MỤC LỤC
Phần mở đầu Trang 1
Phần nội dung Trang 3
Chương 1: Tổng qua về nguồn nhân lực Trang 3
1.1 Khái quát về lao động nguồn lao động Trang 3
1.2 Cấu trúc nguồn lao động Trang 4
1.3. Trình độ giáo dục của nguồn lao động Trang 5
1.4 Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động Trang 6
1.5 Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế Trang 6
Chương 2: Đặc điểm nguồn lao động Việt Nam Trang 9
2.1Qui mô dân số Trang 9
2.2 Phân bổ dân số theo vùng miền Trang 11
2.3 Đặc điểm định lượng của nguồn lao động Trang 13
2.4 Đặc điểm định tính của nguồn lao động Trang 15
2.5 Thói quen, nếp nghĩ, tác phong của người lao động Trang 23
2.6 Giá cả sức lao động Trang 24
Chương 3: Can thiệp của chính phủ để phát triển nguồn lao động Việt Nam Trang 25
3.1 Về vấn đề dân số và phân bổ nguồn nhân lực Trang 25
3.2 Về phương diện thể lực Trang 26
3.3 Về phương diện trí lực Trang 27
3.4 Về phương diện phẩm chất tâm lý xã hội của nguồn nhân lực Trang 29
3.5 Về chính sách sử dụng nhân lực Trang 29
Phần kết luận Trang 30
Danh mục tài liệu tham khảo Trang 31
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1579 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển nguồn lao động Việt Nam đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và đứng thứ 40 về mật độ dân số trên thế giới. Cũng chính vì thế mà nhiều chỉ tiêu bình quân đầu người của Việt Nam còn đứng ở thứ hạng thấp trên thế giới, thấp xa so với thứ hạng về dân số (đứng thứ 146/185 về GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái, thứ 122/177 về GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương).
Bảng 3: Nhịp độ tăng dân số trung bình và dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam giai đoạn 1976-2007
Năm
Dân số
Dân số trong độ tuổi lao động
Cơ cấu dân số(%)
Tổng số (ngàn người)
Nhịp độ tăng
Tổng số (ngàn người)
Tỷ trọng trong tổng dân số(%)
Nam
Nữ
Thành thị
Nông thôn
1976
49.160,1
3,20
22.122,0
45,0
47,92
52,08
20,61
79,39
1980
53.772,2
2,47
25.141,9
46,8
48,50
51,50
19,20
80,80
1985
59.872,1
2,15
29.600,1
49,4
48,91
51,09
19,01
80,99
1990
66.016,7
1,92
37.695,5
57,1
48,78
51,22
19,51
80,49
1991
67.242,4
1,86
38.866,1
57,8
48,80
51,20
19,67
80,33
1992
68.450,1
1,80
39.695,5
58,1
48,83
51,17
19,85
80,15
1993
69.644,5
1,74
40.811,6
58,6
48,86
51,14
20,05
79,95
1994
70.824,5
1,69
41.573,9
58,7
48,90
51,10
20,37
79,63
1995
71.995,5
1,65
42.189,4
58,6
48,94
51,06
20,75
79,25
1996
73.156,7
1,61
42.869,8
58,6
49,01
50,99
21,08
78,92
1997
74.306,9
1,57
43.469,5
58,5
49,08
50,92
22,66
77,34
1998
75.456,3
1,55
44.141,9
58,5
49,15
50,85
23,15
76,85
1999
76.596,7
1,51
44.962,2
58,7
49,17
50,83
23,61
76,39
2000
77.635,4
1,36
46.193,1
59,5
49,16
50,84
24,18
75,82
2001
78.685,8
1,35
47.132,7
59,9
49,16
50,84
24,74
75,26
2002
79.727,4
1,32
48.362,6
60,6
49,16
50,84
25,11
74,89
2003
80.902,4
1,47
49.083,5
60,7
49,14
50,86
25,80
74,20
2004
82.031,7
1,40
50.695,1
61,8
49,14
50,86
26,50
73,50
2005
83.106,3
1,31
52.439,8
63,1
49,15
50,85
26,88
73,12
2006
84.155,8
1,26
54.784,9
65,1
49,14
50,86
27,12
72,88
2007
85.195,0
1,23
57.251,1
67,2
49,14
50,86
27,40
72,60
Nguồn: Tổng hợp từ Niêm giám thống kê 2003. Số liệu Dân số - lao động, Tổng cục Thống Kê 2007 và số liệu thống kê lao động – việc làm ở việt Nam năm 2004, 2007 của Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã hội.
Dân số Việt Nam tương đối trẻ với tốc độ tăng tự nhiên hằng năm cao( thời kỳ 1960 – 1986 là 2,2%; 2000 – 2002 là 1,35; 2003 – 2004 là 1,35%; năm 2007 là 1,23%). Nói một cách hình tượng là mỗi năm nước ta tăng thêm dân số của một tỉnh trung bình. Năm 2007 tỷ lệ thanh niên trong nhóm 15-29 tuổi chiếm 47,5% tổng số người trong tuổi lao động. Dân số trẻ về lâu dài là một thế mạnh, song trước mắt sẽ bất lợi về kinh tế , do số người phải nuôi dưỡng (trẻ em) trên một lao động cao hơn các nước khác, kéo theo đó là những khó khăn về việc làm, giáo dục, y tế và các dịch vụ xã hội khác.
Cơ cấu dân số theo giới tính: mặc dù về tổng số thì tỷ trọng nữ nhiều hơn nam (50,85% so với 49,15%), nhưng chủ yếu là lứa tuổi từ 35 - 40 trở lên, còn lứa tuổi thấp hơn, đặc biệt là giới tính của trẻ em mới sinh thì nam giới đang nhiều hơn so với nữ giới. Năm 2007 so với 1995, trong khi nam giới tăng 18,8% thì nữ giới chỉ tăng 17,8%, trong đó có nhiều năm tốc độ tăng của nam giới cao hơn so với nữ giới. Tình hình trên có nguyên nhân từ tư tưởng trọng nam khinh nữ còn tồn tại khá nặng nề trong một bộ phận dân cư. Đây là điều cảnh báo về tình trạng mất cân bằng về giới tính trong tương lai không xa. Đây cũng là khía cạnh cần quan tâm trong việc đào tạo đáp ứng nguồn nhân lực cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
2.2 Phân bổ dân số theo vùng miền
Dân số Việt Nam phân bố không đều và có sự khác biệt rất lớn theo vùng địa lý-kinh tế.
Bảng 4: Dân số và mật độ dân số Việt Nam 2007 phân theo vùng
Dân số trung bình
Diện tích
Mật độ dân số
( Nghìn người)
(Km2)
(Người/km2)
Cả nước
85154.9
331211.6
257
Đồng bằng Sông Hồng
18400.6
148462.5
1238Bottom of Form
Đông Bắc
9543.9
64025.5
149
Tây Bắc
2650.1
37533.8
71Bottom of Form
Bắc Trung Bộ
1100722.7
51551.9
208Bottom of Form
Duyên Hải Nam Trung Bộ
7185.2
33166.1
217Bottom of Form
Tây Nguyên
4935.2
54659.6
90Bottom of Form
Đông Nam Bộ
14193.2
34807.8
408Bottom of Form
Đồng Bằng sông Cửu Long
17524
40604.7
432
Nguồn: Số liệu thống kê dân số _ lao động Việt Nam 2007. Tổng cục thống kê.
Dân số sống tập trung ở hai vùng châu thổ Sông Hồng và Sông Cửu Long nơi có 43% dân số của cả nước sinh sống, nhưng chỉ chiếm gần 17% đất đai của cả nước. Ngược lại, hai vùng Tây Bắc và Tây Nguyên, chỉ có dưới một phần mười (8,8%) dân số của cả nước, nhưng chiếm tới hơn một phần tư (27%) diện tích đất của toàn quốc. Mật độ cao nhất là đồng bằng sông Hồng (1.238 người/km2), trong đó có 8/11 địa phương có mật độ trên 1.000 người/km2; đồng bằng sông Cửu Long 432 người/km2, Đông Nam Bộ 408 người/km2, duyên hải Nam Trung Bộ 217 người/km2, Đông Bắc 149 người/km2, Tây Nguyên 90 người/km2, Tây Bắc 71 người/km2.
Cơ cấu dân số theo thành thị/nông thôn cũng có một số vấn đề đáng lưu ý. Một mặt, tỷ lệ dân số thành thị tuy đã tăng lên trong thời gian qua (năm 1995 là 20,75%, năm 2000 là 24,18%, năm 2005 là 26,88%, năm 2007 là 27,44%), nhưng vẫn thuộc loại thấp so với mức bình quân của thế giới (49%), của châu Mỹ (79%), châu Âu (72%), châu Đại Dương (72%), châu Á (41%), châu Phi (37%); thấp hơn cả của Đông Nam Á (39%); đứng thứ 8/11 nước ở Đông Nam Á, thứ 42/50 nước và vùng lãnh thổ ở châu Á, thứ 177/208 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Mặt khác, đô thị hóa về mặt dân số tăng lên nhưng sự chuẩn bị về các mặt quy hoạch, nhà ở, việc làm, giao thông công chính, vệ sinh môi trường,... chưa tương xứng.
Bảng 5: Cơ cấu dân số Việt Nam phân theo thành thị và nông thôn
Thành Thị
Nông Thôn
Người
%
Người
%
2000
18771.9
24.18
58863.5
75.82
2001
19469.3
24.74
59216.5
75.26
2002
20022.1
25.11
59705.3
74.89
2003
20869.5
25.80
60032.9
74.20
2004
21737.2
26.50
60294.5
73.50
2005
22336.8
26.88
60769.5
73.12
2006
22792.6
27.09
61344.2
72.91
Sơ bộ 2007
23370.0
27.44
61784.9
72.56
Nguồn: Số liệu thống kê dân số _ lao động Việt Nam 2007. Tổng cục thống kê.
Ngoài ra, sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền đặc biệt là giữa nông thôn và thành thị, các khu công nghiệp tập trung như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh , Vũng Tàu, Đồng Nai… dẫn đến dòng người di dân tự phát từ nông thôn vào các thành phố lớn với quy mô và tốc độ ngày càng tăng. Số này vào thành phố chủ yếu là tìm kiếm việc làm có thu nhập cao hơn ở nông thôn, nên họ chấp nhận những việc làm nặng nhọc, vất vả, từ đó tạo ra nhiều phức tạp cho việc quản lý đô thị, làm quá tải các dịch vụ hạ tầng xã hội như: giao thông, y tế, trường học, điện nước…
Đặc điểm định lượng của nguồn lao động
Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Đến hết năm 2007, cả nước có trên 44 triệu lao động trên tổng số 85,3 triệu dân. Sức trẻ là đặc điểm nổi trội của tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam. Nước ta là một trong số ít quốc gia trong khu vực có tỷ lệ về cơ cấu độ tuổi của dân số và lao động khá lý tưởng : nhóm trẻ, từ 15 – 34 tuổi chiếm hơn 50%; nhóm người ở độ tuổi trung niên từ 35 – 54 tuổi chiếm hơn 42%; số nhân lực cao tuổi chiếm khoảng 7%. Mỗi năm Việt Nam có hơn 1,2 triệu người đến tuổi lao động và được bổ sung vào lực lượng lao động của đất nước. Nguồn nhân lực trẻ gắn với những điểm mạnh như sức khỏe tốt, năng động, dễ tiếp thu cái mới, nắm bắt công nghệ nhanh, di chuyển dễ dàng. Nếu được học văn hóa, đào tạo nghề, họ sẽ phát huy tác dụng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là yếu tố rất thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 2005, tổng số công nhân, lao động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp và cơ sở kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế ở nước ta là 11,30 triệu người, chiếm 13,5% dân số, 26,46% lao động xã hội. Trong đó 1,84 triệu công nhân làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước, 2,95 triệu công nhân trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, 1,21 triệu công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; 5,29 triệu lao động làm việc trong các cơ sở kinh tế cá thể.
Bảng 6: Dân số và lực lượng lao động trong doanh nghiệp 1995 - 2005
Đơn vị: triệu người
Tiêu chí
1995
2002
2003
2004
2005
Dân số cả nước
71,996
78,686
79,727
80,900
83,110
Tổng số lao động xã hội
33,030
39,507
40,573
41,586
42,709
Tổng số lao động trong DN
2,806
4,658
5,175
5,770
6,006
a) LĐ DN nhà nước
1,778
2,261
2,264
2,249
1,844
b) LĐ DN ngoài nhà nước
0,430
1,706
2,049
2,476
2,950
c) LĐ DN có vốn ĐTNN
0,098
0,691
0,862
1,045
1,211
Lao động trong các cơ sở kinh tế cá thể
3,241
4,436
4,842
4,988
5,297
Nguồn:- Tổng cục Thống kê,Niên giám thống kê 2005,NX B Thống kê, Hà Nội, 2006.
So với năm 1995 Số lượng công nhân làm việc trong các doanh nghiệp đã tăng 2,14 lần. Trong đó, công nhân trong doanh nghiệp nhà nước tăng 1,03 lần, trong doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 6,86 lần, trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 12,3 lần, lao động thuộc các cơ sở kinh tế cá thể tăng 1,63 lần .
Công nhân các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 70,9%, ngành dịch vụ và thương mại chiếm 24,3%, các ngành khác chiếm 4,8%.
Trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể công nhân chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ và thương mại, ước tính chiếm 66,67%; còn lại 33,33% hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
2.4 Đặc điểm định tính của nguồn lao động
2.4.1 Thể trạng sức khoẻ nguồn nhân lực Việt Nam
Thể lực của người Việt Nam nhìn chung còn thấp kém, phần lớn chưa đáp ứng yêu cầu cường độ làm việc của xã hội công nghiệp hiện đại và các chuẩn quốc tế. Theo đánh giá của Viện Khoa học Thể dục-Thể thao (Uỷ ban Thể dục-thể thao), so với thể lực của thanh thiếu niên các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Inđônêsia thì thể chất người Việt Nam từ 6-20 tuổi còn kém hơn về chiều cao, cân nặng, sức mạnh, sức bền và chỉ tương đương về sức nhanh, sự khéo léo và mềm dẻo. Theo kết quả điều tra năm 2000 số người lao động không đủ tiêu chuẩn về cân nặng là 48,7%, số người suy dinh dưỡng là 28%, số phụ nữ thiếu máu là 40%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi theo chiều cao (tỷ lệ thấp còi) còn cao (năm 2005 là 26%), cao hơn nhiều so với các nước Trung Quốc (17%), Philippin (11%) và Thái Lan (16%); và điều này sẽ còn tiếp tục tác động tiêu cực đến thể trạng và thể lực của người lao động trong tương lai.
Bảng7: Kết quả điều tra chiều cao, cân nặng học sinh nam 15 tuổi (1999)
Tên nước
Chiều cao(cm)
Cân nặng(kg)
Việt Nam
147
34,4
Thái Lan
149
40,5
Philippin
153
45,5
Ấn Độ
155
49,5
Nhật Bản
164
53,3
Nguồn: Viện Dinh Dưỡng bộ Y Tế, Dinh dưỡng con người Việt Nam,1999
Như vậy tình trạng sức khoẻ người Việt Nam ở mức trung bình kém, điều này làm giảm chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá của đất nước và giảm sức cạnh tranh của lao động Việt Nam trên thị trường lao động thế giới.
2.4.2 Trình độ giáo dục của nguồn lao động Việt Nam
Trình độ giáo dục của nguồn nhân lực ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng nguồn nhân lực, nó phản ánh khả năng tiếp thu và vận dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Tuy nhiên, trình độ giáo dục nguồn lao động của Việt Nam chưa đáp ứng được những đòi hỏi phát triển trong giai đoạn hiện nay thông qua nhiều thông số.
Tính trong cả nước, vào năm 2004 dân số hoạt động kinh tế có tới 32,8% mới tốt nghiệp tiểu học; 19,7% tốt nghiệp trung học phổ thông; tỷ lệ mù chữ là 5,01%; các tỷ lệ tương ứng của nữ là 30,6; 18,1 và 6,2%
Trình độ học vấn của lao động nước ta trong những năm gần đây đã được nâng lên đáng kể. Nếu như năm 1985, tỷ lệ lao động có học vấn phổ thông trung học là 42,5% thì năm 2003, lao động có trình độ trung học phổ thông chiếm 62,2%. Năm 2005, số lao động có trình độ phổ thông trung học tăng lên đến 69,3%. Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, so với trình độ của lao động các nước trong khu vực và quốc tế thì trình độ học vấn của lao động nước ta còn thấp.
Bảng 8:Trình độ giáo dục dân số hoạt động kinh tế của các nước Châu Á 1996 (%).
Trình độ
Việt Nam
Singapore
Malaixia
Hàn Quốc
Đài loan
Hồng Kông
Giáo dục đại học
5,1
23
5
50
40
40
Giáo dục trung học
9,8
30
48
20
20
23
Giáo dục tiểu học
85,1
47
47
30
40
37
Nguồn: Báo cáo của Bộ Lao Động, Thương bing và Xã hội Việt Nam 1996
Theo chỉ số phát triển giáo dục, Việt Nam xếp thứ 64/127 trong khi Hàn Quốc xếp thứ 4, Trung Quốc xếp thứ 54, Thái Lan thứ 60…
Bảng 9: So sánh quốc tế về các chỉ tiêu giáo dục
Tên nước
Chỉ số phát triển giáo dục ( EDIT)
Tỷ lệ phổ cập giáo dục tiểu học
Tỷ lệ biết chữ của người lớn từ 15 tuổi trở lên
Mức cân bằng về giới
Chất lượnggiáodục
Điểm số
Xếp thứ/127
Việt Nam
0,914
64
94
90,3
92,5
89
Trung Quốc
0,93
54
94,6
91
88,5
98
Philipine
0,904
70
93
93
96,7
79,3
Inđônêxia
0,912
65
92,1
88
95,7
89,2
Malaixia
89
Thái Lan
0,921
60
86,3
93
95,5
94,1
Hàn Quốc
0,99
4
99,9
98
99,2
99
Singapore
93
Thế giới
81,7
Nguồn: Báo cáo của Bộ lao động, Thương binh, Xã hội Việt Nam, 2002
Mặt khác, lực lượng lao động có trình độ học vấn cao phân bố không đồng đều, thường tập trung ở một số thành phố lớn và một số ngành kinh tế mũi nhọn.
Bảng10: Cơ cấu trình độ dân số hoạt động kinh tế thường xuyên chia theo vùng 2003
Đơn vị: %
Khu vực
Chưa biết chữ
Chưa tốt nghiệptiểu học
Tốt nghiệptiểu học
Tốt nghiệptrung họccơ sở
Tốt nghiệptrung họcphổ thông
Cả nước
4,23
15,48
31,51
30,40
18,37
Chia ra theo giới tính
Nam
2,89
16,41
32,01
30,99
19,51
Nữ
4,61
17,35
31,64
29,10
17,30
Chia theo vùng lãnh thổ
Đồng bằng sông Hồng
0,53
4,59
19,16
49,69
26,03
Đông Bắc
6,57
12,78
26,81
35,52
18,32
Tây Bắc
20,00
22,16
27,79
19,66
10,39
Bắc Trung Bộ
1,74
10,13
29,90
39,16
19,07
Duyên hải Nam Trung Bộ
3,02
17,30
38,48
24,19
17,02
Tây Nguyên
11,38
16,64
32,30
24,91
14,77
Đông Nam Bộ
2,74
25,67
36,34
22,16
23,09
Đồng Bằng sông Cửu Long
5,64
29,11
42,07
13,80
9,38
Nguồn: Số liệu thống kê lao động – việc làm ở Việt Nam 2003, NXB Lao Động – Xã hội, 2004, Hà Nội, tr 21 - 23
Số liệu theo bảng cho thấy cơ cấu trình độ học vấn cả nước năm 2003 như sau: Số lao động chưa biết chữ chiếm 4,23%; chưa tốt nghiệp tiểu học 15,48%; đã tốt nghiệp THCS 30,4%; đã tốt nghiệp THPT 18,37%. Đây là tỷ lệ trung bình của cả nước. Phân tích cơ cấu theo từng vùng, ta thấy, có sự khác biệt rất lớn. Có bốn vùng lực lượng lao động có trình độ học vấn trung bình cao hơn mức trung bình của cả nước là: Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ; Trong đó Đồng bằng sông Hồng đạt tỷ lệ cao nhất. Bốn vùng còn lại gồm Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long có trình độ học vấn thấp hơn mức trung bình cả nước, trong đó thấp nhất là Tây Bắc (với lao động chưa biết chữ chiếm 20% lực lượng lao động trong vùng)
Tỷ lệ này cũng có sự cách biệt giữa nam và nữ. Số lao động nữ chưa biết chữ cao gần gấp đôi nam, trong khi đó số lao động tốt nghiệp THPT ở nam là 19,51còn ở nữ là 17,30.
2.4.3 Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nguồn lao động Việt Nam.
Chất lượng về mặt trí lực của nguồn nhân lực không chỉ thể hiện ở trình độ học vấn, quan trọng hơn là trình độ chuyên môn kỹ thuật, thông qua số lượng và chất lượng của lao động đã qua đào tạo.
Trong những năm vừa qua, tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật có xu hướng tăng lên. Năm 2001, có 17,05% tổng lực lượng lao động cả nước có chuyên môn kỹ thuật; năm 2002 là 19,62%; năm 2003 là 21,22% và đến năm 2005, tỷ lệ lao động cả nước có trình độ chuyên môn kỹ thuật tăng lên 24,79%.
Bảng 11: Chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ CMKT (%)
Các chỉ tiêu
1979
1989
1999
2003
2005
1. Không có trình độ CMKT
95,03
92,7
91,9
78,78
75,21
2. Công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ có bằng
3,39
2,2
2,4
12,65
15,22
3. Trung học chuyên nghiệp
1,06
3,2
3,0
4,01
4,3
4. Cao đẳng trở lên
0,52
1,9
2,7
4,77
5,27
Tổng
100
100
100
100
100
Nguồn: Tổng điều tra dân số Việt Nam 1-10-1997, Hà Nội – 1983; Tổng điều tra dân số toàn diện 1-4-1989, Hà Nội – 1992; Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999. Kết quả điều tra mẫu H.2000.; Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Số liệu thống kê lao động việc ở ở Việt Nam năm 2005, Hà Nội 11-2005.
Tuy nhiên, con số này còn thấp so với yêu cầu. Tính đến 2005, lao động qua đào tạo ở Việt Nam chiếm một tỷ lệ rất thấp (24,79%), lao động chưa qua đào tạo còn chiếm một tỷ lệ rất cao (75,21%).
Đối với công nhân kỹ thuật (CNKT), tỷ lệ tăng dần từ 1989 trở đi. Giai đoạn 1999 đến 2005 có sự tăng đột biến (một phần do số liệu năm 2005 có tính cả số người có chứng chỉ nghề và sơ cấp). Trong thời gian đó, tỷ lệ số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp cũng tăng, nhưng tăng chậm hơn (+1,3%/6 năm).
Đối với lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên, tỷ lệ này so với tổng số lao động (năm 2005: 44,4 triệu người) tăng nhanh hơn cả. Giai đoạn 1999 – 2005 tăng bình quân 0,43%. Như vậy, trong 5 năm gần đây có sự tăng nhanh về quy mô đào tạo cao đẳng, đại học trở lên đến 5,4 lần, so với tốc độ tăng trung bình thời kỳ 1989 – 1999 (0,08%).
Tình hình đó đưa đến sự chuyển dịch theo xu hướng từ “hình thang thuận sang hình thang ngược”. Cấu trúc giữa công nhân kỹ thuật, trung cấp và cao đẳng, đại học trở lên trong thời gian 1979 đến 2005 được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 12: Cơ cấu đào tạo nghề nghiệp hợp lý và thực tế ở Việt Nam
Đại học
Trung học chuyên nghiệp
Công nhân kỹ thuật
Cơ cấu đào tạo hợp lý của thế giới
1
4
10-15
Cơ cấu đào tạo của Việt Nam
Năm 1979
1
2.25
7.10
Năm 1995
1
1.60
3.60
Năm 2002
1
0.98
2.66
Năm 2005
1
1.13
0.92
Nguồn: Báo cáo của Bộ Lao dộng, Thương binh và Xã hội tại hội thảo “Phát triển thị trường lao động ở Việt Nam, HN 2002. Văn kiện đại hội Đảng X, Nxb CTQG, H. 2006, tr.146.
Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,13 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 1, 4 và 10. Các con số này chỉ ra một hiện tượng “thầy” nhiều hơn “thợ”, nói lên sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu trình độ lao động trong nền kinh tế giai đoạn công nghiệp hóa hiện nay. Hiện nay cũng có quan điểm cho rằng, để bắt kịp nền kinh tế tri thức cần phải phát triển số lượng cán bộ có trình độ Đại học. Nhưng cần phải thấy rằng, nước ta có cơ sở hạ tầng và dịch vụ còn thấp kém. Vì vậy, dù muốn “đi tắt”, “đón đầu” trong quá trình công nghiệp hóa để tiến tới nền kinh tế tri thức thì trước hết nước ta phải thực hiện tuần tự những bước đi cơ bản, vững chắc, tạo nền tảng ban đầu, từ đó mới có thực lực cho những “bước nhảy” tiếp sau quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngoài ra, tình trạng khác biệt giữa nông thôn và thành thị về tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, đặc biệt là tỷ lệ công nhân kỹ thuật có bằng cấp trở lên, không những chưa được cải thiện mà còn có xu hướng gia tăng. Năm 2002 cứ 100 người thuộc lực lượng lao động thì ở nông thôn có 8 người và thành thị có 41 người được đào tạo từ trình độ công nhân kỹ thuật có bằng cấp trở lên; trong khi năm 2001, con số tương ứng là 6 và 30. Khu vực nông thôn đang ngày càng gặp nhiều khó khăn trong việc khai thác nguồn nhân lực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bảng 13: Cơ cấu lao động chuyên môn kỹ thuật theo từng vùng năm 2003
Đơn vị: %
Khu vực
Không có trình độ chuyên môn kỹ thuật
Sơ cấp, học nghềtrở lên
Công nhân kỹ thuậtcó bằng trở lên
Cả nước
78,78
21,22
11,84
Đồng bằng sông Hồng
71,59
28,41
15,49
Đông Bắc
82,24
17,76
12,37
Tây Bắc
89,35
10,65
8,12
Bắc Trung Bộ
84,21
15,79
10,03
Duyên hải Nam Trung Bộ
78,88
21,12
10,77
Tây Nguyên
85,12
14,88
9,36
Đông Nam Bộ
66,62
33,38
18,03
Đồng Bằng sông Cửu Long
86,57
13,43
6,03
Nguồn: Số liệu thống kê lao động – việc làm ở Việt Nam 2003, Nxb. Lao động – Xã hội, 2004, Hà Nội, tr. 39-41.
Trong số tám vùng của cả nước, vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhất cả nước 33,38%; tiếp đến là Đồng bằng sông Hồng 28,41%; Duyên hải Nam Trung Bộ 21,12%; thấp nhất là Tây Bắc 10,65%.
Trình độ giáo dục và đào tạo chuyên nghiệp nguồn lao động của Việt Nam còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn: Một mặt, thiếu hẳn đội ngũ lao động có chuyên môn cao; mặt khác, việc đào tạo sinh viên tốt nghiệp chưa đáp ứng với yêu cầu của xã hội phát triển trong giai đoạn hiện nay. Điều tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2006 cho thấy cả nước có tới 63% số sinh viên ra trường không có việc làm, 37% số còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại và có nhiều người không làm đúng nghề mình đã học, trong khi đó nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có FDI và nhiều dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu nguồn lực chuyên nghiệp. Việt Nam thiếu trầm trọng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có tay nghề cao trong các lĩnh vực như quản lý, thương mại và công nghệ cao. Đặc biệt trong những năm qua nhiều sinh viên, chuyên gia được nhà nước cho đi đào tạo ở nước ngoài, sau khi tốt nghiệp không quay trở về để làm việc. Trong khi đó ờ các doang nghiệp và công sở nhà nước những lao động dư thừa bởi không có chuyên môn, kỹ thuật chiếm tỷ lệ khá cao. Nước ta hiện cần có khoảng 250 – 300 ngàn người lao động có tay nghề cao như kỹ sư, các nhà quản lý cho các khu công nghiệp, khu chế xuất ở trong các vùng kinh tế trọng điểm bắt đầu hoạt động từ năm 2000, nhưng chúng ta chỉ mới đáp ứng được khoảng 30 – 40%.
Thêm vào đó, những công nhân qua đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp, các trường dạy nghề, về cơ bản, không thoả mãn các nhu cầu của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Về cơ cấu cán bộ khoa học công nghệ trình độ cao: tính tới tháng 12-2000, Việt Nam đã có trên 1,3 triệu người có trình độ đại học – cao đẳng; trên 10.000 thạc sỹ; 13.500 tiến sỹ và tiến sỹ khoa học (trong đó 610 tiến sỹ khoa học). Bình quân 190 cán bộ khoa học công nghệ/10.000 dân (năm 1989 là 105). Theo đó, cơ cấu tỷ lệ cán bộ (theo trình độ chuyên môn): 98% đại học, cao đẳng; 0,75% thạc sỹ; 0,97% tiến sỹ và tiến sỹ khoa học (tiến sỹ khoa học: 0,05%). Tỷ lệ đó thể hiện mối tương quan giữa các loại trình độ là: 1 tiến sỹ: 0,8 thạc sỹ: 105 đại học, cao đẳng.
Đến 2006, Việt Nam đã đào tạo ra được trên 1,8 triệu cán bộ đại học, cao đẳng trở lên, trong đó có trên 14 nghìn tiến sỹ và 16 nghìn thạc sỹ. Số lượng cán bộ khoa học công nghệ trên đại học đã tăng từ 23,500 nghìn (2000) lên trên 20 nghìn (2006). Theo thống kê của Bộ Nội vụ, tính đến 11-2004, cả nước có khoảng 5.479 giáo sư, phó giáo sư được công nhận, trong đó số lượng giáo sư, phó giáo sư đang làm việc là 3.075, chiếm 56,1%. Mối tương quan giữa các loại trình độ ở thời điểm năm 2006 là: 1 tiến sỹ : 1,14 thạc sỹ : 128 đại học, cao đẳng trên cho thấy số lượng tiến sỹ và tiến sỹ khoa học có tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, khoảng 2/3 số người có học vị tiến sĩ trong cả nước không làm khoa học mà đang làm công tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hằng năm chỉ bằng khoảng 1/4 của Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số người nhận bằng tiến sỹ hằng năm của ta thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao gần gấp đôi.
Hơn nữa, đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ trẻ kế cận có trình độ cao, chuyên gia giỏi, cán bộ đầu đàn giỏi ngày càng thiếu, đặc biệt là chuyên gia về công nghệ. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, tỷ lệ số người có trình độ trên đại học trên tổng số cán bộ giảng dạy hiện mới đạt 12,7% (cần đạt 30%).
Thêm vào đó, có một số khá đông cán bộ khoa học có trình độ chuyên môn cao, đạt “độ chín” về mặt trí tuệ thì lại ở độ tuổi về hưu, dễ dẫn đến nguy cơ hụt hẫng cán bộ trình độ cao và là sự lãng phí chất xám lớn. Điều này đặt ra vấn đề cấp bách phải tích cực đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ trẻ, kế cận, đồng thời phải có chính sách sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ có trình độ cao đã đến tuổi nghỉ hưu, nhằm phát huy được trí tuệ của toàn bộ đội ngũ.
2.5 Thói quen, nếp nghĩ, tác phong của người lao động
Người lao động còn mang nặng sức ỳ từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung nên chậm phản ứng đối với những biến động trên thị trường lao động. Có thể xem xét các khía cạnh này thông qua các chỉ số về mức độ thay đổi chỗ làm việc với tiếp nhận công việc mới và mức độ di chuyển sức lao động. Hàng năm ở Việt Nam có khoảng hơn một triệu người có việc làm mới và khỏang 1,3 triệu lượt người thay đổi chỗ làm việc, như vậy tính chung là khoảng 2,5 triệu người có chỗ làm việc mới hoặc thay đổi chỗ làm việc, tức là chiếm khoảng 6% dân số đang hoạt động kinh tế. Trong khi đó ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển cao như Mỹ, Anh, Nhật con số này thường chiếm 50%.
Nếp nghĩ và tác phong của người lao động vẫn còn mang nặng thói quen của nền sản xuất nhỏ, một bộ phận lớn lao động làm việc ở nông thôn, nên tính tổ chức, kỷ luật còn yếu, tác phong công nghiệp chưa cao, tùy tiện về giờ giấc và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat trien nguon nhan luc Viet Nam.doc