập khi các cá nhân, doanh nghiệp tham gia chủ động, tích cực vào nền kinh tế quốc tế. KTTN với lực lượng chủ thế kinh tế đông đảo, phạm vi hoạt động toàn diện, rộng khắp và những ưu thế tuyệt đối vốn có sẽ là cầu nối hữu hiệu giữa kinh tế trong nước với kinh tế các khu vực , quốc gia. Tranh thủ các nguồn lực vô giá bên ngoài là vấn đề chính của Việt Nam trên tiến trình hội nhập và đã được thực hiện có hiện có hiệu quả thông qua hoạt động của KTTN trong thực tiễn gần đây. 4. Phương hướng chung cho phát triển KTTN trong điều kiện hội nhập: 4.1 Định vị các doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu: Việt Nam với nội lực vốn có còn yếu, việc đánh giá đúng năng lực cạnh tranh, tìm ra những ngành có lợi thế so sánh để đầu tư phát triển là vô cùng quan trọng.Trong những năm qua, hầu hết các doanh nghiệp của ta thường tập trung vào lĩnh vực gia công, ít tạo ra giá trị gia tăng, chỉ cung cấp sức lao động phổ thông và nguyên liệu thô.Thay đổi được thực tế này sẽ đem lại hiệu quả lớn. Việt Nam có 2 tình huống đặc biệt hơn so với các nước khác Thứ nhất, chúng ta gia nhập sau, lại xuất phát điểm nghèo nàn lạc hậu.Thứ hai, sau khi gia nhập ta phải cạnh tranh với 2 cường quốc lớn có nhiều điểm tương đồng là Trung Quốc và Ấn Độ. Cần chú trọng xem xét những vấn đề này để đưa ra chiến lược hội nhập thích hợp. 4.2Đặt khu vực KTTN vào vị trí xứng đáng: KTTN và kinh tế Nhà nước là 2 bộ phận quan trọng nhất, cùng tồn tại ở nước ta hiện nay, có những vị trí và vai trò đặc thù trong một cơ cấu phát triển chung, không có xu thế lấn át hoặc loại trừ nhau.Để đạt được những mục tiêu tăng trưởng cao, lâu dài và ổn định, 2 khu vực kinh tế đó còn phải hỗ trợ , bổ sung cho nhau. Kinh tế Nhà nước cần nắm vai trò điều tiết, định hướng phát triển thông qua việc nắm giữ một số lĩnh vực, ngành nghề quan trọng nhất của nền kinh tế.Phần còn lại cần giao cho KTTN phát triển tương ứng với tầm vóc và vị thế của mình. Trong những năm qua, 2 nguồn lực chính của Nhà nước là tài nguyên và tài chính được phân bổ lệch lạc quá nhiều. Nên coi đầu tư của doanh nghiệp tư nhân là tài nguyên quốc gia cần được khơi dậy. Đẩy nhanh công tác sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế là nhiệm vụ quan trọng trước mắt. 4.3 Xây dựng chiến lược phát triển doanh nghiệp theo tinh thần của tư duy toàn cầu, hội nhập và phát triển bền vững: Bên cạnh những chính sách vĩ mô của Nhà nước nhằm tạo môi trường phát triển thuận lợi, những hỗ trợ lớn về vốn và mở cửa trên mặt trận ngoại giao, bản thân các doanh nghiệp cần chú trọng 2 vấn đề lớn sau: +Tự đổi mới và trau dồi kinh nghiệm để nâng cao khả năng cạnh tranh, chú trọng những lĩnh vực mũi nhọn có thế mạnh,tránh những tổn thương lớn trong qúa trình hội nhập. + Đẩy mạnh hỗ trợ, liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước thuộc cùng một lĩnh vực cũng như với các doanh nghiệp nước ngoài là đối tác làm ăn lâu dài, tiềm năng. II/Hội nhập với thực tiễn phát triển KTTN của Việt Nam trong những năm qua: 1.Điều kiện thuận lợi mang lại những tăng trưởng cao: 1.1 Môi trường kinh doanh cải thiện đáng kể làm gia tăng số lượng chủ thể trong KTTN: Hàng loạt các đạo luật và chính sách mới được ban hành :Luật DNTN(1990),Luât công ty(1990),Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1994),Luật DN(1999 , có hiệu lực từ 1/1/2000 thay thế Luật DNTN và Luật Công ty) đã tạo những hành lang pháp lý quan trọng cho việc phát triển KTTN. Có thể nói Luật DN (1999)đánh dấu một mốc quan trọng trong những nỗ lực của Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho KTTN phát triển. Với tinh thần chủ đạo là” doanh nghiệp được tự do kinh doanh những gì mà Nhà nước không cấm”, chuyển từ “cấp phép kinh doanh sang đăng ký kinh doanh”, Luật DN đã làm giảm đáng kể thời gian và chi phí đăng ký doanh nghiệp. Sự bùng nổ của các doanh nghiệp dễ dàng được nhận thấy qua các số liệu dưới đây: +Giai đoạn 1986 đến 1999: Nếu như năm 1991 chỉ có 414 doanh nghiệp thì đến 1992 đã tăng lên 5189, 1995 là15276 ,1998 có 39180 và 1999 có 45601 doanh nghiệp tư nhân. Giá trị tài sản cố định trung bình của 1 doanh nghiệp tư nhân(1 chủ) năm 1991 là 0.1 tỷ đồng, tăng lên và giữ ôn định ở mức 0.2 tỷ đồng trong giai đoạn 1992 đến 1996.Giá trị này của công ty trách nhiệm hữu hạn cũng tăng nhưng không đều và có năm giảm: từ 0.6 tỷ đồng năm 1991 tăng lên 0.7 tỷ đồng năm1992 và giảm xuống 0.5 tỷ đồng năm 1996. Tốc độ tăng trưởng của khu vực KTTN năm 1994 tăng 60% so với 1993,giảm dần trong các năm tiếp theo 41%(1995) ,24%(1997) và đạt bình quân 3.7% trong thời kỳ 1994-1997. + Giai đoạn 2000-2005: SỐ DOANH NGHIỆP ĐĂNG KÝ MỚI QUA CÁC NĂM Loại hình DN 2002 2003 2004 2005 DNTN 6532 7085 10246 11366 Cty TNHH 12627 15120 20145 20674 Cty cổ phần 2305 3715 6470 6675 (Nguồn: trung tâm thông tin DN-Bộ Kế hoạch và đầu tư) Sau 6 năm thi hành Luật Doanh nghiệp, số doanh nghiệp đăng ký mỗi ngày thời gian này bằng trung bình bằng 3.75 lần so với giai đọan 1991-1999. Số DN đăng ký mới trong 5 năm(2000-2005) cao gấp 3 lần so với 9 năm trước(1991-1999), tăng bình quân 25%, đưa tỷ lệ bình quân số DN trên 1 vạn dân là 25 Đến nay có khoảng hơn 200000 DN hoạt động theo Luật DN, hơn 2.6 triệu hộ kinh doanh cá thể, một bộ phận của hơn 100000 trang trại và 10 triệu hộ nông dân có sản xuất nông sản hàng hóa không tham gia vào các tổ hợp tác hoặc hợp tác xã. Số vốn đầu tư đăng ký thành lập mới và mở rộng sản xuất tăng nhanh: trong 5 năm(2001-2005) đạt 293878 tỷ đồng( tương đương 18.4 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam cùng kỳ) Tuy vậy số lượng doanh nghiệp thật sự đi vaò hoạt động không nhiều như đăng ký.Theo điều tra của Tổng cục thống kê, số doanh nghiệp thật sự hoạt động đến cuối 2002 là 62908, cuối 2003 là 72010, chỉ chiếm khoảng 55% so với tổng số doanh nghiệp đã đăng ký. Bên cạnh đó cũng phải kể đến hiệu quả tích cực của các chính sách hỗ trợ từ Nhà nước: + Chính sách thuế: Luật thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế thu nhập DN, chính sách ưu đãi thuế trong quy định Luât KKDTTN(1994), Luật KKDTTN sửa đổi(1998) về miễn giảm thuế, ưu đãi thuế + Chính sách tín dụng: tập trung nguồn vốn có trọng điểm và tạo sự bình đẳng giữa khu vực Nhà nước và tư nhân( Nghị định 106/2004/NĐ-CP ban hành 1/4/2004 về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước..) +Chính sách đất đai: Luật đất đai ban hành và sửa đổi năm 2003, Luật KKDTTNquy định một số hỗ trợ của Nhà nước cho đầu tư. 1.2 Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy thu hút vốn, đẩy mạnh hợp tác và xuất khẩu: Tiến trình đó thực sự bắt đầu khi chúng ta lần lượt gia nhập ASEAN, ASEM, APEC, không ngừng mở rộng các quan hệ song phương cũng như đa phương với các nước khác trên thế giới Thị trường được mở rộng Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi bối cảnh thị trường trong nước còn hạn hẹp do tình trạng nước nghèo, khả năng thu nhập và tiêu dùng còn hạn chế, các doanh nghiệp Việt Nam rất thiếu đầu ra. Các quan hệ thương mại và đầu tư mở rộng cũng tạo cho doanh nghiệp Việt Nam cơ hội có các đối tác làm ăn, cơ hội học hỏi kinh nghiệm quản lý, cơ hội tiếp thu công nghệ cao của họ và đồng thời rèn luyện nguồn nhân lực còn non trẻ qua hợp tác và cạnh tranh. Dấu mốc quan trọng là việc Việt Nam ra nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Các những rào cản thương mại được xóa bỏ, các doanh nghiệp của ta có vị trí bình đẳng,không còn bị phân biệt đối xử trên các thị trường quốc tế. Họ sẽ có quyền không chỉ xuất nhập khẩu , tiếp nhận đầu tư mà còn mở rộng nhiều phương thức hợp tác khác và đầu tư ra các thị trường nước ngoài, khai thác tối đa những lợi thế cạnh tranh của mình, tận dụng tối đa sự phân công lao động quốc tế , tham gia màn lưới kinh doanh và chuỗi giá trị toàn cầu theo hướng có lợi nhất cho mình. +Về xuất khẩu: Năm 2004, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước đạt 26,003 tỷ USD, tăng 28,9% so với năm 2003 và là mức tăng cao nhất trong bốn năm trở lại đây.Tính riêng trong tháng 8 năm nay, kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt 2,8 tỷ USD, nâng kim ngạch xuất khẩu trong 8 tháng qua lên hơn 20,3 tỷ USD, tăng gần 19% so với cùng kỳ năm trước. Ủy ban thương mại quốc tế HK (ITC) cho biết VN vượt qua những đối thủ lớn như Philippines, Tây Ban Nha, Chilê lọt vào top 30 nhà xuất khẩu lớn nhất vào HK 2007.Kim ngạch XK của VN sang HK tăng 25% năm 2007, đạt 10.54 tỷ USD chủ yếu nhờ các mặt hàng truyền thống như dệt may, sản phẩm gỗ, thiết bị điện tử, cà phê.Dệt may tăng 36%, lên 4,29 tỷ USD. Theo Dự báo của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, Việt Nam sẽ vươn lên đứng thứ hai, chỉ sau Trung Quốc, về kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ với 6,1 tỷ USD. Thách thức chủ yếu là cơ chế giám sát của Bộ Thương mại Hoa Kỳ vẫn được duy trì cho đến hết năm 2008. Theo số liệu thống kê của Bộ Thương mại, đến năm 2002, khu vực kinh tế tư nhân trong nước đóng góp khoảng 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. + Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI và tranh thủ nguồn viện trợ chính thức ODA ngày càng lớn, giảm đáng kể nợ nước ngoài. Năm 2004, vốn thực hiện của khu vực đầu tư nước ngoài đạt 2,85 tỷ USD, tăng 7,5% so với năm 2003 và vượt so với dự kiến ban đầu (mục tiêu năm 2004 là 2,75 tỷ USD). Doanh thu của khu vực đầu tư nước ngoài trong năm 2004 đạt khoảng 18 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2003. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo thêm việc làm cho 7,4 vạn lao động, đưa tổng số lao động trực tiếp lên khoảng 74 vạn người. Năm 2004 cả nước đã thu hút được hơn 4,2 tỷ USD vốn đầu tư mới, tăng 37,8% so với năm 2003, trong đó vốn cấp mới đạt trên 2,2 tỷ USD và vốn bổ sung đạt gần 2 tỷ USD. Đây là mức đăng ký cao nhất kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực diễn ra vào năm 1997 Trong năm vừa qua 50 nền kinh tế thế giới đã đầu tư hơn 20 tỷ USD vào Việt Nam FDI tăng gấp đôi, trong đó nguồn FDI từ Hàn Quốc đứng đầu với 1837 dự án vốn 13 tỷ USD tính đến 12/2007 + Về hiệp định thương mại: Đã có 86 hiệp định thương mại song phương, 47 hiệp định bảo hộ đầu tư song phương được ký kết.Số đối tác của các doanh nghiệp không ngừng gia tăng ở 220 quốc gia và vùng lãnh thổ 1.3 Các đóng góp của khu vực KTTN trong nền kinh tế quốc dân: +Tạo cơ hội việc làm: Các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể (phi nông nghiệp) đã sử dụng khoảng 16% lực lượng lao động xã hội với khoảng hơn 6 triệu người. Trong 3 năm (2000 - 2002), các doanh nghiệp dân doanh và hộ cá thể mới thành lập đã tạo ra khoảng 1,5 triệu chỗ làm việc mới + Đóng góp vào GDP và ngân sách: Tính đến cuối năm 2003, kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 8% GDP. Tuy nhiên, theo các nhà kinh tế thì con số thực tế còn lớn hơn nhiều. Trong thực tế, nhiều hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp nhỏ đã không trực tiếp đứng tên trong một số hoạt động giao dịch hoặc uỷ thác cho các doanh nghiệp Nhà nước hoặc các kênh khác ở khâu cuối cùng của quy trình sản xuất. - Đóng góp của các doanh nghiệp vào Ngân sách Nhà nước đang có xu hướng tăng nhanh, từ khoảng 6,4% năm 2001 lên hơn 7% năm 20024. Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103.6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. Ngoài ra, kinh tế tư nhân còn góp phần tăng nguồn thu ngân sách như thuế môn bài, VAT trong nhập khẩu và các khoản phí khác. Ở một số địa phương, đóng góp của doanh nghiệp dân doanh chiếm tỷ trọng rất lớn trong ngân sách.Chẳng hạn ở Thành phố Hồ Chí Minh là khoảng 15%, Tiền Giang: 24%; Đồng Tháp 16%; Gia Lai 22%; Quảng Nam 22%; Bình Định 3%... Nhiều doanh nghiệp đã tự liên kết thành các tập đoàn kinh tế với quy mô lớn, doanh thu từ 500 đến vài ngàn tỷ đồng/năm. Trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ cũng đạt những thành quả to lớn chiếm tỷ trọng 53% tổng mức hàng hoá bán ra, 77% tổng mức bán lẻ và 10% kim ngạch xuất khẩu, gần 14% kim ngạch nhập khẩu trên địa bàn. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2003 đạt trên 2.500 tỷ đồng (giá so sánh năm 1994) bằng 77% giá trị sản xuất công nghiệp địa phương, thu hút gần 300.000 lao động. Ngoài ra, còn có 15.500 hộ sản xuất công nghiệp, đạt giá trị hơn 1.000 tỷ đồng (năm 2003), thu hút gần 500.000 lao động. Tính chung lại, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực tư nhân đã vượt giá trị sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý. Hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp 22% tổng đầu tư xã hội, hơn 20% GDP, 22% ngân sách thành phố và 10% kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn và là khu vực có tốc độ tăng trưởng cao. Nhiều doanh nghiệp đạt doanh số trên 100 tỷ đồng/năm, tiêu biểu là các công ty Thế Trung, Việt Á, AlphaNam, Lioa... Các doanh nghiệp có doanh số từ 500 đến vài ngàn tỷ đồng như các tập đoàn T&T, CMC, Lisohaka, Hoà Phát. Có thể nói khu vực kinh tế tư nhân của Hà Nội lớn mạnh hơn so với bất kể thời kỳ nào trước đây. + Đóng góp vào nguồn vốn: Tính đến cuối năm 2003, đầu tư của kinh tế tư nhân chiếm 27% tổng đầu tư xã hội của Việt Nam (khoảng 10 tỷ USD) cao hơn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế địa phương. Chẳng hạn, đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh năn 2002 ở Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 38% tổng số vốn đầu tư xã hội trên địa bàn, cao hơn tỷ trọng vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước và ngân sách nộp lại (36,5%). 2. Đánh giá về sự phát triển của KTTN, những khó khăn cơ bản và những mặt còn hạn chế: 2.1Phát triển nhanh,mang lại nhiều đóng góp to lớn cho kinh tế-xã hội của đất nước: Từ những số liệu đã trình bày ở trên có thể rút ra một số nhận xét tổng quát sau: KTTN đã phát triển như vữ bão về lượng trong tất cả các thành phần, đáng kể nhất là thành phấn kinh tế tư nhân TBCN. Sự gia tăng về số lượng các doanh nghiệp đăng ký tuy còn cao hơn số lượng các doanh nghiệp thực sự hoạt động nhưng không đáng lo ngại, thậm chí đáng khuyến khích vì nó phản ánh sự năng động của khối doanh nghiệp tư nhân . Trong một nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, việc dừng kinh doanh cũng như việc đăng ký kinh doanh mới là hiện tượng bình thường của quá trình phát triển khi mà các doanh nghiệp phản ứng với thay đổi liên tục của môi trường bên ngoài, ví dụ như cơ hội thị trường mới, các khó khăn mới xuất hiện v.v Tuy vậy sự phát triển về chất còn là vấn đề cần giải quyết. Đa số các công ty còn ở quy mô vừa và nhỏ.Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, phát triển chủ yếu dựa vào các nhân tố bề rộng, gia tăng đầu tư, chưa chú trọng chiếu sâu. Khu vực KTTN đang thực sự trở thành động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế-xã hội của nước ta hiện nay. +Việc làm: Trong điều kiện ở nước ta, vấn đề lao động và việc làm đang là vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách. Hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện đang trong quá trình cải cách, không tạo thêm được nhiều việc làm mới; khu vực hành chính Nhà nước đang giảm biên chế và tuyển dụng mới không nhiều. Do đó khu vực kinh tế tư nhân chính là nơi thu hút, tạo việc làm mới cho xã hội. Hầu hết các doanh nghiệp cũng góp phần chủ yếu đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động và phát triển nguồn nhân lực. Một bộ phận lớn lao động nông nghiệp đã được thu hút vào các doanh nghiệp và thích ứng với phương thức sản xuất công nghiệp. Sự phát triển của kinh tế tư nhân không chỉ góp phần tạo việc làm mà còn có tác dụng thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu lao động vốn đang rất mất cân đối ở nước ta hiện nay. +Cơ cấu ngành kinh tế: Việc tham gia của KTTN vào hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ..và xuất khẩu) đã tạo ra sự phát triển thần kỳ , tuy không đồng đều nhưng vô cùng quý giá. Cùng với nó, việc huy động tối đa các nguồn lực sẵn có được đẩy mạnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa. +Môi trường kinh doanh: Kinh tế tư nhân góp phần quan trọng tạo môi trường kinh doanh, thúc đẩy phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sự phát triển của kinh tế tư nhân là nhân tố chủ yếu tạo môi trường cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, phá bỏ dần tính độc quyền của một số doanh nghiệp Nhà nước. Thể chế kinh tế thị trường ngày càng thích ứng hơn với cơ chế kinh tế mới. Các loại thị trường bắt đầu hình thành và phát triển (thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường khoa học - công nghệ). Quá trình hội nhập kinh tế của nước ta sẽ không thể thực hiện nếu không có sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân. 2.2 Những khó khăn cơ bản cần giải quyết: + Về phía doanh nghiệp: Một là, hầu hết các doanh nghiệp của kinh tế tư nhân ở nước ta mới được thành lập, chủ yếu mô vừa và nhỏ, kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh thấp nên dễ bị tổn thương, thiếu nguồn lực cơ bản như vốn, năng lực quản lý, thị trường, đất đai, khó tiếp cận với nguồn cung ứng hỗ trợ. Cho tới nay, số DNTN trưởng thành, đạt quy mô kinh tế hiệu quả còn chiếm tỷ lệ rất thấp trong DNTN ở nước ta. Ngay trong số DNTN đã trưởng thành cũng không ít doanh nghiệp đang lúng túng về chiến lược và nguồn lực để tiếp tục phát triển trong thời gian tới. Hai là DNTN cũng chưa thiết lập được sự liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế với nhau trong từng ngành, giữa các ngành liên quan, hoặc trong từng vùng để tạo thế mạnh của tính hệ thống và hiệu quả của sự phối hợp. Từng DNTN mới chỉ dựa vào sức mình là chính, chưa khai thác, sử dụng được sức mạnh của sự liên kết vốn rất cần thiết, nhất là đối với các doanh nghiệp (DN) nhỏ và vừa.Với những mạng lưới kinh doanh chưa được hình thành đầy đủ, thiếu những doanh nghiệp thật mạnh có khả năng làm trụ cột, đầu đàn tạo sự liên kết, hợp tác vững chắc để nhân thêm sức mạnh trong cạnh tranh quốc tế. Ba là, các doanh nghiệp tư nhân phân bố chưa đồng đều: Về cơ cấu ngành, mới chủ yếu tập trung kinh doanh trong các ngành thương mại và dịch vụ sơ cấp. Số lượng doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ cao cấp còn rất ít. Về địa bàn hoạt động, KTTN mà nhất là các doanh nghiệp mới tập trung phát triển ở một số thành phố lớn. Trong khi đó, ở nhiều vùng nông thôn, vùng dân tộc miền núi hầu như có rất ít doanh nghiệp. Bốn là, nhiều đơn vị kinh tế tư nhân chưa thực hiện tốt những quy định của pháp luật về lao động, hợp đồng lao động, chế độ bảo hiểm, tiền lương, tiền công, bảo hộ lao động, giờ làm việc... đối với người lao động. Một số doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể vi phạm pháp luật, trốn lậu thuế, kinh doanh trái phép, chưa thực hiện đúng Luật doanh nghiệp và các quy định về đăng ký kinh doanh. Năm là, quản trị nội bộ của nhiều doanh nghiệp còn yếu kém, bất cập như thiếu chiến lược và kế hoạch kinh doanh, chưa thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo tài chính theo quy định. + Những rào cản với KTTN từ trong nước: Một là việc gia nhập thị trường vẫn còn đòi hỏi chi phí cao về tiền của và thời gian. Hiện nay, ngoài khâu đăng ký kinh doanh là nhanh chóng và ít tốn kém nhất, các DN mới ra đời còn phải qua 3 khâu (khắc dấu, đăng ký mã số thuế, mua hóa đơn) trước khi có thể bắt đầu hoạt động, với tổng thời gian 50 - 60 ngày và chi phí khoảng 3 - 5 triệu đồng, tương đương với 49% thu nhập bình quân đầu người trong 1 năm ở nước ta. Ngoài ra, quyền kinh doanh của DNTN trong một số lĩnh vực cũ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7376.doc
Tài liệu liên quan