Quá trình giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ là bộ phận của quá trình giáo dục PCNC nói chung. Nhằm tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ về GD - ĐT, trực tiếp là các chỉ thị về nhiệm vụ kiện toàn và phát triển đội ngũ cán bộ. Xuất phát từ yêu cầu của việc kiện toàn, phát triển đội ngũ cán bộ quân đội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới và xây dựng quân đội chính quy. Từ kết quả nghiên cứu của khoa học giáo dục về bản chất, đặc điểm, lôgíc của quá trình giáo dục PCNC quân nhân, cùng với những điều kiện khách quan và chủ quan đã nêu trên. Nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ hiện nay, chúng tôi đề xuất một số biện pháp cụ thể.
40 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4154 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển năng lực sư phạm cho học viên đào tạo cán bộ chính trị tàu ở Học Viện Hải Quân hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t đợt thi tuyển, lựa chọn.
Về tuổi đời, đại đa số học viên ở độ tuổi từ 27 đến 33, đã từng tham gia phục vụ trong quân đội trước khi trúng tuyển vào đào tạo tại Học viện từ 5 đến 10 năm. Đây là những người đã và đang có sự trưởng thành về các PCNC: trí tuệ, tình cảm, ý chí và niềm tin…tuy nhiên, chưa có sự ổn định cần thiết về những phẩm chất này. Đại bộ phận học viên có đức tính cần cù, chịu khó, có lối sống giản dị và khiêm tốn, mang bản chất của người nông dân Việt Nam. Thời gian học tập tại Học viện là giai đoạn phát triển lứa tuổi, hình thành và hoàn thiện nhân cách, có vị trí ý nghĩa đặc biệt, có tính chất chuyển tiếp từ người học nghề thành người lao động nghề với trình độ chuyên môn cao. Mỗi học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ là một cá nhân, một nhân cách vừa có những nét riêng, vừa mang những đặc điểm chung của lứa tuổi thanh niên về tâm - sinh lý, xã hội và nhân cách; đặc điểm này đặt ra nhiều vấn đề cho công tác giáo dục, phát triển NLSP cho học viên cần quan tâm. Học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ là lứa tuổi phát triển tương đối hoàn thiện về thể chất, có khát vọng vươn lên, là những người năng động, sáng tạo, ham hiểu biết, luôn mong muốn khẳng định mình trong cuộc sống và có hoài bão muốn cống hiến cho sự nghiệp đã chọn. Từ những kết quả nghiên cứu gần đây, chúng tôi rút ra một số đặc điểm cơ bản của lứa tuổi học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ như sau:
Trong quá trình đào tạo, học viên đào tạo CBCT tàu là đối tượng có sự phát triển cao tình cảm, đạo đức và thẩm mĩ, hình thành mạnh mẽ và dần dần ổn định tính cách, nhất là tính độc lập, tinh thần trách nhiệm đối với hành vi của mình. Họ thể hiện vai trò người lớn trong quyền hạn và nghĩa vụ của công dân, của người cán bộ, người chủ trì CTĐ, CTCT trong quân đội. Trong mỗi học viên luôn diễn ra sự biến đổi các giá trị xã hội liên quan đến NLSP; nó có tác động lớn đến sự hình thành, phát triển các PCNC, hình thành xu hướng nghề nghiệp, nhất là hứng thú, động cơ. Quá trình học tập, rèn luyện để trở thành người CTV, học viên phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn có tính chất tâm lý - xã hội như mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao trình độ kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng, NLHĐSP với phát triển NLSP của CBCT, giữa điều kiện vật chất, thời gian có hạn với yêu cầu học tập cao; giữa ước mơ lớn lao và hiện thực cuộc sống của người CB trong quân đội còn nhiều khó khăn…
Hoạt động của học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ rất phong phú, đa dạng và nhiều mặt, vừa thực hiện theo mục đích hoạt động của nhà trường bậc đại học, vừa hoạt động theo quy định của một tổ chức NTQS. Học viên phải học tập, rèn luyện, sinh hoạt tập trung theo quy định của kỷ luật quân sự, trong điều kiện sẵn sàng chiến đấu thường xuyên với yêu cầu cao về cả trí lực và thể lực; trong đó hoạt động nhận thức, tu dưỡng và rèn luyện tác phong cán bộ giữ vai trò chủ đạo; học viên là chủ thể, đồng thời cũng là khách thể của các hoạt động ấy. Hoạt động học tập, rèn luyện nói chung và phát triển NLSP nói riêng diễn ra có tốc độ nhịp nhàng nhanh nên căng thẳng hơn so với sinh viên các trường đại học khác. Học viên vừa học kiến thức khoa học chuyên ngành, vừa tu dưỡng, rèn luyện PCNC của người sĩ quan quân đội, vừa rèn luyện NLSP với tư cách là nhà giáo dục của người CTV; đồng thời từng bước thể nghiệm kiến thức, sự hiểu biết của mình trong thực tiễn giáo dục sinh động ở NTQS.
Ngoài những yếu tố trên đây, quá trình giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu còn chịu ảnh hưởng của những tác động từ phía gia đình, bạn bè, người thân…
Trên đây là những nhân tố khách quan và chủ quan tạo ra những tác động tới sự hình thành, phát triển NLSP của học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ. Những nhân tố đó vừa tạo ra thời cơ nhưng đồng thời cũng tạo ra những thách thức, khó khăn cho quá trình giáo dục, phát triển NLSP cho đối tượng này. Đối với quá trình giáo dục, phát triển NLSP cho học viên, tùy theo tình huống và hoàn cảnh cụ thể nhà giáo dục cần phải nắm được những biến đổi của sự tác động ở những mức độ khác nhau để đưa ra những tác động phù hợp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển NLSP cho học viên.
1.5. Thực trạng phát triển năng lực sư phạm cho học viên đào tạo cán bộ chính trị tàu ở Học viện Hải quân hiện nay.
* Thực trạng
Những năm vừa qua, các nhà trường quân đội trong đó có HVHQ đã có nhiều cố gắng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn bộ cho các đối tượng đào tạo. Đối với nhiệm vụ đào tạo CBCT tàu ở HVHQ hiện nay, do được tuyển chọn theo một quy trình chặt chẽ cho nên đa số học viên đều có động cơ học tập đúng đắn, thể hiện nguyện vọng mong muốn được đào tạo để trở thành CTV tàu Hải quân.
Về việc xác định mục tiêu, mô hình đào tạo CB nói chung và đào tạo CBCT tàu nói riêng, lãnh đạo, chỉ huy của Học viện rất quan tâm đến việc nghiên cứu xây dựng hoàn thiện mô hình, mục tiêu đào tạo thực tế hiện nay. Cấu trúc về PCNC của người CBCT được xác định đúng đắn, rõ ràng, thiết thực; phản ánh đầy đủ những yêu cầu về phẩm chất, năng lực cơ bản của nhà giáo dục, nhà lí luận, nhà khoa học, nhà quản lý và nhà hoạt động chính trị - xã hội.
Về chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạo CBCT tàu ở HVHQ hiện nay, đa số các đối tượng được hỏi đều cho rằng công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch, chương trình, nội dung đào tạo đạt kết quả khá, tốt. Tuy nhiên, về nội dung này còn một số hạn chế là: “Chương trình, nội dung đào tạo cho các đối tượng vẫn còn trùng lặp, nặng về lý thuyết,… Sự chuyển biến về động cơ, trách nhiệm và phương pháp học tập, nhất là phương pháp nghe giảng và nghiên cứu tài liệu của học viên mới còn lúng túng, chưa ổn định…Tính tự giác trong học tập, rèn luyện của một số học viên chưa tốt, chưa thật sự biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo như mục tiêu yêu cầu đào tạo đặt ra”[38, tr.12].
Đối với công tác giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ hiện nay còn bộc lộ những nhược điểm, hạn chế, đó là: đặt trọng tâm vào khối lượng kiến thức, ít quan tâm đến tính hợp lý của quá trình giáo dục, đào tạo; trong đào tạo phổ biến là truyền thụ tri thức, ít quan tâm phát triển tư duy, năng lực tự học, tự rèn luyện NLSP cho học viên. Việc dạy và học các bộ môn, kể cả các môn chuyên ngành còn mang tính chất kinh viện, các tình huống thực tế chưa được phản ánh nhiều trong nội dung các môn học này và chưa gắn với mục tiêu giáo dục, phát triển NLSP của người CBCT. Quá trình dạy học chưa kết hợp chặt chẽ giữa việc nâng cao trình độ kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo với bồi dưỡng tình cảm, xây dựng niềm tin, tình yêu trong lĩnh vực HĐSPQS cho học viên. Trong tổ chức các hoạt động sư phạm, chủ yếu nhằm nâng cao kỹ năng sư phạm cho học viên, chưa chú trọng kết hợp tổ chức các hoạt động này gắn với rèn luyện thói quen hành vi và phát triển NLSP tốt đẹp cho học viên. Các hình thức giáo dục chủ yếu nhằm vào việc quán triệt thực hiện tốt các chế độ quy định theo yêu cầu của kỷ luật quân đội. Chưa kết hợp giáo dục, phát triển NLSP gắn với đặc điểm riêng của từng cá nhân học viên; hoạt động thi đua, diễn đàn, giao lưu…chưa thu hút được sự tham gia của học viên trong rèn luyện NLSP của mình. Về phía học viên, cách học hiện nay vẫn là nặng về lý thuyết với mong muốn nắm được càng nhiều kiến thức càng tốt, chưa biết sàng lọc, lựa chọn những kiến thức cơ bản, cốt lõi, cần thiết cho phát triển NLSP của mình; đặc biệt là chưa coi trọng nâng cao chất lượng nắm kiến thức với rèn luyện kỹ năng, NLSP của người CTV, còn nhiều người đồng nhất việc chấp hành kỷ luật với rèn luyện, phát triển NLSP.
Một bộ phận học viên do thời gian phục vụ trong quân đội ít cho nên hiểu biết về nghề nghiệp quân sự nói chung cũng như HĐSP quân sự nói riêng còn hạn chế hoặc chưa rõ ràng. Kinh nghiệm hoạt động xã hội, hoạt động quân sự, đặc biệt là hoạt động sư phạm quân sự chưa nhiều. Đang ở vào độ tuổi trưởng thành và trong giai đoạn hình thành, phát triển các PCNC nên tính kiên trì trong học tập, rèn luyện, nhất là những lúc khó khăn chưa vững chắc, dễ dao động; tình cảm, niềm tin vào lĩnh vực hoạt động sư phạm chưa bền vững. Sự ổn định về động cơ nghề nghiệp của một số học viên chưa cao, dễ bị tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan trong quá trình đào tạo tại nhà trường.
Mặc dù lãnh đạo, chỉ huy Học viện và các cấp đã rất quan tâm chỉ đạo xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh để giáo dục, phát triển NLSP cho học viên; các mối quan hệ, đặc biệt là quan hệ sư phạm thường xuyên được củng cố; hệ thống giảng đường được xây dựng mới hoặc sửa chữa và trang bị nhiều phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại. Học viện đã chủ động xây dựng, biên soạn hệ thống giáo trình phục vụ đào tạo giáo viên, trong đó có các bộ giáo trình Tâm lý học quân sự, Giáo dục học quân sự nhằm trang bị hệ thống kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng sư phạm và giáo dục PCNC cho học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ. Tuy nhiên, việc đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho giáo dục, phát triển NLSP và sinh hoạt của học viên còn một số hạn chế: Nhà ở của một số lớp đã cũ và xuống cấp, điều kiện đảm bảo sinh hoạt rất chật chội. Phòng học dùng cho đào tạo CBCT vẫn là những phòng học chung, đến nay chưa có phòng học chuyên dùng để học viên luyện tập các kỹ năng sư phạm. Nguồn tài liệu chuyên khảo về đào tạo CBCT rất ít, nhiều tài liệu quý và cần thiết cho việc phát triển kỹ năng, giáo dục PCNC của người CTV không có hoặc có với số lượng rất ít. Sự thiếu thốn tài liệu, giáo trình học tập làm cho học viên gặp phải những khó khăn trong việc rèn luyện phát triển NLSP và là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng đào tạo CBCT tàu ở HVHQ hiện nay còn hạn chế.
Tuy vẫn được xác định là nhân tố giữ vai trò quan trọng trong phát triển NLSP của học viên nhưng chất lượng tự rèn luyện, tự bồi dưỡng NLSP của học viên đào tạo CBCT tàu còn nhiều hạn chế. Do học viên chưa được chuẩn bị tốt về mặt tâm thế cho hoạt động tự rèn luyện, phát triển NLSP cho nên còn có biểu hiện thiếu tích cực, chủ động trong tự tổ chức hoạt động giáo dục của bản thân; các kỹ năng, ý chí quyết tâm trong tự rèn luyện NLSP của một bộ phận học viên vừa yếu và vừa thiếu. Đây thật sự là một vấn đề rất cần được quan tâm tìm kiếm những biện pháp để khắc phục những hạn chế này.
* Nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế
Nguyên nhân của những ưu điểm:
Nguyên nhân trực tiếp và quan trọng là, Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện đã kịp thời cụ thể hóa nhiệm vụ xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo vào quá trình đào tạo CBCT tàu ở HVHQ.
Các lực lượng sư phạm trong khi đặt trọng tâm vào việc xác định mô hình, mục tiêu đào tạo đã coi trọng chuẩn hóa nội dung, chương trình đào tạo; coi đổi mới phương pháp, hình thức đào tạo nói chung, đào tạo CBCT tàu nói riêng là khâu đột phá để nâng cao chất lượng đào tạo.
Học viên đào tạo CBCT tàu đã nỗ lực, tích cực tự tu dưỡng, tự rèn luyện NLSP của mình phấn đấu cho mục tiêu đào tạo đạt kết quả cao nhất.
Nguyên nhân của những hạn chế:
Một là, sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội, mà trực tiếp là sự tác động của cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ giáo viên quân đội hiện nay chưa được quan tâm đúng mức. Công tác bố trí, sử dụng đối tượng này đang tạo ra những yếu tố tâm lý không thuận lợi đối với công tác giáo dục, phát triển NLSP cho học viên. Ngoài ra, những hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội cùng những mặt trái của cơ chế thị trường cũng có ảnh hưởng không tốt đến công tác giáo dục PCNC cho học viên.
Hai là, sự quan tâm đến công tác giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu còn ở mức độ nhất định. Việc kết hợp giữa dạy chữ - dạy phương pháp với dạy người chưa thật sự được coi trọng đúng mức do vậy sự chuyển hóa kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng thành niềm tin, thái độ, hành vi sư phạm tốt đẹp trong học viên phát triển chậm. Các hình thức tổ chức sư phạm chủ yếu đặt trọng tâm vào nâng cao kiến thức, kỹ năng chưa quan tâm nhiều đến giáo dục, phát triển NLSP, đặc biệt là chưa chú trọng giáo dục, phát triển NLSP cho học viên thông qua tổ chức các hoạt động sư phạm để rèn luyện thói quen, hành vi tốt đẹp cho học viên.
Ba là, một bộ phận học viên chưa nhận thức sâu sắc về vai trò, tầm quan trọng của NLHĐSP đối với công tác chuyên môn sau này do vậy tính tích cực, chủ động của học viên trong việc tự tu dưỡng, tự rèn luyện NLSP chưa được phát huy thường xuyên. Một số học viên chưa tích cực, chủ động tự giáo dục, tự rèn luyện bản thân mình, thiếu những kỹ năng cơ bản về tự tổ chức hoạt động rèn luyện NLSP.
Bốn là, các tổ chức, các lực lượng giáo dục chưa thật sự phát huy sức mạnh tổng hợp trong giáo dục, phát triển NLSP cho học viên; sự phối hợp, kết hợp của các lực lượng này đôi lúc chưa chặt chẽ. Cũng không loại trừ quan niệm cho rằng việc dạy học là công việc của giảng viên, của khoa giáo viên còn việc giáo dục, rèn luyện, phát triển NLSP cho học viên là công việc của cán bộ quản lý và đơn vị quản lý học viên.
Năm là, do nguồn kinh phí có hạn nên việc đầu tư xây dựng nhà ở, giảng đường, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho đào tạo CB gặp nhiều khó khăn. Chưa thật sự gắn xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh với giáo dục, phát triển NLSP cho học viên.
*
* *
Thực trạng công tác giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ hiện nay có nhiều ưu điểm nhưng cũng còn nhiều nhược điểm do những nguyên nhân khác nhau. Học viên đào tạo CBCT tàu là đối tượng trẻ cả về tuổi quân và tuổi đời, họ còn thiếu cả về kiến thức, kỹ năng và NLSP; vì vậy quá trình đào tạo tại Học viện rất cần sự quan tâm năng cao chất lượng mọi mặt cho đối tượng này, trong đó rất cần coi trọng giáo dục, phát triển NLSP cho họ.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn được luận giải trên đây là cơ sở để đề xuất hệ thống biện pháp phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ hiện nay đảm bảo tính sát thực và mang lại hiệu quả cao, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo CBCT quân đội nói chung, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo ở các nhà trường quân đội hiện nay.
Chương 2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SƯ PHẠM CHO
HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHÍNH TRỊ TÀU Ở HỌC VIỆN HẢI QUÂN HIỆN NAY
Quá trình giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ là bộ phận của quá trình giáo dục PCNC nói chung. Nhằm tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ về GD - ĐT, trực tiếp là các chỉ thị về nhiệm vụ kiện toàn và phát triển đội ngũ cán bộ. Xuất phát từ yêu cầu của việc kiện toàn, phát triển đội ngũ cán bộ quân đội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới và xây dựng quân đội chính quy. Từ kết quả nghiên cứu của khoa học giáo dục về bản chất, đặc điểm, lôgíc của quá trình giáo dục PCNC quân nhân, cùng với những điều kiện khách quan và chủ quan đã nêu trên. Nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ hiện nay, chúng tôi đề xuất một số biện pháp cụ thể.
2.1 Kết hợp chặt chẽ giữa nâng cao trình độ kiến thức mọi mặt với bồi dưỡng tình cảm, xây dựng niềm tin sư phạm cho học viên trong quá trình dạy học
Trước hết, quá trình giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ hiện nay cần quán triệt và cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo của Đại hội Đảng vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu tham nhũng, lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức, kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trong tập thể, gắn bó với nhân dân, giám nghĩ, giám làm, giám chịu trách nhiệm.” [tr.292-293]
Kết hợp giữa nâng cao trình độ kiến thức mọi mặt với bồi dưỡng tình cảm, xây dựng niềm tin SP cho học viên trong dạy học là giai đoạn đầu tiên, cơ bản, quan trọng và là tiền đề của quá trình giáo dục, phát triển NLSP cho học viên; góp phần chuẩn bị về mặt tâm lý, tạo điều kiện để các hoạt động SP cho học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ diễn ra thuận lợi. Để giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đạt kết quả cao, quá trình dạy học cần thực hiện tốt một số yêu cầu cơ bản sau:
Một là, từng bước đổi mới, tiến tới chuẩn hóa chương trình đào tạo CTV tàu theo hướng tăng cường giáo dục phong cách, tác phong CBCT, phát triển NLSP và xây dựng động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn cho học viên.
Muốn nâng cao trình độ nhận thức, trang bị hệ thống kiến thức vững chắc về mọi mặt, đủ để học viên hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của người giáo viên; quá trình đào tạo Học viện cần thường xuyên đổi mới, tiến tới chuẩn hóa chương trình đào tạo CBCT tàu. Trên cơ sở quán triệt sự chỉ đạo của cấp trên, mà trực tiếp là theo tinh thần Đại hội X của Đảng cần xây dựng cấu trúc mô hình nhân cách, chương trình, nội dung đào tạo CBCT tàu có tính ổn định theo hướng chuẩn hóa nội dung, nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện, chú trọng phát triển NLSP cho học viên. Nội dung đào tạo CTV tàu phải bám sát thực tiễn, phù hợp với đối tượng đào tạo và hoạt động CTĐ, CTCT tàu HQ. Thu hẹp, tiến tới xóa bỏ khoảng cách hạn chế so với chuẩn quốc gia, với sự phát triển của GD - ĐT trong quân đội, Học Viện. Các khối kiến thức của chương trình đào tạo CTV tàu vừa phải đạt được mặt bằng của nhóm chuyên ngành chính trị, vừa đảm bảo tri thức chuyên sâu của từng chuyên ngành và kiến thức nghiệp vụ sư phạm quân sự. Trong sự hài hòa ấy, để kết hợp quá trình dạy học với giáo dục, phát triển NLSP cho học viên được tốt hơn, mỗi bài giảng, mỗi môn học, giảng viên cần coi trọng “đầu tư thích đáng cho mảng kiến thức chuyên ngành, trọng tâm rèn luyện tay nghề giáo viên cho học viên đào tạo CTV tàu, tạo điều kiện cho người học có kiến thức chuyên sâu, tinh thông, ra trường có thể giảng tốt chuyên ngành của mình”[76, tr.102].
Quá trình dạy học, giảng viên cần chú trọng bồi dưỡng tình cảm nghề nghiệp để từng bước hình thành ở học viên động cơ, thái độ học tập đúng đắn, tích cực. Việc học viên sớm xác định đúng mục tiêu, yêu cầu đào tạo để trở thành người CTV tàu có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là cơ sở để học viên xây dựng động cơ học tập đúng đắn, phát huy cao độ tính tích cực, tự giác trong quá trình học tập, rèn luyện và tự bồi dưỡng MLSP của bản thân. Vì vậy, giảng viên cần có những tác động sư phạm đủ để học viên hình thành nhu cầu rèn luyện trở thành người CTV tàu. Trong quá trình dạy học, bằng tất cả tình cảm và trách nhiệm của mình giảng viên phải làm cho học viên nhận thức rằng: nếu không tích cực, tự giác tự trau dồi, rèn luyện NLSP để nắm bắt cái mới, phát triển kịp yêu cầu xã hội, quân đội thì chỉ trong thời gian rất ngắn sẽ bị tụt hậu và không đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ hoạt động CTĐ, CTCT trong môi trường quân sự.
Để xây dựng động cơ, mục đích học tập, rèn luyện NLSP đúng đắn cho học viên cần tổ chức có hiệu quả các hoạt động dạy học, hội thảo khoa học, nói chuyện chuyên đề về vị trí, vai trò của người làm công tác giáo dục, truyền đạt, trao đổi kinh nghiệm sư phạm, sinh hoạt các tổ chức…Thông qua các hoạt động đó mà kết hợp bồi dưỡng tình cảm, niềm tin, tình yêu NNSP cho học viên. Mặt khác, cần hướng dẫn cho học viên cách thức, biện pháp tự bồi dưỡng và khả năng vận dụng kết quả tự học, tự bồi dưỡng vào quá trình đào tạo. Trong dạy học cần thực hiện tốt chức năng cơ bản của quá trình này, song cần coi trọng hình thành ở học viên động cơ, thái độ học tập đúng đắn, tích cực, hứng thú với NLHĐSP của mình; trên cơ sở đó bồi dưỡng xu hướng SP để từng bước phát triển ở học viên những NLSP cần thiết của CBCT tàu HQ.
Hai là, tích cực đổi mới nội dung dạy học gắn với tổ chức tốt quá trình giảng dạy các môn học để xây dựng, phát triển NLSP cho học viên.
Đổi mới nội dung dạy học theo hướng nâng cao tính giáo dục NLSP cho học viên đào tạo CTV tàu là cắt giảm những nội dung trùng lắp giữa các môn học, xác định đủ số lượng đơn vị kiến thức cơ bản để làm nền tảng nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học.
Với quá trình gáo dục, phát triển NLSP cho học viên, mỗi môn học có những tác dụng riêng; các môn học có tính chất đại cương sẽ giúp học viên có sự định hướng về các giá trị chính trị - xã hội của hoạt động sư phạm, các giá trị thể hiện lý tưởng nghề nghiệp… Trong giảng dạy các môn này cần nhấn mạnh vào việc hình thành cho học viên thế giới quan, phương pháp luận khoa học để làm cơ sở cho tư duy và hành động nghề nghiệp, xây dựng lập trường tư tưởng vững vàng, niềm tin HĐSP vững chắc.
Các môn khoa học chuyên ngành và khoa học sư phạm (trong đó Tâm lý học quân sự và Giáo dục học quân sự là mũi nhọn) có tác động mạnh đến sự hình thành, phát triển NLSP của học viên. Để tăng cường giáo dục NLSP cho học viên, một trong những biện pháp quan trọng là phải xử lý mối quan hệ giữa yêu cầu trang bị kiến thức khoa học cơ bản và khoa học nghiệp vụ sư phạm. Muốn vậy, cần thường xuyên đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy các môn này theo hướng cập nhật, hiện đại, sát với sự phát triển của khoa học sư phạm, của nhiệm vụ nâng cao chất lượng GD - ĐT. Sự đổi mới ở đây không chỉ là cải tiến, bổ sung, sửa chữa mà còn phải bảo đảm tạo ra khả năng thích ứng cho người học; đón trước sự biến đổi mọi mặt của thực tế. Về kiến thức khoa học sư phạm, quá trình dạy học cần chú trọng đến những vấn đề cốt lõi. Tăng khả năng và thời gian thực hành để ứng dụng những kiến thức mới phù hợp cho học viên, coi trọng bồi dưỡng cho học viên phương pháp tự học, tự giáo dục NLSP. Thông qua các hình thức dạy học, giảng viên cần hướng vào giáo dục cho học viên các giá trị PCNC, niềm tin, tình yêu NNSP; đồng thời, giúp học viên nhận thức được con đường, biện pháp phát triển các phẩm chất, năng lực sư phạm và từng bước hình thành các kỹ năng cơ bản trong quá trình đào tạo, tạo cơ sở cho sự hứng thú, niềm tin và xu hướng SP của học viên.
Quá trình đào tạo CTV tàu ở HVHQ hiện nay, Giáo dục học quân sự, tâm lí học quân sự có thể được coi là môn học cận với quá trình phát triển NLSP, Góp phần tăng cường định hướng chính trị cho học viên…trang bị kiến thức khoa học sư phạm…trực tiếp nâng cao trình độ tư duy và NLHĐ sư phạm…góp phần quan trọng nâng cao văn hóa sư phạm của người CTV tương lai. Vì vậy, trong giảng dạy bộ môn này cần phải làm cho tính lịch sử, tính giai cấp của giáo dục; các quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng, của quân đội về giáo dục thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của học viên. Thông qua hoạt động sư phạm của mình, giảng viên luôn phải đứng trên lập trường, cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về giáo dục để giáo dục PCNC cho học viên. Định hướng, chỉ dẫn cho học viên sự cần thiết phải xây dựng niềm tin sư phạm, lòng thương yêu đồng chí đồng đội và yêu quý con người, khát vọng nghề nghiệp luôn hướng tới chiếm lĩnh cả bề rộng và chiều sâu tri thức. Đồng thời, giảng viên luôn yêu cầu học viên phải tích cực, tự giác tự tu dưỡng, rèn luyện NLSP với đòi hỏi cao về tính mô phạm và phong cách sư phạm của người CTV tàu.
Ba là, kết hợp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của người học gắn với sử dụng tổng hợp các phương pháp giáo dục học viên.
Cùng với đổi mới về nội dung, quá trình dạy học cần đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của người học, cập nhật tăng lượng thông tin. Cần tích cực, mạnh dạn sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề, đối thoại, tranh luận, thảo luận…nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học. Các phương pháp này được sử dụng có hiệu quả sẽ làm cho học viên phải tập trung suy nghĩ, tìm tòi lời giải đáp cho những vấn đề chưa hiểu hoặc hiểu nhưng chưa được tường minh, học với thái độ tích cực hơn, năng động hơn và quan trọng là tạo ra sự hứng khởi cho người học, nâng cao phẩm chất trí tuệ cho học viên.
Giảng viên cần kết hợp các cách thức, biện pháp dạy học với các cách thức, biện pháp giáo dục nhân cách, phát triển NLSP cho học viên; cũng có thể kết hợp các phương pháp giáo dục với nhau trong quá trình dạy học. Chẳng hạn, với hình thức bài giảng, có thể thông qua sử dụng phương pháp thuyết trình trong dạy học để làm tăng tính thuyết phục về tình yêu, niềm tin, khát vọng vươn lên trong hoạt động NLSP quân sự cho học viên; cũng có thể kết hợp giảng thuật, giảng giải, giảng diễn khi trình bày, mô tả, giải thích, phân tích nội dung dạy học một cách khoa học để thuyết phục người học. Có thể kết hợp phương pháp thuyết phục với nêu gương và động viên khuyến khích trong khi thực hiện bài giảng để phát triển ở học viên niềm tin, lý tưởng, tính mô phạm, tinh thần quyết tâm vượt qua khó khăn vươn lên đạt thành tích cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Bằng lời nói sinh động, có sức truyền cảm, gắn kết lý luận và thực tiễn, lập luận một cách chặt chẽ, lôgíc và thêm vào đó là sự nhiệt tình, cùng với phong cách sư phạm mẫu mực, tự tin, người thầy sẽ mang đến cho học trò những cảm xúc, tình cảm, niềm tin vào những điều thầy đã giảng và đó là nguồn sáng để khơi lên khát vọng, chí hướng trong hoạt động sư phạm của học viên.
Bốn là, tăng cường tính mô phạm trong quá trình dạy học để phát triển phẩm chất trí tuệ, tính tổ chức sư phạm, tư duy sư phạm, lòng quyết tâm vượt qua khó khăn và vun đắp cho tình yêu, khát vọng vươn lên của học viên.
Sự mô phạm trong t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phát triển năng lực sư phạm cho học viên đào tạo cán bộ chính trị tàu ở Học Viện Hải Quân hiện nay.doc