Mục lục
Đặt vấn đề.
Nội dung.
1. Tổng quan về thị trường tài chính.
1.1. Bản chất, vai trò của thị trường tài chính.
1.1.1. Bản chất của thị trường tài chính.
1.1.2. Vai trò của thị trường tài chính.
1.2. Tổng quan về thị trường tài chính Việt Nam.
2. Các loại thị trường tài chính chủ yếu nước ta hiện nay.
2.1. Thị trường vốn.
2.2. Thị trường tiền tệ.
2.3. Thị trường chứng khoán.
3. Các phương hướng,chính sách phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam.
3.1. Thị trường vốn.
3.2. Thị trường tiền tệ.
3.3. Thị trường chứng khoán.
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3178 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển thị trường tài chính (vốn, tiền tệ, chứng khoán) trong bối cảnh hội nhập ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốc độ tăng trưởng cao vượt bậc, nhanh chóng trở thành “địa điểm” đầu tư hấp dẫn trong con mắt của các nhà đầu tư, tổ chức nước ngoài. Theo nhận định của những nhà chuyên môn, thị trường tài chính Việt Nam là một trong những thị trường tài chính phát triển nhanh nhất thế giới.
Thị trường tài chính Việt Nam được hình thành trong thời kỳ đổi mới, ngày càng gia tăng về quy mô; đồng bộ về cơ cấu, hiện đại hơn về công nghệ, nghiệp vụ và cũng ngày càng khẳng định đậm nét hơn vị thế không thể thiếu được trong tổng thể nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong tạo động lực định hướng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cả hiện tại lẫn tương lai... Tuy nhiên, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, xét về tổng thể, thị trường tài chính Việt Nam hiện nay nổi lên một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, thị trường tài chính chưa phát triển đồng bộ về cơ cấu, chưa đồng đều về trình độ giữa các bộ phận hợp thành.Có thể nói, ở nước ta cho đến nay, dường như còn chưa có thị trường tài chính thực sự với đầy đủ hình hài, bộ phận cần có như thị trường tài chính ở các nước khu vực có nền kinh tế thị trường phát triển. Các hoạt động trên thị trường tài chính ở nước ta mới chỉ tập trung vào thị trường vốn ngắn hạn, chưa nhiều các hoạt động trên thị trường vốn dài hạn. Hơn nữa, trong thị trường vốn ngắn hạn cũng chủ yếu mới tập trung ở một số hoạt động huy động và cho vay tín dụng thông thường của các ngân hàng thương mại nhà nước, còn ở thị trường vốn dài hạn mới tập trung ở các hoạt động vay nợ dài hạn của Chính phủ hoặc doanh nghiệp nhà nước... Thị trường chứng khoán - một định chế tài chính tiên tiến, thước đo trình độ phát triển thị trường của một quốc gia, một hình thức tổ chức trực tiếp giữa người có cung - cầu vốn, không có trung gian tài chính, một thị trường liên tục, gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo - thì hầu như chưa hình thành với tư cách một thị trường, cũng như chưa được mở rộng trên cả nước. Cho đến nay, mới chỉ có 1 trung tâm giao dịch chứng khoán ở Thành phố Hồ Chí Minh, với 21 công ty niêm yết với tổng giá trị cổ phiếu tương đương 130 triệu USD, tức chưa đến 2% GDP cả nước năm 2002. Tổng cộng mới có 11 công ty chứng khoán, 6 công ty kiểm toán, 3 ngân hàng lưu ký nước ngoài được thừa nhận về tư cách pháp lý phục vụ cho 21 công ty niêm yết nói trên và 13000 tài khoản đầu tư thống kê được tại các công ty chứng khoán và chỉ khoảng 1/4 số tài khoản này là hoạt động thực sự (trong đó tài khoản của các nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư có tổ chức rất ít). Đó là chưa kể chỉ số chứng khoán Việt Nam (VN Index) hiện đã giảm còn chừng 1/3 so với đỉnh điểm (khoảng 150 điểm vào giữa tháng 7/2003 so với 571 điểm ngay 25/6/2001).
Thứ hai, quy mô thị trường còn nhỏ, các hàng hóa và dịch vụ tài chính còn nghèo nàn, đơn giản và tính chuyên nghiệp chưa cao. Mặc dầu còn thiếu số liệu đầy đủ để đánh giá tổng quát quy mô thị trường tài chính của nước ta cả về tổng thể, cũng như từng bộ phận, song có thể cảm nhận thấy sự khiêm tốn của chúng qua số lượng và quy mô vốn điều lệ, cũng như khả năng thanh toán của các ngân hàng, công ty tài chính và các cơ sở kinh doanh khác đang hoạt động trong lĩnh vực tài chính. Hiện tại, trên địa bàn thủ đô Hà Nội - trung tâm tài chính hàng đầu của cả nước - có 113 các tổ chức tài chính, tín dụng hoạt động, bao gồm 67 ngân hàng và chi nhánh ngân hàng, 2 công ty tài chính, 6 công ty cho thuê tài chính, 9 công ty chứng khoán, 9 quỹ tín dụng nhân dân và 5 quỹ tài chính Nhà nước. Các ngân hàng và công ty bảo hiểm quốc doanh lớn nhất nước ta cũng mới chỉ cung cấp chừng 60 sản phẩm dịch vụ cho các khách hàng so với từ 200 - 600 sản phẩm dịch vụ hết sức đa dạng và linh hoạt của các ngân hàng và công ty bảo hiểm trung bình ở các nước phát triển trên thế giới. Đa số dân cư và phần lớn các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước còn nằm ngoài "vùng phủ sóng" của các dịch vụ thị trường tài chính; nhiều doanh nghiệp đang khát vốn kinh doanh, trong khi thiếu cơ chế và công cụ hiệu quả khai thông nguồn vốn "chết" trong dân, trong các ngân hàng .... Tính chuyên nghiệp và năng động của các nhân viên và cơ sở kinh doanh tín dụng "đen" hoặc tư nhân ở góc độ nào đó đang tỏ ra hiệu quả hơn so với các cơ sở tín dụng quốc doanh.
Thứ ba, thị trường tài chính còn tập trung vào “sân chơi” và đối tác thuộc khu vực kinh tế nhà nước, chưa có sư liên thông và mở rộng trong cả nước cũng như với nước ngoài. Có thể nhận thấy trong bức tranh chung hoạt động của thị trường tài chính ở nước ta, các điểm sáng và đầu mối cung - cầu lớn nhất, các công cụ tài chính quan trọng nhất, dường như đều tập trung trong sân chơi giữa các đối tác thuộc khu vực kinh tế nhà nước với nhau hoặc huy động vốn từ xã hội, nhưng lại đầu tư cho khu vực kinh tế này, và ước tính có lẽ chiếm không dưới 80% tổng giá trị các giao dịch hiện hành trên thị trường tài chính nước ta. Các ngân hàng, cơ sở kinh doanh tài chính tư nhân và các đối tượng vay vốn tư nhân còn chiếm tỷ lệ khiêm tốn. Rất nhiều doanh nghiệp tư nhân ở nước ta đang gặp khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ tài chính - ngân hàng do thiếu tài sản thế chấp, thiếu dự án kinh doanh "khả thi", thiếu thông tin cần thiết, thiếu sự thấu hiểu và tận tụy của ngân hàng hoặc đơn giản chỉ là do chưa quen vì chưa từng được hưởng các dịch vụ tài chính này...
Thứ tư, thị trường tài chính hoạt động chưa mang tính thị trường cao và chưa gắn đồng bộ với các thị trường khác trong nền kinh tế. Rất nhiều ngân hàng, công ty tài chính vẫn còn mang dáng dấp và phong cách kinh doanh của thời bao cấp. Hơn nữa, do còn một số bất cập trong khung pháp lý về hoạt động, do tập trung vào các đối tác thuộc khu vực kinh tế nhà nước, nên các nguyên tắc kinh doanh thị trường nhiều khi được thực hiện một cách ước lệ, hình thức. Dòng vốn xã hội, thông qua thị trường tài chính, vẫn chưa được thực sự chảy đến những nơi cần đến và tuân theo tín hiệu, nguyên tắc thị trường. Tính cạnh tranh thị trường giữa các ngân hàng mới đựoc khởi động gần đây, từ khi Ngân hàng nhà nước áp dụng chế độ lãi suất cơ bản và bãi bỏ kiểm soát lãi suất... Nợ quá hạn, khó đòi của nhiều ngân hàng còn cao do ngân hàng chịu sức ép "cho vay chính sách", còn các đối tác được vay thì sẵn tâm lý xin hỗ trợ chính sách càng nhiều càng tốt...Hơn nữa, thị trường tài chính dường như còn hoạt động một cách đơn độc, thiếu gắn kết đồng bộ với nhiều thị trường và các hoạt động kinh tế - xã hội lớn khác. Chẳng hạn, thị trường chứng khoán còn thờ ơ với quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; hoặc thị trường tiền tệ trong nước còn khá ""lãnh đạm"" với thị trường tài chính quốc tế.... Những rủi ro phi thị trường còn lớn đối với các hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính, nhất là thị trường chứng khoán (do thông tin cổ phiếu thiếu về số lượng, không đảm bảo về chất lượng hoặc không kịp thời...).
Thứ năm, thị trường tài chính đang từng bước được xây dựng, củng cố và phát triển phù hợp quá trình chuyển đổi cơ chế và đáp ứng các cam kết hội nhập và thông lệ quốc tế. Đây đã, đang và sẽ còn là đặc điểm lớn nhất bao trùm, xuyên suốt, chi phối và định hướng toàn bộ qua trình vận động của thị trường tài chính Việt Nam. Cùng với sự chuyển biến về nhận thức và sự hoàn thiện cơ chế thị trường mở nói chung, hệ thống pháp lý kinh tế nói riêng, thị trường tài chính Việt Nam sẽ ngày càng được củng cố và phát triển vững chắc, an toàn và hiệu quả hơn cả về bề rộng lẫn bề sâu. Các bộ phận thị trường trong hệ thống thị trường tài chính sẽ tiếp tục mở rộng về quy mô, tăng thêm các công cụ, dịch vụ chuyên nghiệp, phân nhánh chi tiết và rõ nét hơn các bộ phận thị trường chuyên biệt (ví dụ, thị trường cổ phiếu doanh nghiệp sẽ phân thành thị trường cổ phiếu của nhóm doanh nghiệp cơ khí, nhóm doanh nghiệp may mặc, nhóm doanh nghiệp giầy, ...). Kiến thức, tâm lý và thông tin về thị trường tài chính sẽ được củng cố, cải thiện cả về phía bên cung lẫn bên cầu, cũng như bên trung gian và toàn xã hội, tạo thuận lợi cho hoạt động của thị trường tài chính. Đặc biệt, thị trường tài chính Việt Nam sẽ ngày càng được kết nối đồng bộ với các thị trường khác trong nền kinh tế, được liên thông với thị trường tài chính quốc tế và thu hút ngày càng rộng rãi hơn và phục vụ ngày càng có chất lượng, hiệu quả hơn mọi thành viên, đối tác và các hoạt động kinh tế - xã hội đất nước.
2.Các loại thị trường tài chính chủ yếu ở nước ta hiện nay.
2.1.Thị trường tiền tệ.
Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập từ tháng 5 năm 1951 ở vùng tự do trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Sau ngày miền Nam hòan toàn giải phóng cả nước tồn tại một hệ thống ngân hàng Nhà nước từ trung ương đến chi nhánh ở các tỉnh và chi điếm ngân hàng các huyện. Trong thời gian này, hệ thống tổ chức ngân hàng nói trên là hệ thống ngân hàng một cấp độc quyền; trực tiếp kinh doanh tiền tệ, hoạt động thông qua các trung tâm tiền mặt, trung tâm tín dụng, trung tâm thanh toán và kinh doanh vàng bạc, đá quý. Tuy nhiên kiểu hoạt động này chỉ thích ứng với điều kiện chiến tranh và mô hình kinh tế chỉ huy quan liêu, bao cấp. Khi nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường, hệ thống này bộc lộ nhiều nhược điểm. Bởi lẽ hệ thống đó không phân biệt chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ với chức năng kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
Phải đến tận năm tháng 9 năm 1990, Chính phủ ban hành Luật Ngân hàng, từ đó thay đổi hệ thống ngân hàng về mặt tổ chức từ một cấp đã chuyển thành hệ thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại(kinh doanh).
- Ngân hàng Nhà nước có hệ thống tổ chức gồm Ngân hàng trung ương và các chi nhánh của nó tại các tỉnh, thành phố trong cả nước.
- Ngân hàng thương mại, mà hình thức tổ chức của nó khá đa dạng dựa theo các tiêu thức khác nhau để phân loại.
2.2.Thị trường vốn.
Trong bối cảnh, thị trường tài chính Việt Nam đang phát triển một cách mạnh mẽ, tốc đọ tăng trưởng cao vượt bậc, trở thành một trong những thị trường tài chính phát triển nhanh nhất thế giới, thì việc tăng cường thu hút nguồn vốn nước ngòai đầy tiềm năng cùng với việc xây dựng và phát triển thị trường vốn an tòan hiệu quả, từng bước hội nhập với thị trường vốn khu vực và thế giới đang là mục tiêu trọng tâm mà các nhà quản lý trong ngành tài chính hướng tới.
Ngày 27/10/2005, trái phiếu Chính phủ Việt Nam lần đầu chào bán trên thị trường vốn quốc tế. Đó là bước đi đầu tiên cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường vốn quốc tế. Trong bối cảnh nguồn viện trợ chính thức(ODA) đang ngày càng thu hẹp dần và dự kiến đến năm 2010 sẽ biến mất khỏi cơ cấu vốn vay thì trái phiếu trở thành một kênh huy đọng vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Sau hơn 10 năm nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm, khi đã có đủ những điều kiện thuận lợi: kinh tế trong nước phát triển, nợ nước ngoài ở mức an toàn, thị trường tài chính thế giới ổn định cộng với nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển ngày càng lớn, việc chào bán trái phiếu lần đầu tiên trên thị trường quốc tế của Việt Nam đã thu được những kết quả vô cùng khả quan. Tuy nhiên ngoài vấn đề thu hút vốn đầu tư, vấn đề sử dụng hiệu quả nguồn vốn như thế nào mới là quan trọng.
Sau đợt phát hành trái phiếu đầu tiên đó, thị trường vốn ở nước ta vẫn tiếp tục đạt được tốc độ tăng trưởng cao vượt bậc. Năm 2006, Việt nam thu hút được 9,22 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, trong đó đầu tư mới của các công ty Nhật bản chiếm 1,06 tỷ USD, tăng gấp đôi so với năm 2005 và gấp 6,5 lần so với năm 2001. Các chuyên gia nước ngoài cũng đánh giá cao môi trường đầu tư của Việt Nam. Đó cũng chính là lí do Euro Events, đơn vị chuyên tổ chức các hội nghị về vốn uy tín trên thế giới, đã lựa chọn Việt Nam là nơi tổ chức hội nghị về phát triển thị trường vốn và tài chính quy mô lớn vào cuối năm qua. Trái phiếu từ Việt Nam được dự đóan sẽ tăng nhanh trong năm 2007-2008 do các công ty phát hành trái phiếu mới sẽ gia tăng. Giấy chứng nhận sở hữu hiện tại của Việt Nam hoạt động khá tốt trên thị trường thứ cấp (qua đợt phát hành 500 triệu USD trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế năm 2006) và điều này cho thấy các nhà đầu tư rất muốn được tiếp cận nhiều hơn với Việt Nam đồng thời cũng mở đường cho các công ty Việt Nam tiếp cận các nhà đầu tư toàn cầu.
Việc chính phủ Việt Nam quyết hoàn thành tiến trình đổi sở hữu doanh nghiệp Nhà nước sẽ mở cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngòai tìm được thị trường dầu tư. Song song đó, việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới cũng tạo điều kiện để Việt Nam hấp thu hết các nguồn vốn đầu tư gián tiếp, và cũng là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, thu hút vốn trên thị trường thế giới. Theo các chuyên gia, hiện tại tiềm năng tăng trưởng của các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn, vì so với các doanh nghiệp nước ngoài xuât phát điểm của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp. Chính điều này đã dặc biệt hấp dẫn các doanh nghiệp nước ngoài. Bên cạnh đó việc nhiều doanh nghiệp đang niêm yết tại thị trường Việt Nam chuẩn bị niêm yết trên thị trường nước ngoài, cùng với sự phát triển vượt bậc của thị trường chứng khóan Việt Nam trong hơn một năm qua đã khiến các nhà đầu tư nước ngòai thêm quan tâm đầu tư vào cổ phiếu doanh nghiệp Việt Nam.
2.3.Thị trường chứng khoán.
Mối quan tâm về thị trường chứng khoán ở Việt Nam có lẽ chưa bao giờ nóng như thời gian gần đây, đặc biệt sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, tổ chức thương mại thế giới. Thị trường đã liên tục phá vỡ những kỷ lục mới, khi tâm lý đầu cơ hầu như chi phối hoàn toàn các nhà đầu tư nội địa, theo sau những đánh giá lạc quan và các động thái đầu tư chiến lược của các nhà đầu tư nước ngoài.Cải cách kinh tế đang đi đúng quỹ đạo, và triển vọng tăng trưởng kinh tế đang rất sáng sủa là hai trong số những yếu tố chính làm các nhà đầu tư nước ngoài đổ tiền vào thị trường Việt Nam. Trong khi đó, thị trường đang ở trạng thái hưng phấn quá mức, được quản lý còn khá lỏng lẻo, và cực kỳ rủi ro cho những nhà đầu tư amateur mù mờ.
Thị trường bùng nổ
Ở Việt Nam hiện nay, dân chúng đổ xô vào mua chứng khoán như thể không còn ngày mai. Người ta chỉ quan tâm đến chuyện mua mà không cần quan tâm đến các doanh nghiệp phát hành chứng khoán đang làm gì, có tỷ suất P/E hay lợi tức như thế nào. Kết quả của làn sóng đầu cơ này là sự thăng hoa của VN-Index, từ 100 điểm vào lúc khai trương năm 2000 lên trên 750 điểm trong tuần qua. Giá chứng khoán tăng từng ngày mà không vì lý do cụ thể gì. Trong thời kỳ 2002-2005, thị trường đã tăng trưởng với tốc độ gộp 19%/năm. Hơn thế nữa, chỉ trong 3 tháng gần đây, VN-Index đã tăng gần 19%, mà theo các chuyên gia thì không có tiền lệ ở trên thế giới.
Tuy vậy, bất chấp sự phát triển có tính bùng nổ của thị trường chứng khoán gần đây, nó vẫn còn quá nhỏ bé về quy mô. Sau hơn 4 năm đi vào hoạt động, số lượng công ty niêm yết hiện nay mới chỉ là trên 60, so với 24 công ty năm 2000. Mặc dù khối lượng vốn hóa ước tính đã đạt trên 3 tỷ USD, tăng một cách ấn tượng so với con số 16,8 triệu USD vào năm 2000, nó mới chỉ tương đương với gần 6% GDP - một con số quá nhỏ so với mức 20-30% GDP của các nước trong khu vực. Xét về trị giá khối lượng cổ phiếu giao dịch hàng ngày, con số này của thị trường chứng khoán Việt Nam mới đạt khoảng 6,6 triệu USD, thấp xa so với mức 314 triệu USD/ngày của Thái Lan. Với những con số không mấy ấn tượng về quy mô thế này, thật ngạc nhiên tại sao thị trường chứng khoán Việt Nam lại thu hút được sự quan tâm mạnh mẽ của giới đầu tư như vậy.
Trên thực tế, thị trường chứng khoán Việt Nam có một số điểm đủ làm hưng phấn các nhà đầu tư. Trước tiên, còn rất nhiều công ty sáng giá chưa được niêm yết, đặc biệt các đại gia trong các ngành chủ chốt như viễn thông, ngân hàng, xây dựng, bất động sản... Thị trường giao dịch cổ phiếu không chính thức (OTC) có quy mô rất đáng kể, trị giá khoảng trên 4 tỷ USD, và đang hoạt động rất sôi động. Nếu cộng dồn thị trường OTC này với thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu chính phủ và các giấy tờ có giá khác (ước tính khoảng 5 tỷ USD) thì bức tranh sẽ trở nên hoàn toàn khác. Ngoài ra, Chính phủ còn có kế hoạch nâng quy mô thị trường chứng khoán lên tới 20-30% GDP vào năm 2010. Đây là điều xem ra nằm trong tầm tay, với hàng loạt công ty đang chờ niêm yết trên thị trường và nhiều công ty đã niêm yết đang chuẩn bị phát hành thêm cổ phiếu.
Tâm lý phong trào
Tuy không thể phủ nhận rằng tiềm năng phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất lớn, nhưng vấn đề đáng lo ngại ở đây là những nhà đầu tư tham gia vào cuộc chơi này đa phần là các nhà đầu tư nội địa cò con - những người coi thị trường chứng khoán chỉ như một kênh đầu tư thay thế cho vàng và bất động sản. Hầu như không có một tổ chức kinh doanh chứng khoán nội địa (của người Việt Nam) nào cả. Theo một ước tính của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, có đến 90% các nhà đầu tư là các cá nhân người Việt Nam. Phần lớn các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp là những tổ chức do người nước ngoài thành lập tại Việt Nam. Con số và quy mô của các tổ chức này còn nhỏ nhưng đang phát triển khá nhanh. Điều quan trọng là họ hoạt động với một sự lạc quan có chừng mực. Với tâm lý phong trào, thị trường đã liên tục bị đẩy đến những cơn sốt nối tiếp nhau. Trong khi đó, đa phần các nhà đầu tư nước ngoài có cái nhìn tỉnh táo hơn về thị trường, mà theo họ tuy vẫn rất có triển vọng nhưng không đến mức quá cao.Về điểm này, có thể nói sự sụt giảm mạnh của VN-Index từ sau tháng 4, và gần đây là cuối tháng 11 (có ngày rớt tới 60 điểm) xem ra lại là một điều tích cực vì ngoài việc nó tạo một cơ hội mua vào cho những nhà đầu tư chiến lược trong dài hạn (đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài), nó còn là điều cảnh tỉnh cho các nhà đầu tư nội địa rằng thị trường chứng khoán mới nổi là con phố hai chiều, kể cả trong bối cảnh có tăng trưởng kinh tế nhanh.
Nhà đầu tư nước ngoài vẫn bị trói tay.Thực tế không đúng như kỳ vọng của giới đầu tư nội địa. Rào cản về hành chính và luật lệ đã làm nản lòng nhiều nhà đầu tư. Ví dụ, nhà đầu tư có thể mua bán chứng khoán trực tiếp từ nước ngoài với điều kiện phải có mã số kinh doanh (mà để lấy được nó thì rất phức tạp), và phải có mặt để ký các mẫu chứng từ, hoặc phải ủy quyền cho một công ty môi giới nội địa (là điều rất rủi ro trong con mắt của họ, trong trường hợp giao dịch không thành công).Bởi vậy, giải pháp tối ưu cho nhiều nhà đầu tư vẫn còn muốn đầu tư vào Việt Nam là đầu tư thông qua các quỹ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, tuy vẫn còn nhỏ về mặt quy mô và tổ chức, nhưng ít nhất thì cũng đang hoạt động một cách rất bài bản và ít rủi ro hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
3.Các phương hướng, chính sách phát triển thị trường tài chính ở nước ta hiện nay.
Việt Nam đã xác định cần sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển vào trước năm 2010, tạo đà phát triển để đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu này thì một trong những nhiệm vụ quan trọng là Việt Nam cần phải xây dựng được một nền tài chính quốc gia đủ mạnh để điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh về bền vững, giải quyết các vấn đề xã hội.
3.1.Thị trường tiền tệ.
Điều đầu tiên để thực hiện điều đó là chính sách tài chính - ngân sách cần được đổi mới, phù hợp hơn với cơ chế thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; có khả năng động viên tối đa, nâng cao hiệu quả quản lý, phân phối và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn nội lực và ngoại lực. Tỷ lệ huy động vào ngân sách Nhà nước cần ở khoảng 21-22% GDP; kiểm soát và duy trì tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà nước ở mức không quá 5% GDP; kiểm soát nợ Chính phủ, nợ ngoài nước của quốc gia đều ở mức không quá 50% GDP; hình thành đồng bộ các loại thị trường, trong đó có thị trường vốn và dịch vụ tài chính, thị trường bất động sản; hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp; đồng thời tăng cường tính công khai, minh bạch trong hệ thống tài chính.
Để một nền tài chính quốc gia đủ mạnh đạt được mục tiêu trên, Bộ Tài chính cho biết một số nhiệm vụ và giải pháp tài chính - ngân sách trong giai đoạn 2006 – 2010, đó là:
Về chính sách tài khoá, tập trung cải cách cơ chế xây dựng dự toán ngân sách Nhà nước, trong đó chú trọng đến kế hoạch ngân sách trung và ngắn hạn mang tính khả thi gắn với việc quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra, nhằm phục vụ tốt cho việc thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập. Đồng thời, tiến hành rà soát tổng thể các cơ chế, chính sách hiện hành để bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc của WTO và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, bao gồm cơ chế chính sách tài chính liên quan trợ cấp.
Nâng cao vai trò định hướng phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính Nhà nước trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, trong đó vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước tập trung chủ yếu cho xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, và bảo đảm vốn cho các công trình trọng điểm quốc gia và các mục tiêu, nhiệm vụ ưu tiên của chiến lược như đầu tư phát triển con người nhằm tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, điều chỉnh cơ cấu đầu tư để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện chính sách tài chính cho tăng trưởng bền vững, xoá đói, giảm nghèo.
Về cải cách hệ thống chính sách thuế và hải quan, triển khai có hiệu quả chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 với mục tiêu xây dựng một hệ thống chính sách thuế đồng bộ, công bằng, hiệu quả, minh bạch và công khai nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, bảo đảm nguồn lực tài chính lâu dài và bền vững, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.
Về cải cách doanh nghiệp, xây dựng và hoàn thiện chính sách, cơ chế tài chính doanh nghiệp, bảo đảm bình đẳng, ổn định, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khai thác và phát huy mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hoá, kể cả các tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông. Đổi mới căn bản chính sách, cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở tách bạch rõ chức năng quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh với chức năng đại diện chủ sở hữu vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp; xoá bỏ cơ chế chủ quản; áp dụng cơ chế nhà nước đặt hàng việc sản xuất, cung cấp các hàng hoá và dịch vụ công ích.
Về hoạt động tài chính đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế về tài chính, xác định lộ trình hợp lý đối với phát triển và tự do hoá từng bước luồng vốn trong điều kiện hội nhập, thực hiện đa dạng hoá nguồn vốn, đa phương hoá quan hệ đối tác; hoàn thiện công tác quản lý nợ nước ngoài, quản lý nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức ODA; xây dựng hệ thống giám sát nợ, hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả các dự án, chương trình sử dụng vốn vay nước ngoài; tổ chức việc thanh toán nợ đúng hạn. Hoàn thiện bộ máy, tăng cường nhân lực trong quản lý nợ nước ngoài. Hoàn thiện khung pháp lý về tài chính theo chuẩn mực quốc tế để hội nhập thành công; điều chỉnh và xây dựng cơ chế, chính sách tài chính phù hợp với các cam kết song phương và đa phương, chủ động phát triển các định chế tài chính, ngân hàng, thương mại có trọng điểm, có thời gian và lộ trình rõ ràng, minh bạch. Tăng cường công khai, minh bạch trong hệ thống tài chính, xây dựng và tăng cường công tác kế toán, kiểm toán, thanh tra giám sát, công bố thông tin đối với các hoạt động thu chi tài chính, ngân sách. Thực hiện chế độ kiểm toán và công bố thông tin bắt buộc đối với các cấp ngân sách, các đơn vị sử dụng ngân sách và các công ty nhà nước. Phân định trách nhiệm và tăng cường phối hợp giữa cơ quan kiểm toán nhà nước, thanh tra tài chính, kiểm soát nội bộ, mở rộng sử dụng dịch vụ kiểm toán độc lập đối với các đơn vị thu, chi tài chính, ngân sách. Tổ chức triển khai có hiệu quả việc thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Luật Phòng, chống tham nhũng. Nâng cao năng lực giám sát của các cơ quan dân cử, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và nhân dân. Thực hiện chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan đơn vị trong việc sử dụng ngân sách; áp dụng chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài chính - ngân sách.
Về cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính, đồng bộ hoá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và cải cách thủ tục hành chính về tài chính; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý tài chính - ngân sách; tiêu chuẩn hoá cán bộ tài chính, xây dựng đội ngũ công chức tài chính đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý và có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Hiện đại hoá quản lý tài chính - ngân sách, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý trước hết là lĩnh vực thuế, hải quan, kho bạc; tiến tới thực hiện thống nhất các quy trình nghiệp vụ quản lý, điều hành công tác tài chính theo tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế.
3.2.Thị trường vốn.
Về thị trường vốn, tiếp tục phát triển thị trường vốn thành một kênh huy động vốn dài hạn, an toàn, có hiệu quả cao cho đầu tư phát triển và từng bước hội nhập với thị trường vốn khu vực và thế giới.
Ngày 6/4
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72686.DOC