Nhà nước kiên trì và nhất quán chính sách khuyến khích nhiều thành phần kinh tế phát triển trong sản xuất và xuất khẩu gạo.
Trong thời gian vừa qua đâylà một trong những chính sách có nhiều tác dụng, khơi dậy nhiều tiềm năng trong dân để phát triển kinh tế, trong đó có phát triển sản xuất lúa gạo. Trong lĩnh vực xuất khẩu gạo sắp tới vẫn để nhiều thành phần kinh tế tham gia nhằm tạo khả năng thích ứng linh hoạt với thị trường gạo thế giới. Những tổ chức này cùng sản xuất để có gạo cùng loại và chất lượng tiêu chuẩn thống nhất. Điều quan trọng để công tác xuất khẩu gạo đi vào nề nếp là thực hiện quản lý Nhà nước theo luật pháp hoạt động này. Dù doanh nghiệp là nhà nước hay tư nhân đều phải kinh doanh theo đúng pháp luật qui định.
29 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 894 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển sản xuất lúa và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công nghiệp hoá. Trước tình hình đó lúa gạo đã đột phá vươn lên để giữ vị trí mặt hàng xuất khẩu lớn thứ 2 nước ta, sau dầu thô. Trong suốt 12 năm qua riêng kim ngạch xuất khẩu gạo đã đạt trên 7 tỷ USD... Con số đó đã nói rõ sự cần thiết của việc xuất khẩu gạo đối với công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước.
3.2.2 Cải thiện đời sống
Đối với mỗi quốc gia, việc phát triển nguồn nhân lực là nội dung lớn thuộc chiến lược con người để thực hiện thắng lợi các chiến lược kinh tế xã hội của đất nước.
Dân số nước ta với 80% dân số tập trung ở nông thôn, phần lớn sinh sống bằng sản xuất lúa gạo và trồng cây lương thực. Trong khi đó đời sống ở nông thôn và thành thị có sự chênh lệch đáng kể. Đời sống của người nông thôn còn thấp, xét cả về mức thu nhập bình quân đầu người, điều kiện vật chất và cơ sở hạ tầng .v.v... Với tình trạng đó thì việc phát triển sản xuất lúa gạo và xuất khẩu gạo để nâng cao thu nhập cho nông dân góp phần xây dựng nông thôn ngày một giàu mạnh là điều thật sự cần thiết.
3.2.3 Phát huy lợi thế trong nước
Sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam có những lợi thế cơ bản như lợi thế về đất đai về khí hậu, nước tưới tiêu, nguồn nhân lực, vị trí địa lý và cảng khẩu. Một chiến lược đúng đắn nhất phải là chiến lược khai thác được nhiều lợi thế nhất. Chính những lợi thế đó, từ điều kiện nhân lực đến điều kiện thiên nhiên đã làm cho sản lượng lúa tăng đều đặn trong những năm qua. Do đó, chúng ta thấy rõ hơn sự cần thiết phải xuất khẩu gạo cũng như tính đúng đắn của định hướng xuất khẩu gạo.
cầu gạo thế giới vẫn diễn ra theo chiều hướng có lợi cho nhà xuất khẩu. Do vậy, định hướng xuất khẩu gạo đối với Việt Nam là điều đúng đắn.
Chương II
Thực trạng sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam
trong thời gian qua
1. Sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 1989 đến nay
1.1 Tình hình sản xuất lúa gạo
Bảng thống kê dưới đây sẽ chỉ ra những nét tổng thể về sản xuất lúa.
Bảng 2: Tình hình sản xuất lúa nói chung của cả nước từ 1989-2000
Năm
Sản lượng
(ngàn tấn)
Diện tích
(ngàn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
1989
18996
5895
32,3
1990
19225
6043
31,9
1991
19622
6303
31,1
1992
21590
6475
33,3
1993
22837
6559
34,8
1994
23528
6599
35,7
1995
24964
6766
36,9
1996
26397
7004
37,7
1997
24524
7100
38,8
1998
29146
7363
39,6
1999
31394
7648
41,0
2000
35670
7890
42,5
Nguồn : Niên giám thống kê 1999
Từ những số liệu nêu trên chúng ta thấy tình hình sản xuất lúa nước ta mở ra cục diện khả quan rõ rệt về sản lượng năng suất và diện tích, năm sau nối tiếp nhau cao hơn năm trước.
- Trước hết là về sản lượng, từ 1989-2000 xu hướng tăng nhanh hơn và ổn định hơn. Trong động thái phát triển chung đó, tốc độ tăng trưởng kể từ năm 1992 càng nhanh chóng và vững chắc hơn. Năm 1992 sản lượng lúa tăng 10% so với năm trước và tiếp tục tăng trong năm năm tiếp theo. Đặc biệt là năm 2000 sản lượng lúa lại tiếp tục tăng gần 14% so với năm trước.
- Về diện tích, xu hướng tăng cũng diễn ra liên tục và đều đặn qua 12 năm. Điều khác biệt so với trước đây là ở giai đoạn này từ 1989-2000 xu hướng tăng của diện tích cũng nhanh hơn so với năng suất.
Đồ thị 1. Xu hướng biến động về sản lượng và diện tích (Xem phụ lục)
- Về năng suất, xu hướng tăng từ 1989-2000 có thấp hơn một chút so với diện tích, năm 1990-1991 do thiên tai nên năng suất đã giảm ằ 4%. Tuy nhiên xu hướng tăng chung của cả giai đoạn từ 1989-2000 vẫn đạt 29%. Năng suất tăng ở mức cao nhất vào năm 2000 là 13,5%, bình quân tăng 3,6%/năm.
Đồ thị 2. Xu hướng biến động về sản lượng và năng suất (xem phụ lục)
Do đổi mới cơ chế khoán 10 trong nông nghiệp, sản lượng, diện tích năng suất lúa cả nước đã tăng 1 cách nhanh chóng kể từ năm 1989 đến nay. Và còn có thể tăng mạnh hơn nữa trong tương lai. Lúa gạo đang dần tiến tới vị trí chủ đạo đối với lương thực cũng như đối với nền kinh tế nước ta.
1.2 Tình hình xuất khẩu :
1.2.1 Số lượng và kim ngạch xuất khẩu.
Do sản xuất tăng nhanh và ổn định, mức lương thực bình quân nói chung và lúa gạo nói riêng liên tiếp được cải thiện, Việt Nam không những đã tự túc được lương thực trong nước mà còn dư thừa lương thực để xuất khẩu. Ngày nay Việt Nam xuất hiện trên thị trường thế giới với vị trí là nước xuất khẩu gạo thứ 2 sau Thái Lan. Trong những năm gần đây sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam có chiều hướng gia tăng nhanh hơn.
Bảng 3. Số lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam
từ năm 1989-2000
Năm
Số lượng (triệutấn)
Kim ngạch (triệu USD)
Số lượng
% thay đổi
Kim ngạch
% thay đổi
1989
1,425
-
321,811
-
1990
1,624
13,95
310,403
-3,35
1991
1,033
-36,39
234,491
-22,46
1992
1,946
88,38
418,400
78,43
1993
1,728
11,21
362,900
-13,26
1994
2,040
18,05
449,500
23,86
1995
2,052
0,57
539,800
20,08
1996
3,047
48,48
868,200
60,82
1997
3,600
18,14
864,700
-0,05
1998
3,750
4,16
1.024,000
18,84
1999
4,550
21,4
1.035,000
10,5
2000
4,780
5,1
1.040,000
5,0
Nguồn: Niên giám thống kê & Bộ Thương mại
Kể từ năm 1989 đến nay lượng gạo xuất khẩu tăng bình quân 17%/năm. Mặc dầu có một vài năm kim ngạch xuất khẩu giảm nhưng phần lớn không phải do sự suy giảm số lượng gạo xuất khẩu mà do giá gạo trên thị trường thế giới giảm. Có thể nói xuất khẩu gạo trong những năm qua có những bước phát triển mạnh mẽ. Đến năm 2000 nước ta đã xuất khẩu 4,7 triệu tấn gạo, kim ngạch đã đạt trên 1tỷ USD. Trong vòng 12 năm qua (1989-2000) Việt Nam đã xuất khẩu gần 30 triệu tấn gạo với kim ngạch đạt trên 7 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu gạo đã góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp nói riêng cũng như tăng trưởng kinh tế quốc dân nói chung trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
1.2.2. Chất lượng, chủng loại gạo xuất khẩu
Chất lượng gạo xuất khẩu gồm nhiều tiêu thức như hình dáng, kích cỡ, mùi vị, tỉ lệ thóc, tạp chất nhưng trong đó, tỉ lệ tấm đóng vai trò quan trọng thường được quan tâm tới. Bảng dưới đây phản ánh chất lượng gạo theo tỉ lệ tấm của một số cấp loại gạo điển hình của Việt Nam.
Bảng 4. Chất lượng gạo Việt Nam qua các năm
Cấp loại gạo (% tấm)
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
5%
3,3
6,0
18,5
25,7
42,3
30,6
42,4
48,5
51,2
50,7
52,4
15%
13,1
30,0
20,8
25,6
23,6
22,3
25,5
28,3
30,1
32,5
33,5
35%
16,0
19,0
23,0
9,2
9,9
4,4
4,0
3,8
3,5
3,4
3,2
Nguồn : Vụ XNK Bộ Thương mại
Xét về tỷ lệ tấm, chất lượng gạo Việt Nam đã có sự thay đổi rõ rệt, cấp loại gạo 5% tấm tăng từ 3,3% lên trên 52% trong tổng lượng gạo xuất khẩu. Cấp gạo chất lượng cao tỉ lệ tấm thấp hiện nay chiếm từ 55-60% tổng lượng gạo xuất khẩu. Còn gạo chất lượng thấp có tỉ lệ tấm cao đã giảm từ 92% nay chỉ còn chiếm 5% tổng lượng gạo xuất khẩu.
Về chủng loại, gạo xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn là gạo tẻ thường hạt dài. Trong khi đó gạo đặc sản truyền thống vẫn chưa được chú trọng phát triển. Hiện nay ta mới chỉ đang xuất khẩu một số gạo Tám thơm, Nàng Hương, chợ Đào với một số lượng nhỏ và không đều đặn qua hàng năm. Đẩy mạnh việc xuất khẩu gạo đặc sản sẽ đem lại sự tăng kim ngạch xuất khẩu một cách đáng kể vì nhu cầu gạo đặc sản rất lớn trong tương lai.
1.2.3 Thị trường và giá cả
Thái Lan và Mỹ là những nước xuất khẩu gạo truyền thống từ nhiều thập kỷ nay. Do vậy họ đã thiết lập được mối quan hệ lâu dài và ổn định về thị trường và khách hàng tiêu thụ bằng một hệ thống chính sách cụ thể đối với từng khu vực và từng nước tiêu thụ gạo của mình. Việt Nam chỉ thực sự là nước xuất khẩu gạo lớn từ năm 1989. Từ thực tế đó, việc thâm nhập và mở rộng thị trường của Việt Nam trong những năm đầu đã gặp không ít gian nan vì thường phải đụng đến những khu vực thị trường quen thuộc của các nước xuất khẩu truyền thống, đặc biệt của Thái Lan.
Sau những khó khăn trong việc thâm nhập và mở rộng thị trường qua những năm đầu tiến hành xuất khẩu gạo. Hiện nay gạo Việt Nam đã có thị trường xuất khẩu trên 80 quốc gia ở khắp các châu lục. Nhưng nói chung tỷ trọng xuất khẩu của gạo Việt Nam vào thị trường Châu á còn rất ít, nhất là Trung Đông, phương thức xuất khẩu phần lớn phải qua trung gian môi giới. Do vậy Việt Nam vừa chưa xây dựng được hệ thống bạn hàng tin cậy vừa giảm thu nhập xuất khẩu cho khoản hoa hồng môi giới.
- Về giá cả, do có sự nâng cao về chất lượng nên khoảng cách chênh lệch giữa giá gạo Việt Nam và quốc tế ngày càng thu hẹp lại.
Bảng 5: Giá gạo Việt Nam so với giá gạo quốc tế
Năm
(1)
Giá quốc tế FOB Bangkok 5% tấm
(2)
Giá xuất khẩu của Việt Nam qui theo giá 5% tấm (3)
Chênh lệch giá giữa
(2) và (3)
1990
287
224
63
1991
290
234
56
1992
280
233
47
1993
270
232
38
1994
292
262
30
1995
328
319
19
1996
315
284
31
1997
273
244
29
1998
315
300
15
1999
248
203
45
2000
250
200
50
Nguồn : Bộ Thương mại
Một trong những nguyên nhân chính của sự chênh lệch giá, điển hình là giữa gạo Việt Nam và gạo Thái Lan (quốc gia xuất khẩu gạo số 1 thế giới) là do yếu tố chất lượng. Tuy chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam hiện nay có tỉ lệ tấm tương đương với gạo Thái Lan nhưng điều đó không có nghĩa đã bằng gạo Thái về nhiều tiêu thức tổng hợp. Chất lượng vẫn là yếu tố cạnh tranh số 1, đòi hỏi chúng ta cần phấn đấu hơn nữa.
Năm 1999-2000, giá gạo Việt Nam có xu hướng giảm mạnh cùng sự giảm giá gạo của thị trường thế giới do nhu cầu nhập khẩu gạo ở các nước nhập khẩu lớn tại Châu á như Indonexia, Philippin, Bangladesh giảm. Do vậy Việt Nam cần phải mở rộng thị trường xuất khẩu gạo sang những thị trường mới chưa được chú trọng nhiều trước đây như Châu Phi ... để đẩy mạnh xuất khẩu gạo, hạn chế tối đa lượng gạo tồn kho. Đồng thời tự nâng cao chất lượng gạo Việt Nam để nâng cao sức cạnh tranh với gạo Thái Lan trên thị trường có sức mua cao và khó tính như Nhật Bản, EU v.v
1.2.4. Tổ chức kênh phân phối trong nước và đầu mối xuất khẩu
Hiện này, tư nhân đang đóng vai trò lớn trong lưu thông phân phối gạo xuất khẩu.Khoảng 90% gạo xay xát xuất khẩu do tư nhân thực hiện, các đơn vị xuất khẩu thuộc Nhà nước chỉ đảm nhiệm phần ít ỏi còn lại.Nguyên nhân chính của tình hình này là do vốn hạn chế, thứ đến là do bộ máy quản lý, điều hành thiếu năng động trong các đơn vị kinh doanh lương thực thuộc Nhà nước.Phần lớn lúa gạo mua bán và xay xát do tư thương thực hiện, một mặt thúc đẩy tích cực cho xuất khẩu xong mặt khác cũng dẫn đến tình trạng ép giá bán của nông dân, khó thực hiện được chủ trương của Nhà nước trong việc duy trì mức giá đảm bảo cho nông dân mức lợi nhuận 25-40% để khuyến khích người xản xuất.Bên cạnh đó, do rất nhiều cơ sở xay xát nhỏ và phân tán của tư nhân đảm nhiệm đã làm cho tiêu chuẩn chất lượng thống nhất và đồng đều của gạo xuất khẩu cũng bị hạn chế không nhỏ.Tong khi đó, các cơ sở xay xát lớn của quốc doanh chưa được khai thác triệt để, nhất là những nhà máy có công xuất lớn và công nghệ hiện đại như nhà máy xay xát Satake Sài gòn công xuất 600 tấn/ngày, nhà máy xay Cửu long công xuất 240 tấn /ngày với trang thiết bị đồng bộ các công đoạn xát, sàng, xoa, hồ tẩy, đánh bóng, đóng gói để phục vụ xuất khẩu.
Kho chứa là một yếu tố quan trọng trong hệ thống kênh phân phối vận chuyển và bảo quản gạo xuất khẩu.Hiện nay tổng kho chứa lương thực chung cả nước là 2.8 triệu tấn do quốc doanh lương thực quản lý, trong đó trên 50% là kho kiên cố.Hiệu suất sử dụng kho rất thấp, thường chỉ đạt khoảng 30% tổng dung tích kho.Tuy nhiên các doanh nghiệp vẫn phải tính khấu hao vào giá thành nên làm giảm hiệu quả kinh doanh.Trên thực tế, cụm kho phục vụ xuất khẩu lại có những nhược điểm đáng kể.Các tư nhân tuy đảm nhiệm tới 90% gạo xay xát xuất khẩu nhưng hoặc sử dụng kho nhỏ gia đình hoặc thuê của quốc doanh.Do vị trí kho được tính toán, bố trí từ thời bao cấp theo phương án tự sản tự tiêu nên nhiều kho không thích hợp với cơ chế thị trường đẩy mạnh xuất khẩu hiện nay.Có những kho giờ hóa thường thừa hoặc không sử dụng hết nhưng ở những địa bàn trọng điểm, nhất là cảng khẩu thì lại thiếu kho, trước hết là những kho hiện đại đạt tiêu chuẩn kỹ thuật để bảo quản gạo xuất khẩu.
Đầu mối xuất khẩu gạo trong nhiều năm qua là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của Nhà nước cũng như của nhiều chuyên gia và của nhiều doanh nghiệp.Hàng loạt doanh nghiệp Nhà nước tìm mọi cách để được phép tham gia xuất khẩu gạo.Do những hoạt động tranh mua tranh bán của các doanh nghiệp này, thương nhân nước ngoài đã lợi dụng tình hình đó kìm giá, ép giá gây tổn hại cho lợi ích quốc gia trong xuất khẩu gạo.Để khắc phục tình trạng cạnh tranh tự phát này, Bộ Thương mại đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu và nắm vững biến động cung cầu, giá cả của thị trường gạo quốc tế để quản lý chỉ đạo giá xuất khẩu trong nước, hướng dẫn các doanh nghiệp đầu mối không xuất khẩu dưới mức giá qui định.Tuy nhiên để xuất khẩu gạo có hiệu quả hơn cần có sự quan tâm chỉ đạo sát sao hơn nữa của Nhà nước và các cấp ban ngành có liên quan .
2. Những vấn đề đặt ra đối với sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam
2.1Về sản xuất
Mặc dù đã đạt được một số kết quả khả quan trong sản xuất nhưng vẫn nổi lên một số vấn đề quan trọng cần giải quyết:
- Một là tình hình tổn thất sau thu hoạch. Hiện nay toàn bộ hệ thống sau thu hoạch lúa ở Việt Nam chưa được tổ chức hợp lý và đồng bộ. Các khâu như gặt, đập, phơi, phân loại, vận chuyển, bảo quản xay xát, chế biến... đã và đang được thực hiện thiếu nề nếp với một trình độ yếu kém và lạc hậu chủ yếu là bằng phương pháp thủ công. Đặc biệt là ở khâu bảo quản, Việt Nam còn thiếu kho bãi, chất lượng bảo quản ở các kho còn thấp. Do vậy dẫn đến tình trạng thất thoát và tổn thất đáng kể về số lượng và chất lượng lúa gạo sau thu hoạch. Thực tế đó cho thấy việc giải quyết công nghệ sau thu hoạch đang là vấn đề bức xúc nhằm nâng cao giá trị kinh tế và giá trị dinh dưỡng cho sản phẩm.
- Hai là vấn đề phát triển lúa đặc sản. Hiện nay việc thực hiện mục tiêu chiến lược đối với lúa gạo đại trà đang theo chiều hướng khả quan. Ngược lại đối với mục tiêu lúa gạo đặc sản, chúng ta đang đứng trước những thử thách đáng kể.Mặc dù nhu cầu gạo đặc sản của thế giới có hướng mở rộng và giá gạo đặc sản quý có thể gấp 2 đến 3 lần giá gạo đại trà. Trong sản xuất, năng suất lúa gạo đặc sản thấp, thường chỉ bằng 55-60% năng suất lúa đại trà .Điều quan trọng hàng đầu là chất lượng gạo đặc sản như: chợ Đào, nàng Hương, đặc biệt là tám thơm về hương thơm bị giảm sút nhiều so với chất lượng truyền thống trước đây, điều dễ làm cho người tiêu dùng nước ngoài thất vọng. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do việc tuyển chọn giống không được đảm bảo, bản thân thóc giống bị lẫn do pha trộn. Trên thực tế, gạo đặc sản truyền thống của ta từ xưa đã nổi tiếng về chất lượng như hương thơm, độ dẻo mà gạo đặc sản Mali, Basmati của Thái Lan, ấn Độ, Pakistan không thể đạt được. Vậy mà đến nay, vì suốt một thời gian dài không được chú trọng, gạo đặc sản truyền thống Việt Nam không đảm bảo được tiêu chuẩn chất lượng quí giá ấy. Do đó, điều quan tâm trước hết hiện nay trong việc phát triển sản xuất gạo đặc sản chính là việc tuyển chọn giống và đổi mới công nghệ chế biến. Như vậy gạo đặc sản truyền thống Việt Nam mới có thể mạnh hơn hẳn để cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường thế giới.
2.2 Về thị trường
- Trước hết, ở thị trường trong nước. Do mạng lưới tư thương đóng vai trò không nhỏ trong hoạt động thu mua, thúc đẩy việc lưu thông lúa gạo phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu nên đã nảy sinh những biêủ hiện tiêu cực không nhỏ. Vì lợi nhuận, hoạt động của các tư thương thường diễn ra tình trạng cạnh tranh mua và cạnh tranh bán, đầu cơ thao túng thị trường giá cả. Trong khi đó nông dân cần đầu ra tin cậy để đảm bảo tiêu thụ ổn định sản phẩm với mức giá thoả đáng cho quyền lợi của mình. Như vậy việc đảm bảo trật tự trong toàn bộ hệ thống lưu thông lúa gạo vẫn đang là một đòi hỏi khách quan của thị trường nội địa.
- Thứ hai, ở khâu xuất khẩu, chúng ta vẫn chưa thiết lập được hệ thống thị trường thực sự ổn định với mạng lưới khách hàng thực sự tin cậy. Cho đến nay, phương thức xuất khẩu qua trung gian vẫn còn chiếm tỷ trọng khá lớn, mặc dù chúng ta có nhiều cố gắng để tăng cường xuất khẩu trực tiếp. Đặc biệt việc xuất khẩu thông qua trung gian vào các nước Châu Phi vẫn còn diễn ra khá phổ biến. Tình hình ấy đòi hỏi chúng ta cần phải có những hiệp định lớn buôn bán gạo dài hạn cấp Nhà nước để mở ra các hợp đồng xuất khẩu gạo ổn định.
- Thứ ba, việc nghiên cứu thị trường gạo thế giới cần phải được tăng cường hơn nữa để nắm bắt kịp thời những thông tin cập nhật, chính xác nhằm đảm bảo hiệu quả hơn nữa cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Nhiều năm qua, các nguồn tài liệu về thị trường gạo thế giới phục vụ hoạt động kinh doanh, quản lý và nghiên cứu nhìn chung còn ít ỏi. Trong khi đó hoạt động xuất khẩu đòi hỏi phải có những thông tin sâu rộng về thị trường để theo dõi kịp thời và hệ thống các diễn biến cung cầu về giá cả. Do nghiên cứu thị trường bị hạn chế, chưa có được những thông tin cần và đủ cho nên chưa chớp được nhanh và chưa ứng xử kịp những diễn biến của thị trường. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam ra thị trường thế giới.
2.3 Về tổ chức
Một trong những nội dung nổi bật hiện nay vẫn là hệ thống lưu thông phân phối lúa gạo đảm bảo tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Trong những năm gần đây Nhà nước đã cố gắng tổ chức và sắp đặt lại hệ thống lưu thông phân phối, qui tụ các đầu mối xuất khẩu. Nhà nước chủ trương tự do hoá lưu thông phân phối, mở rộng quyền tự chủ cho tư nhân mua bán lương thực ở thị trường nội địa trong đó có mạng lưới tư nhân mua bán lúa gạo phục vụ xuất khẩu. Tuy nhiên hoạt động xuất khẩu gạo vẫn được tập trung vào các doanh nghiệp Nhà nước có đủ sức cạnh tranh uy tín trên thị trường gạo thế giới. Bước chấn chỉnh về mặt tổ chức đó tuy có thông thoáng hơn nhưng không phải đã đảm bảo được mọi trật tự cần thiết cho hệ thống phân phối lúa gạo. Các cơ sở kho tàng xay xát chế biến gạo vừa thừa lại vừa thiếu và chưa có hiệu quả cao.
Các tư thương và doanh nghiệp Nhà nước chưa có sự phối hợp hài hoà trong dòng chảy lúa gạo từ người sản xuất đến người tiêu dùng trong nước và các nhà xuất khẩu. Giữa tư nhân với nhau thường xảy ra tranh bán tranh mua và mạnh ai nấy làm vì chưa có quy định cụ thể về phạm vi hoạt động theo cấp làng xã, huyện, tỉnh. Điều này góp phần gây mất trật tư trong hệ thống lưu thông phân phối gạo ở nước ta.
2.4. Về chính sách
Trong số những vấn đề đặt ra hiện nay đối với sản xuất và xuất khẩu gạo, về chính sách, nổi bật lên những điểm sau.
- Chính sách đầu tư cho khoa học cần được chú trọng một cách toàn diện hơn. Hiện nay việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo đòi hỏi Nhà nước cần có chính sách tăng cường đầu tư cho một loạt khoa học công nghệ. Vậy mà thời gian qua, ngân sách đầu tư cho khoa học vẫn chưa được quan tâm đúng mức (chưa quá 1% tổng chi ngân sách). Với chỉ tiêu này công nghệ sản xuất và chế biến lúa gạo của nước ta lạc hậu so với các nước láng giềng và thế giới là điều tất yếu.
- Về chính sách giá cả nội địa. Nhà nước chủ trương không áp đặt giá mà hoàn toàn do quan hệ cung cầu của thị trường lương thực điều tiết giá. Tuy nhiên, Nhà nước giữ giá sao cho nông dân được đảm bảo mức lợi nhuận 25-40%. Nếu không đạt được mức đó, Nhà nước điều tiết giá bằng cách cho các đơn vị quốc doanh vay tiền để nhanh chóng thu mua thóc dư thừa của nông dân để điều chỉnh lại quan hệ cung cầu và giá cả ,có lợi cho người nông dân. Nhưng tựu chung vì nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau làm cho toàn bộ hệ thống điều tiết quan hệ cung cầu và giá lúa gạo vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu bình thường , do đơn vị quốc doanh không đủ thực lực để điều tiết quan hệ cung cầu về giá cả như Nhà nước vẫn giao phó vì khả năng tài chính của Nhà nước bị hạn chế. Rốt cuộc người nông dân vẫn không dễ dàng đảm bảo được mức lợi nhuận 25-40% như chủ trương của Nhà nước. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đối với yêu cầu phát triển và sản xuất lúa gạo.
Chương III
Những giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh sản xuất
và xuất khẩu gạo của Việt Nam
1. Những quan điểm định hướng cho sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam
1.1 Quan điểm thứ 1
Cần coi việc sản xuất và xuất khẩu gạo là phát triển sản xuất và xuất khẩu mặt hàng vừa có tính truyền thống của đất nước, vừa có nhiều triển vọng về thị trường tiêu thụ nước ngoài.
Như chương 1 đã nêu, sản phẩm lúa gạo là sản phẩm nông nghiệp truyền thống của dân tộc ta. Kỹ năng sản xuất lúa gạo của hàng triệu nông dân Việt Nam đã được tích luỹ hàng ngàn năm nay lại được bổ sung bởi những thành tựu mới của khoa học - kỹ thuật. Triển vọng về sản xuất lúa gạo trong những năm tới còn rất to lớn. Phát triển sản xuất và xuất khẩu lúa gạo là phát triển một sản phẩm có nhiều lợi thế tương đối so với nhiều nước khác trên thế giới.
Nếu so với các nước đã phát triển phần lớn các sản phẩm xuất khẩu của ta đều không có lợi thế tuyệt đối. Trong sự tương quan đó sản phẩm lúa gạo là một trong những sản phẩm ít bất lợi hơn trong hầu hết các sản phẩm bất lợi của Việt Nam. Hơn nữa phát triển sản xuất và xuất khẩu lúa gạo là ngành sản xuất mà chỉ số vốn/lao động tương đối thấp, sử dụng được nhiều lao động sống mà ta đang dư thừa, sử dụng ít vốn tiền tệ và vốn chất xám là những yếu tố đầu vào tương đối khan hiếm ở nước ta.
Do lao động sống của nước ta dư thừa nên giá lao động ở nước ta tương đối rẻ so với các nước trong khu vực và càng rẻ so với các nước phát triển Tây Âu và Bắc Mỹ. Phát triển sản xuất và xuất khẩu gạo chính là để khai thác lợi thế đó của ta.
1.2 Quan điểm thứ 2
Sản xuất và xuất khẩu gạo phải đảm bảo an ninh lương thực quốc gia
Khác với nông sản khác, việc xuất khẩu gạo không chỉ đạt ra mục tiêu số lượng càng nhiều càng tốt. Bởi lẽ gạo là nông sản tối cần thiết trong cuộc sống của người Việt Nam, đó là mặt hàng rất nhạy cảm với tình hình chính trị-xã hội của đất nước. Do đó sản xuất và xuất khẩu gạo phải đạt tới mục tiêu vừa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, vừa không ngừng tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
Quan điểm này yêu cầu trong sản xuất không ngừng tăng năng suất lúa để tăng khả năng cung, đồng thời trong khâu xuất khẩu phải đảm bảo ổn định cung-cầu gạo trên thị trường nội địa. Điều đó có nghĩa là chỉ khi nào cung vượt cầu ở thị trường trong nước mới tiến hành xuất khẩu gaọ.
1.3 Quan điểm thứ 3.
Phải gắn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp với hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước trong sản xuất và xuất khẩu gạo.
Quan điểm này yêu cầu các doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất và xuất khẩu gạo, bao gồm cả các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp và các doanh nghiệp kinh doanh chế biến, thương mại, phải có lợi nhuận thỏa đáng chỉ có thể duy trì sản xuất và xuất khẩu gạo ổn định và tăng trưởng khi các doanh nghiệp thu được lợi nhuận, có động lực tham gia vào quá trình nói trên. Do đó ngoài các yếu tố của thị trường quốc tế, việc hình thành và thực thi một hệ thống chính sách kinh tế và cơ chế quản lý thích hợp sẽ có ý nghĩa quan trọng đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp tham gia vào sản xuất và xuất khẩu gạo. Hệ thống chính sách và cơ chế quản lý ngoài việc đảm bảo tổng lợi ích còn có ý nghĩa lớn trong qúa trình phân phối tổng nguồn lợi ích thu được của sản xuất và xuất khẩu gạo một cách hợp lý.
1.4 Quan điểm thứ 4.
Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo phải đảm bảo thoả đáng lợi ích cho người nông dân.
Khác với hầu hết sản phẩm khác, lúa gạo là mặt hàng chiến lược quốc gia, là nhu cầu thiết yếu số 1 của mọi người dân trong toàn quốc, là cơ sở đảm bảo cho phát triển kinh tế quốc dân. Người trực tiếp một nắng hai sương trên đồng ruộng làm ra sản phẩm lúa gạo là hàng chục triệu nông dân cả nước.
Như vậy quan điểm đảm bảo thoả đáng lợi ích của người nông dân có ý nghĩa rất lớn trong việc chăm lo chiến lược con người nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của cả dân tộc. Quan điểm này không chỉ là việc chăm lo trực tiếp cho 72% lực lượng lao động nước ta mà còn là việc thiết thực để chăm lo lợi ích của tất cả mọi người tiêu dùng lúa gạo trong toàn quốc vì dân số Việt Nam có tập quán lâu đời coi gạo là lương thực của chính mình.
2. Một số định hướng cho sản xuất và xuất khẩu gạo của nước ta trong thời gian tới
2.1 Trong sản xuất
Cần chú ý phát triển theo một số định hướng sau:
- Thứ nhất: Tăng cường thâm canh tăng năng suất lúa gạo, kết hợp với khai hoang tăng vụ ở những nơi có điều kiện. Trong đó thâm canh tăng năng suất lúa là định hướng chủ yếu lâu dài, khai hoang và tăng vụ là hướng không nên bỏ trong vòng 5-10 năm tới.
- Thứ hai: Đa dạng hoá trong sản xuất lúa gạo theo nhu cầu thị trường có nghĩa là đa dạng hoá chủng loại gạo tốt, đa dạng hoá phẩm cấp các giống lúa gạo, đa dạng hoá nguồn sản xuất lúa gạo cho xuất khẩu với chất lượng tốt, năng xuất cao.
- Thứ ba: Tích cực ứng dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật vào sản xuất để vừa tăng năng suất và sản lượng lúa gạo cho tiêu dùng và cho xuất khẩu, vừa không ngừng nâng cao chất lượng gạo cho xuất khẩu, vừa bảo vệ môi trường sinh thái.
2.2 Trong xuất khẩu gạo
Cần chú ý phát triển theo các định hướng đã được quan tâm sau đây:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV230.doc