Đề tài Phát triển thị trường mua bán sự phát thải nhà kính trên thế giới và liên hệ với Việt Nam

• Cho phép các nước mua – bán sự phát thải nhà kính với nhau, vừa phù hợp với quy mô sản xuất của nền kinh tế của các quốc gia mà vẫn đáp ứng đúng các cam kết trong UNFCCC và KP về tổng hạn mức khí thải thải vào môi trường. Thường các nước đang phát triển không sử dụng hết chỉ tiêu phát thải được phân bổ do nền công nghiệp còn chưa phát triển ở mức cao; ngược lại, các nước phát triển lại luôn thiếu chỉ tiêu phát thải. Do vây, việc mua – bán này sẽ giúp các quốc gia phát triển có thể tăng lượng khí thải vào môi trường mà không vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường.

• Thông qua việc mua – bán sự phát thải nhà kính, các nước đang phát triển (bán sự phát thải) có cơ hội cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường bằng cách đầu tư vào các dự án phục hồi và cải tạo môi trường.

 

doc26 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển thị trường mua bán sự phát thải nhà kính trên thế giới và liên hệ với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội địa. 1.1.3.9. Phá giá tiền tệ Phá giá tiền tệ là một hình thức biến tướng của phá giá. Đặc điểm của biện pháp này là thông qua các thủ thuật tác động vào tỷ giá hối đoái làm cho đồng tiền nội tệ mất giá so với một, một nhóm hay tất cả các đồng ngoại tệ khác đề hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn khi tính bằng ngoại tệ và do vậy có lợi thế cạnh tranh mạnh hơn trên thị trường nước ngoài. Phá giá tiền tệ thường được Nhà nước sử dụng khi cần cân đối lại tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ với cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế. 1.1.3.10. Một số biện pháp khác Ngoài các biện pháp phổ biến trên, để khuyến khích xuất khẩu, chính sách thương mại quốc tế còn sử dụng một số biện pháp sau: Hệ thống thuế nội địa: như thuế thu nhập, thuế lợi tức, thuế VAT .v.v. Cơ quan quản lý ngoại tệ và tỷ giá hối đoái Độc quyền mua bán Quy định về chứng thư khi là thủ tục xuất nhập khẩu Thưởng xuất khẩu Đặt cọc nhập khẩu 1.2. Vấn đề bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế 1.2.1. Khái niệm về môi trường Môi trường, hiểu một cách chung nhất, là tổng hợp các yếu tố, điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của một sự vật hoặc một hiện tượng. Những yếu tố, điều kiện bên ngoài đó bao gồm các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội, không gian và thời gian v.v Để cụ thể hóa khái niệm về môi trường nêu trên, nhiều tác giả và nhiều tổ chức đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau R.G.Sharme (1988) đưa ra định nghĩa: “ Môi trường là tất cả những gì bao quanh con người” Trong tuyên ngôn cua UNESCO năm 1981, môi trường được hiều là “toàn bộ các hệ thống tự nhieenvaf các hệ thống do con người tạo ra xung quanh mình, trong đó con người sinh sống và bằng lao động của mình đã khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thỏa mãn các nhu cầu của con ngườ ”. Trong Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam (được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa IX, kì họp thứ 4 thông qua ngày 27/12/1993 và có hiệu lực từ ngày 10/1/1994), môi trường được định nghĩa: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo, quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người và ảnh hưởng tới đời sống sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên” (Điều 1). 1.2.2. Tầm quan trọng và những tác động của môi trường đối với đời sống phát triển kinh tế 1.2.2.1. Vai trò của môi trường đối với đời sống kinh tế Đối với đời sống con người nói chung và đời sống kinh tế nói riêng, môi trường có các vai trò chủ yếu sau: Chức năng thứ nhất: Cung cấp tài nguyên thiên nhiên cho hệ thống kinh tế Bắt đầu từ khi con người biết canh tác cho đến nay, xét về bản chất thì mọi hoạt động của con người để duy trì cuộc sống đều nhằm vào việc khai thác các hệ thống sinh thái của tự nhiên thông qua lao động cơ bắp, vật tư, công cụ và trí tuệ. Với sự hỗ trợ của các hệ thống sinh thái, con người đã lấy từ thiên nhiên những nguồn tài nguyên thiên nhiên cần thiết phục vụ cho việc sản xuất ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu của mình. Rõ ràng, thiên nhiên là đầu vào, cung cấp nguồn vật liệu, năng lượng, thông tin, cần thiết cho hoạt động sinh sống, sản xuất và quản lý của con người. Chức năng thứ hai: Chứa đựng và hấp thụ chất thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất Trong quá trình sản xuất và tiêu dùng của cải vật chất, con người luôn đào thải ra các chất thải vào môi trường. Tại đây, các chất thải dưới tác động của các vi sinh vật và các yếu tố môi trường khác sẽ bị phân hủy, biến đổi từ dạng phức tạp thành đơn giản và tham gia vào hàng loạt các quá trình sinh địa phức tạp. Khả năng tiếp nhận và phân hủy chất thải trong một khu vực nhất định được gọi là khả năng đệm của khu vực đó. Chức năng này được chia thành các loại sau: Chức năng biến đổi lý hóa học: pha loãng, phân hủy hóa học nhờ ánh sáng; hấp thụ; sự tách chiết các vật thải và độc tố. Chức năng biến đổi sinh hóa: sự hấp thụ các chất dư thừa; chu trình nitơ và cacbon; khử các chất độc bằng con đường sinh hóa. Chức năng biến đổi sinh học: khoáng hóa các chất thải hữu cơ, mùn hóa, amôn hóa, nitrat hóa, Chức năng thứ ba: Là không gian sống và cung cấp các dịch vụ cảnh quan phục vụ cuộc sống Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi người đều cần có một không gian nhất định để phục vụ cho các hoạt động sống như: nhà ở, nơi nghỉ, đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, kho tang, bến cảngMôi trường chính là nơi cung cấp cho con người những không gian đó. Ta có thể phân loại chức năng này thành các dạng cụ thể sau: Chức năng xây dựng: cung cấp mặt bằng và nền móng cho các khu đô thị , khu công nghiệp, kiến trúc hạ tầng và nông thôn. Chức năng vận tải: cung cấp mặt bằng, khoảng không gian, và nền móng cho giao thông đường thủy, đường bộ và đường không Chức năng sản xuất: cung cấp mặt bằng và phông tự nhiên cho sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp Chức năng cung cấp năng lượng và thông tin Chức năng giải trí của con người: cung cấp mặt bằng, nền móng cho việc giải trí ngoài trời của con người 1.2.2.2. Tác động của môi trường đối với đời sống và phát triển kinh tế Tác động của môi trường đối với cuộc sống con người là vô cùng rõ rệt, được thể hiện ở hai mặt: tích cực và tiêu cực Tác động tích cực của môi trường đối với đời sống và hoạt động kinh tế được thấy rõ ở các chức năng cơ bản của nó. Nếu không có môi trường thì không một hoạt động, sự sống nào có thể diễn ra. Môi trường chính là điều kiện không thể thiếu giúp cho con người và các sinh vật khác có thể tồn tại và hoạt động. Tác động của nó thông qua việc cung cấp không gian sống, dịch vụ cảnh quan; chứa đựng và hấp thụ các chất thải do con người tạo ra, cung cấp tài nguyên thiên nhiên cho hoạt động kinh tế. Tác động tiêu cực của môi trường thể hiện ở giới hạn của nó: tài nguyên thiên nhiên là có hạn và có tính khan hiếm, khả năng hấp thụ và phân hủy chất thải của môi trường ở những khu vực nhất định là có hạn. Chính vì vậy nếu con người khai thác tài nguyên một cách quá mức, không có quy hoạch thì nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ sản xuất và đời sống sẽ cạn kiệt dần, ảnh hưởng đến lợi ích của các thế hệ sau. Việc thải vào môi trường lượng lớn các chất thải, chất thải độc hại vượt quá khả năng tiếp nhận của môi trường, chất lượng môi trường sẽ giảm và dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng, đe dọa trực tiếp đến đời sống, sức khỏe của con người. 1.2.3. Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế Phát triển kinh tế là mối quan tâm của tất cả các quốc gia trên thế giới. Nhưng việc tập trung phát triển kinh tế lại vô tình làm giảm chất lượng môi trường. Trong khi đó, phát triển kinh tế bền vững bao gồm các tiêu chuẩn về tăng trưởng GDP, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Vì thế, phát triển kinh tế và môi trường luôn đặt trong mối quan hệ tương tác qua lại lẫn nhau. Chất lượng môi trường tốt sẽ cung cấp các yếu tố, điều kiện cần thiết tốt nhất cho hoạt động kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, gia tăng thu nhập, tạo môi trường sống lành mạnh, nâng cao chất lượng cuốc sống của người dân. Đến lượt mình, trình độ phát triển kinh tế, nhận thức của con người được cải thiện, họ sẽ quan tâm hơn đến việc bảo vệ môi trường. Nền kinh tế sẽ có khả năng đầu tư nhiều tiền của, công nghệ hiện đại cho việc cải tạo, nâng cao chất lượng môi trường sống và sản xuất. Ngược lại, hành động thờ ơ đối với việc bảo vệ môi trường sẽ mang lại những hậu quả khôn lường. Vấn đề đặt ra là lựa chọn mục tiêu phát triển kinh tế hay mục tiêu bảo vệ môi trường. Do mối quan hệ tương tác qua lại lẫn nhau giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, chúng ta không thể tách biệt chúng với nhau. Nếu tách rời lợi ích kinh tế và môi trường, thì cuộc tranh luận sẽ luôn rơi vào bế tắc. Vấn đề là ở chỗ, con người cần tập trung bao nhiêu nguồn lực cho việc bảo đảm và gìn giữ môi trường sinh thái. Phát triển bền vững thường đòi hỏi phải có những công nghệ mới có thể làm tăng đáng kể chi phí sản xuất của các doanh nghiệp. Song, các nhà quản lý cũng khó có thể đặt các tiêu chí môi trường lên hàng đầu và đạt được chúng bằng mọi giá. Cần phải xác định được ảnh hưởng của các hoạt động kinh tế tới môi trường để từ đó có những quyết định chính xác về các biện pháp bảo vệ môi trường đồng thời đảm bảo mục tiêu của các doanh nghiệp. 1.2.4. Các công cụ kinh tế thường được sử dụng để quản lý và bảo vệ môi trường 1.2.4.1. Thuế ô nhiễm Đây là khoản thuế do Nhà nước định ra nhằm đánh vào sản phẩm đầu ra gây ô nhiễm. Loại thuế này được gọi là thuế Pigou, nó sẽ giúp điều chỉnh hành vi của các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường, sản xuất về mức sản lượng tối ưu mà xã hội mong muốn. Tuy nhiên, trong thực tế cũng khó xác định chính xác thuế suất Pigou do thiệt hại về môi trường rất khó đo đếm được. Mặt khác, các loại thuế môi trường cũng kém hiệu quả hơn các quy định trong một số trường hợp mức ô nhiễm quá tập trung. Một vấn đề lớn hơn mà các công ty phải đối mặt là doanh thu thuế môi trường tăng lên đồng nghĩa với tăng chi phí sản xuất của người gây ô nhiễm. Đó là cách mà các loại thuế môi trường hướng tới tức là khuyến khích các công ty “sạch nhất” tiếp tục cố gắng để trở nên “sạch hơn”. Tuy nhiên, thuế môi trường thường thấp, do vậy chúng ảnh hưởng đến người nghèo nhiều hơn người giàu. 1.2.4.2. Phí và lệ phí môi trường Lệ phí là khoản thu bắt buộc đối với các cá nhân, tổ chức được hưởng một lợi ích hoặc được sử dụng một dịch vụ nào đó do Nhà nước cung cấp. Phí là khoản thu của Nhà nước nhằm bù đắp một phần chi phí thường xuyên và không thường xuyên về xây dựng, bảo dưỡng, tổ chức, quản lý hành chính Nhà nước đối với hoạt động của người nột thuế. Các loại phí và lệ phí môi trường bao gồm: Lệ phí vệ sinh môi trường ở đô thị và nông thôn liên quan đến việc thu gom rác sinh hoạt, quét dọn đường phố Lệ phí đổ rác, xử lý rác thải độc hại. Lệ phí giám sát, thanh tra môi trường, cấp giấy phép môi trường v.v Các loại phí môi trường như phí xử lý nước thải, khí thải chon lấp và phục hồi môi trường trên các bãi thải. Trong các loại phí và lệ phí trên, phí môi trường là công cụ hữu hiệu trong việc kiểm soát ô nhiễm công nghiệp. Việc thu phí môi trường của các cơ sở sản xuất kinh doanh sẽ có tác động mạnh tới việc xả thải của các doanh nghiệp đồng thời tạo ra nguồn kinh phí bổ sung cho các hoạt động bảo vệ môi trường. 1.2.4.3. Cô-ta gây ô nhiễm (giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng) Cô-ta gây ô nhiễm là một loại giấy phép xả thải chất thải có thể chuyển nhượng mà thông qua đó, Nhà nước công nhận quyền các nhà máy, xí nghiệp v.v được phép thải các chất gây ô nhiễm vào môi trường. Nhà nước xác định tổng lượng chất gây ô nhiễm tối đa có thể cho phép thải vào môi trường, sau đó phân bổ cho các nguồn thải bằng cách phát hành những giấy phép thải gọi là cô-ta gây ô nhiễm và chính thức công nhận quyền được thải một lượng chất gây ô nhiễm nhất định vào môi trường trong một giai đoạn xác định cho các nguồn thải. Khi có được mức phân bổ cô-ta gây ô nhiễm ban đầu, người gây ô nhiễm có quyền mua và bán cô-ta gây ô nhiễm. Họ có thể linh hoạt chọn lựa giải pháp giảm thiểu mức phát thải chất gây ô nhiễm với mức chi phí thấp nhất: Mua cô-ta gây ô nhiễm để được phép thải chất gây ô nhiễm vào môi trường hoặc đầu tư xử lý ô nhiễm để đạt tiêu chuẩn cho phép. Đây là công cụ Nhà nước có thể dễ dàng điều khiển. Khi số lượng nguồn gây ô nhiễm tăng, Nhà nước có thể phát hành thêm cô-ta (trong trường hợp mức ô nhiễm hiện tại chưa đạt đến khả năng nền của môi trường) hoặc tăng giá cô-ta gây ô nhiễm để đảm bảo chất lượng môi trường hiện tại. Trong trường hợp nhu cầu đối với cô-ta gây ô nhiễm tăng lên, nếu Nhà nước phát hành thêm cô-ta gây ô nhiễm làm tổng lượng phát thải cao hơn mức chịu tải nền của môi trường thì đó là hiện tượng lạm phát cô-ta gây ô nhiễm.Tuy nhiên, Nhà nước có thể dễ dàng xiết chặt tiêu chuẩn cũ bằng cách tham gia vào thị trường cô-ta gây ô nhiễm để mua lại một số cô-ta gây ô nhiễm đã phát hành. So với các công cụ pháp lý, cô-ta gây ô nhiễm có ưu thế hơn khi được sử dụng trong công tác quản lý môi trường. Qua áp dụng cô-ta gây ô nhiễm, Nhà nước có thể kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Khu vực chuyển nhượng là những vùng địa lý mà ở đó có sự trao đổi mua bán cô-ta gây ô nhiễm giữa các nguồn thải được phép diễn ra. Ví dụ: đối với hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu, khu vực chuyển nhượng ít nhất là một quốc gia, nhưng tốt hơn hết là toàn cầu. Mặc dù việc áp dụng điều này trên phạm vi quốc tế là rất khó khăn nhưng đây là cách lý tưởng để chia sẻ nghĩa vụ môi trường giữa một số quốc gia. 1.2.4.4. Quỹ môi trường Quỹ môi trường là một thể chế hoặc một cơ chế tài chính được thiết kế để nhậ tài trợ vốn từ các nguồn khác nhau, và từ đó phân phối các nguồn này để hỗ trợ quá trình thực hiện các dự án hoặc các hoạt động cải thiện chất lượng môi trường. Tiền chi quỹ có thể dưới dạng cho vay (không lãi hoặc lãi suất thấp, ưu đãi), hỗ trợ không hoàn lại. Nguồn thu cho quỹ môi trường có thể từ nhiều nguồn khác nhau. Ở Việt Nam với quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 82/2002/QĐ-TTG ngày 26/6/2002 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam là cơ hội tốt cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nỗ lực giảm thiểu ô nhiễm, có nguồn tài chính cho các doanh nghiệp có cơ hội vay để khắc phục những vấn đề môi trường với lãi suất ưu đãi. 1.2.4.5. Giải pháp thỏa thuận thông qua thị trường để giải quyết ngoại ứng Sự xuất hiện ngoại ứng được nhà kinh tế học người Mỹ Ronal Coase cho là có nguyên nhân từ việc thiếu một quy định rõ ràng về quyền sở hữu đối với các nguồn lực được các bên sử dụng chung. Từ đó, ông đưa ra một giả định rằng nều quyền tài sản được phân định rõ ràng, thông qua thị trường có thể khắc phục được hiện tượng ngoại ứng. Ông đã đưa ra một định lý nổi tiếng được gọi là định lý Coase. Theo định lý này, nếu chi phí đàm phán là không đáng kể thì có thể đưa ra một giải pháp hiệu quả đối với ngoại ứng bằng cách trao quyền sở hữu đối với các nguồn lực được sử dụng chung cho một bên nào đó. 1.2.4.6. Bảo hiểm môi trường Bảo hiểm môi trường tuân thủ các nguyên lý chung nhưng cũng có một số nét đặc trưng khác biệt với các loại bảo hiểm khác. Nếu quan niệm môi trường theo nghĩa rộng thì hầu như tất cả các loại bảo hiểm đều mang dáng dấp hoặc bao hàm trong đó bảo hiểm môi trường. Trước hết, rủi ro môi trường thường xảy ra ở diện rộng, tác động đến nhiều đối tượng cùng một lúc nên việc đóng bảo hiểm nhiều khi không thực hiện được. Thế nhưng, một số rủi ro do hoạt động cá nhân, công ty gây ra cho môi trường lại có thể áp dụng bảo hiểm để giải quyết. Cụ thể như: sự cố tràn dầu, rủi ro tiềm tang của một nhà máy có thể mua bảo hiểm cho loại rủi ro đó. 1.2.4.7. Dán nhãn sinh thái cho sản phẩm Ở các nước tiên tiến trên thế giới, nhãn sinh thái đã được áp dụng từ nhiều năm nay. Nhãn này như một chứng nhận về tính thân thiện với môi trường của sản phẩm. Từ năm 1978 lá nhãn “thiên thần xanh” đã được sử dụng ở Đức. Cộng đồng Châu Âu cũng đã ban hành “điều lệ cấp lá nhãn môi trường trong toàn cộng đồng” vào tháng 3/1992. Lá nhãn này được cấp cho các sản phẩm mà quá trình sản xuất, phân phối, sử dụng và thải bỏa chúng ít gây tác động xấu đến môi trường. Trên thực tế cho thấy, tuy giá thành cũng như giá bán sản phẩm này có thể cao hơn một số hàng hóa tương tự nhưng người tiêu dùng nhận thức được ý nghĩa Bảo vệ môi trường của chúng nên vẫn sẵn sàng mua. 1.2.4.8. Các hệ thống ký thác - hoàn trả Các hệ thống này bao gồm việc ký quỹ một số tiền cho các sản phẩm có tiềm năng gây ô nhiễm. Nếu các sản phẩm được đưa trả về một số điểm thu hồi quy định hợp pháp sau khi sử dụng, tức là tránh khỏi bị ô nhiễm, thì tiền ký thác sẽ được hoàn trả lại. 1.3. Tổng quan về thị trường mua – bán sự phát thải nhà kính Sự hình thành thị trường mua bán sự phát thải nhà kính xuất phát từ yêu cấp thiết của việc giải quyết các vấn đề môi trường, mà cụ thể là hạn chế và khắc phục hậu quả của hiện tượng hiệu ứng nhà kính đang ngày càng gia tăng cùng với sự tăng trưởng kinh tế trên thế giới. 1.3.1. Hiệu ứng nhà kính 1.3.1.1. Khái niệm về Hiệu ứng nhà kính Bình thường, Trái đất phải tỏa ra một năng lượng vào vũ trụ ngang với số năng lượng mà nó hấp thụ được từ Mặt trời. Năng lượng mặt trời đến Trái đất dưới dạng bức xạ song ngắn. Một phần bức xạ được bề mặt Trái đất và khí quyển phản xạ trở lại vũ trụ. Tuy nhiên, phần lớn bức xạ đó xuyên qua khí quyển sưởi ấm bền mặt Trái đất và gửi năng lượng này trở lại xụ trụ dưới dạng sóng dài bức xạ tia hồng ngoại. Một phần bức xạ hồng ngoại do Trái đất phát ra được hấp thụ bởi hơi nước, cacbon diôxyt và các khí khác được gọi là các khí nhà kính làm sưởi ấm cho Trái đất. Tuy nhiên, do nồng độ các khí nhà kính hiện đang tăng lên nhanh chóng, do đó nó làm giảm khả năng tỏa nhiệt của Trái đất (khoảng 2%) có nghĩa là toàn Trái đất giữ lại lượng tương đương 3 triệu tấn dầu đốt trong mỗi phút. 1.3.1.2. Tác động của hiệu ứng nhà kính Sự trao đổi không cân bằng về năng lượng giữa Trái đất với không gian xung quanh dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ của khí quyển Trái đất. Sự gia tăng tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch của con người, đang làm nồng độ khí CO2 của khí quyển đang tăng lên. Sự gia tăng khí CO2 và các khí nhà kính khác trong khí quyển Trái đất dẫn tới việc gia tăng nhiệt độ Trái đất. Theo tính toán của các nhà khoa học thì đến năm 2050 nhiệt độ Trái đất sẽ tăng lên 1,5-4,50C nếu không có biện pháp khắc phục hiệu ứng nhà kính. Sự gia tăng nhiệt độ Trái đất do hiệu ứng nhà kính có tác động mạnh mẽ tới nhiều mặt của Môi trường Trái đất: Nhiệt độ Trái đất sẽ là tan băng và dâng cao mực nước biển. Như vậy, nhiều vùng sản xuất lương thực trù phú, các khu đông dân cư, các đồng bằng lớn, nhiều đảo thấp có thể sẽ bị nhấn chìm dưới nước biển. Sự nóng lên của Trái đất sẽ làm thay đổi điều kiện sống bình thường của các sinh vật trên Trái đất. Một số loài sinh vật thích nghi với điều kiện mới sẽ thuận lợi phát triển. Trong khi đó nhiều loài sẽ bị thu hẹp về không gian sống hoặc bị tiêu diệt do không kịp thích nghi với các biến đổi môi trường sống. Khí hậu Trái đất sẽ bị biến đổi sâu sắc, các đới khí hậu có xu hướng di chuyển về phía hai cực của Trái đất. Toàn bộ điều kiện sống của tất cả các quốc gia bị xáo động. Hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy hải sản bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhiều loại bệnh tật mới đối với con người xuất hiện, các loại dịch bệnh lan tràn, sức khỏe của con người bị suy giảm. 1.3.1.3. Biến đổi khí hậu trên Trái đất Khí hậu Trái đất thường xuyên thay đổi trong quá trình lịch sử địa chất, cứ sau một chu kỳ nóng lên lại là một thời kỳ lạnh có tên là chu kỳ băng hà. Hiện nay, chúng ta đang ở trong chu kỳ nóng lên của Trái đất, bắt đầu khoảng 10,000 năm trước đây. Nguyên nhân của các thay đổi lớn của khí hậu Trái đất bao gồm: thay đổi vị trí của Trái đất so với Mặt trời, thay đổi cường độ hoạt động của Mặt trời, sự gia tăng hoạt động của tro bui, và hơi nước Theo tính toán của nhóm lien quốc gia về biến đổi khí hậu thì: Nhiệt độ bề mặt trung bình toàn cầu tăng lên từ 0,3 đến 0,60C từ cuối thế kỷ X; 0,2 đến 0,30C trong vòng 40 năm qua. Hai thời kỳ nóng lên đáng kể nhất là từ 1910 đến 1940 và từ 1970 đến nay. Kết quả phân tích số liệu 600 năm (từ 1400 – 2000) về nhiệt độ trung bình bán cầu Bắc cho thấy các thập kỷ cuối thế kỷ XX nóng lên một cách không bình thường. Lượng mưa trung bình trên các lục địa toàn cầu tăng từ đầu thế kỷ đến những năm 1960. Từ năm 1980 đến nay, lượng mưa có xu thế giảm. Nguyên nhân chủ yếu của sự biến đổi khí hậu toàn cầu là sự gia tăng một cách đáng kể lượng khí nhà kính vào khí quyển từ các hoạt động của con người. Việc tăng lượng các khí nhà kính sẽ làm tăng hiệu ứng nhà kính, làm tăng nhiệt độ của khí quyển Trái đất và kèm theo đó là làm biến đổi một loạt những đặc trưng khí hậu khác. Trong 4 loại khí nhà kính được phát thải vào khí quyển (CO2, CH4, N2O, NOx) thì CO2 đóng vai trò quan trọng nhất và là thành phần chính của khí nhà kính. Khí CO2 và NOx được phát thải do quá trình đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí thiên nhiên). Nhiên liệu hóa thạch được sử dụng chính trong các lò hơi công nghiệp để phát điện, trong sản xuất xi măng, giấy, các sản phẩm dệt, đường, vật liệu xây dựng Nguồn phát thải CO2 khác là sử dụng năng lượng phi thương mại như đốt cháy củi, gỗ, các chất thải trong chế biến nông sản. Khí mêtan (CH4) trong khí quyển cũng tăng nhanh do hoạt động của con người, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, xử lý chất thải và khai thác nhiên liệu hóa thạch Ôxyt nitơ (N2O) trong khí quyển cũng tăng lên do các hoạt động nông nghiệp và công nghiệp sản xuất một số loại axit . 1.3.2. Sự hình thành thị trường mua – bán sự phát thải nhà kính Trên cơ sở nhận thức được tác động của hiệu ứng nhà kính đến cuộc sống và sự phát triển nói chúng, các quốc gia trên thế giới đã cùng nhau bàn bạc, đàm phán và đi đến thống nhất hình thành nên những tổ chức, hiệp ước quốc tế, khu vực, nhằm kiểm soát, đối phó với những diễn biến của sự nóng lên của Trái đất. Thị trường mua – bán sự phát thải giữa các quốc gia được hình thành dựa trên nỗ lực nhằm thực hiện theo đúng các cam kết trong các thể chế quốc tế này. Trong đó không thể không kể đến Hiệp định khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu toàn cầu (UNFCCC) và Nghị định thư Kyoto (KP). 1.3.2.1. Hiệp định khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu toàn cầu (UNFCCC) a. UNFCCC là gì? UNFCCC là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh, được dịch ra tiếng Việt là Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu. Trước những hiểm họa và thách thức lớn đối với toàn nhân loại, Liên hợp quốc đã tập hợp nhiều nhà khoa học, chuyên gia trên thế giới bàn bạc và đi đến nhất trí, cần có một Công ước quốc tế về khí hậu và coi đó là cơ sở pháp lý để tập trung cộng đồng thế giới đối phó với những diễn biến của biến đổi khí hậu. Và Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu đã được chấp nhậ vào ngày 9/5/1992 tại trụ sở Liên hợp quốc tại NewYork. Đã có 155 lãnh đạo nhà nước trên thế giới ký Công ước khung này tại hội nghị môi trường và phát triển ở Rio de Janeiro, Braxin vào tháng 6/1992, trong đó có Chính phủ Việt Nam. Mục tiêu cuối cùng của UNFCCC là “ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được sự can thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ thống khí hậu.” b. Các quốc gia tham gia Công ước phải tuân thủ 5 nguyên tắc sau: Các nước phải bảo vệ hệ thống khí hậu vì lợi ích của các thế hệ hiện nay và mai sau của nhân loại, trên cơ sở công bằng và phù hợp với trách nhiệm chung nhưng có phân biệt với khả năng của mỗi nước. Trong đó các nước phát triển phải đi đầu. Cần phải xem xét đầy đủ những nhu cầu riêng và hoàn cảnh đặc thù của các nước đang phát triển, nhất là các nước dễ bị ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu. Các nước phải thực hiện những biện pháp phòng ngừa, ngăn ngừa và giảm nhẹ nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu, giảm nhẹ ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu. Các quốc gia có quyền và phải đẩy mạnh sự phát triển bền vững. Các quốc gia phải hợp tác để đẩy mạnh một hệ thống quốc tế mở cửa và tương trợ, hệ thống này sẽ dẫn tới sự phát triển và tăng trưởng kinh tế bền vững ở tất cả các quốc gia. Công ước khung còn đặt ra các cơ chế tài chính, công nghệ kỹ thuật, các nội dung khoa học để tiến tới mục tiêu kiểm soát sự biến đổi khí hậu Trái đất, đặc biệt là kiểm soát sự phát thải nhà kính. 1.3.2.2. Nghị định thư Kyoto (KP) a. Nghị định thư Kyoto là gì? Tại Kyoto (Nhật Bản) đã diễn ra Hội nghị về môi trường thế giới lần thứ 3 vào tháng 12/1997. Hội nghị này đã thông qua một Nghị định gọi là Nghị định thư Kyoto (KP). Nội dung quan trọng nhất của KP là thiết lập các giới hạn ràng buộc mức phát thải các chất khí gây hiệu ứng nhà kính của các nước phát triển (những nước này chịu trách nhiệm chính trong việc gây hiệu ứng nhà kính). Phụ lục 1 của Nghị định thư Kyoto có nêu rõ 34 nước phát triển phải cam kết giảm phát thải của mình vào năm 2008-2012 xuống dưới mức phát thải năm 1990. Cụ thể: trong thời kỳ cam kết từ 2003 – 2012, phải giảm trung bình là 5,2% (ước 2.800 – 4.800 triệu tấn CO2 tương đương). Trong đó EU là 8%, Hoa Kỳ là 7%, Nhật Bản 6%. b. Các cơ chế thực hiện trong KP Nghị định thư Kyoto đã đề nghị ba cơ chế nhằm thực hiện giảm phát thải toàn cầu với chi phí thấp nhất: Cơ chế đồng thực hiện (JI) – phối hợp thực hiện các dự án hợp tác về khí hậu giữa các nước phát triển với nhau) Cơ chế buôn bán phát thải (IET) – cho phép các nước phát triển “mua” lại chứng chỉ giảm phát thải từ các nước đang phát triển – những nơi có mức phát thải thấp, hoặc chưa đến ngưỡng yêu cầu giảm phát thải) Cơ chế phát triển sạch (CDM) – là một cơ chế đối tác đầu tư giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. CDM cho phép và khuyến khích các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp của các nước phát triển đầu tư, thực hiện các dự án giảm phát thải khí nhà kính tại các nước đang phát triển và nhận được tín dụng dưới dạng “giảm phát thải được chứng nhận (CERs)”. Khoản tín dụng này được tính vào chỉ tiêu giảm phát thải khí nhà kính của các nước phát triển, giúp các nước này thực hiện cam kết giảm phát thải định lượng khí nhà k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6060.doc
Tài liệu liên quan