Theo tổng cục thống kê, vào năm 2000 có 57.069 đến năm 2009 cả nước có khoảng 150.000 trang trại với diện tích đất sử dụng khoảng 900.000 ha. Vốn bình quân cho vay một trang trại từ 200 triệu đến 300 triệu đồng, có trang trại vay đến 500 triệu đồng. Kinh tế trang trại phát triền nhanh cả về số lượng và chất lượng đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Các trang trại chuyên trồng cây nông nghiệp chiếm 55,3%, chăn nuôi gia súc, gia cầm chiếm 10,3%, lâm nghiệp chiếm 2,2%, nuôi trồng thuỷ sản chiếm 27,3% và sản xuất kinh doanh tổng hợp chiếm 4,9%.
Những mặt được của kinh tế trang trại thời gian qua có thể tựu trung ở một số điểm sau:
Thứ nhất: Kinh tế trang trại phát triển đã góp phần khai thác thêm diện tich lớn đất trống, đồi núi trọc, diện tích còn hoang hoá (khoảng 20-30 vạn ha) đưa vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nhất là ở các vùng trung du, miền núi và ven biền.
Thứ hai: Giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn, ngoài 30 vạn lao động của gia đình còn thuê thêm 10 vạn lao động thường xuyên và 30 triệu ngày công lao động thời vụ/năm.
Thứ ba: Hàng năm làm ra giá trị tổng sản lượng gần 12.000 tỷ đồng, trong đó 87% là sản phẩm hàng hoá.
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3052 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển thị trường tín dụng nông thôn, vai trò và gợi ý chính sách, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n còn có nhu cầu rất lớn về vốn đầu tư nói chung, vay vốn tín dụng nói riêng nhằm cung ứng các tư liệu tiêu dùng như lương thực thực phẩm, hàng công nghiệp (may mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân và gia đình,...), vật liệu xây dựng, nội thất, phương tiện đi lại (xe đạp, xe máy, thuyền, xuồng,...) cũng như thụ hưởng các loại hình dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp (thuỷ lợi, điện, nước sinh hoạt, khoa học kỹ thuật,...), dịch vụ môi trường, dịch vụ tiêu dùng cá nhân - hộ gia đình, dịch vụ văn hoá - giáo dục đào tạo - y tế - xã hội,...
Do bị cách biệt về thu nhập mà người dân ở khu vực nông nghiệp và nông thôn không thể tự trang trải được nhu cầu về vốn của bản thân, và cũng không thể đảm bảo được nhu cầu cần thiết về giáo dục, y tế, văn hóa…
“ Theo báo cáo của TCTK, nếu thu nhập bình quân đầu người năm 2008 là 995.000 VND/tháng thì của khu vực nông thôn chỉ có 762.000 VND/tháng còn của khu vực thành thị tới 1,6 triệu VND/tháng. “
Ví dụ như ở Đồng Tháp
Chi phí phân bón, thuốc sâu, cho 1 ha lúa là khoảng 10 triệu đồng, Giống và chi phí lao động từ 2,5 đến 3,8 triệu đồng/ ha, Tuy vậy mà giá lúa chỉ giao động trong khoảng 5.000đ đến 6,800đ/kg, với năng suất 5,5 đến 6,5 tấn/ha, cho nên lợi nhuận của người dân chỉ đạt khoảng 10 triệu 1 vụ, thì họ không đủ vốn để trang trải hằng ngày cho y tế, giáo dục,…
Khó khăn trong việc tiếp cận vốn của người dân:
Có ít các tổ chức tín dụng và các đình chế tín dụng hướng về người dân. Chỉ có Ngân hàng AgiBank, ngân hàng chính sách xã hội và quỹ tín dụng nhân dân hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực này.
Nông dân còn thiếu khả năng sản suất sao cho các tổ chức tín dụng tin tưởng giao vốn cho sản xuất.
Một số hộ gia đình không có sổ đỏ, giấy tờ, tài sản có giá để thế chấp vay vốn
Thủ tục vay vốn còn quá phức tạp với trình độ người dân
Do khoảng cách xa mà khả năng nắm bắt thông tin của ngân hàng và người dân cũng như người dân với thông tin tín dụng ưu đãi còn hạn chế.
Kết quả là nông nghiệp nông thôn VN thiếu cả vốn dành cho sản xuất kinh doanh cũng như vốn dành cho đời sống sinh hoạt, thị trường tín dụng đen vẫn còn nhiều đất sống, đặc biệt ở khu vực nông thôn, các vụ vi phạm pháp luật liên quan tới tín dụng nông nghiệp nông thôn hầu như không giảm, thậm chí còn tăng,... Rủi ro của các hộ nông dân rất cao mỗi khi gặp thiên tai, mất mùa, dịch bệnh,... do thu nhập quá thấp nên không ít người trong số họ buộc phải tìm cách vay nợ khắp nơi, thậm chí là “vay nóng” với “lãi suất cắt cổ” để mua sắm tư liệu sản xuất, hay chỉ là đóng tiền cho con đi học, đi chữa bệnh, đi lao động ở nước ngoài,...
Doanh nghiệp
Nhu cầu vốn kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp cũng rất lớn.
Nếu như một hộ nông dân bình thường cần vốn để trang trải mùa vụ, đầu tư máy móc, vật tư nông nghiệp, trang trải cho nhu cầu sồng tối thiểu của cá nhân thì một doanh nghiệp có nhu cầu vốn còn cao hơn thế nữa. Không những do sản suất trên quy mô lớn nên họ cần nhiều vốn theo quy mô mà họ còn cần vốn để mở rộng đầu tư, cần vốn để nhập máy móc, thiết bị để có giới hóa hoàn toàn trong sản xuất, cần vốn để trả lương cho công nhân… và mặt khác còn cần vốn để nhập nông sản vào sản xuất hoặc đền bù hợp đồng khi mà thị trường nông sản mất mùa.
Bên cạnh các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng nông sản thì các doanh nghiệp cung cấp vật tư nông nghiệp cũng khốn đốn về vốn khi mà người nông dân không có tiền thanh toán nợ, hoặc không có tiền trả tiền vật tư.
Trên thực tế, không phải là doanh nghiệp thì dễ dàng tiếp cận vốn hơn nông dân, doanh nghiệp cũng có một số khó khăn khiến họ khó tiếp cận vốn như:
Do đặc thù và quy mô nhỏ
Không đủ điều kiện tín chấp, không có hợp đồng kinh doanh
Thủ tục vay quá phức tạp
Do đặc thù của nông nghiệp bị ảnh hưởng rủi ro bởi thời tiết cho nên dễ bị mất mùa, khi đó doanh nghiệp không có khả năng chi trả lãi xuất và vốn gốc
Hợp tác xã, trang trại.
Bên cạnh người nông dân, doanh nghiệp, thì HTX và trang trại cũng là một tổ chức sản xuất kinh doanh đáng chú ý ở nông thôn.
Trong quá trình hội nhập, người nông dân ở Việt Nam sẽ bị yếu thế hơn so với các quốc gia phát triển, do đó điều tất yếu là họ phải liên kết để sản xuất, hoặc mở rộng về quy mô do đó ngày nay mô hình hợp tác xã và trang trại đang có xu hướng phát tiển mạnh, như thế nhu cầu về vốn để thành lập và duy trì hoạt động cũng rất lớn.
Nhưng vì một số lý do chủ quan và khách quan mà việc tiếp cận vốn của các HTX và trang trại còn gặp khó khăn.:
Trình độ năng lực của cán bộ và xã viên còn hạn chế
Các phương án sản xuất kinh doanh còn chưa rõ rang và còn lúng túng
Việc tổ chức và nắm bắt thông tin về tín dụng còn hạn chế, chưa sâu sắc
Thủ tục thế chấp, bảo lãnh của ngân hàng còn quá chặt chẽ
Nhiều HTX do quá nghèo nàn, chưa có quyền sủ dụng đất để thế chấp
Đất nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nên việc dành ưu tiên vốn cho các công trình giao thông, công nghiệp, ở góc độ nào đó, là điều dễ hiểu. Nhưng liệu có bất công với nông dân và người nghèo không, khi họ chưa được chú ý đúng mức.
Nguồn cung vốn trong khu vực kinh tế NN-NT.
Quan điểm vốn đầu tư vốn cho khu vực NN-NT
Xét trên quan điểm hiệu quả xã hội: NN-NT là khu vực truyền thống, đối với việt nam có tới trên 70% cư dân và lực lượng lao động khu vực này. Cho nên đầu tư vào khu vực NN-NT có ý nghĩa thúc đẩy phát triển kinh tế ở khu vực này, tạo ra công bằng xã hội và phát triển đồng đều giữa các khu vực kinh tế.
Xét trên quan điểm hiệu quả kinh tế: NN-NT bao hàm trong đó là những nghành , lĩnh vực có giá trị gia tăng thấp, do vậy việc đầu tư vốn cho khu vực này ít đem lại hiệu quả so với việc đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. chính vì thế nếu xét trên khía cạnh hiệu quả kinh tế thuần túy chỉ nên đầu tư có chừng mực nào đó vào khu vực NN-NT nhằm duy trì và phát triển các lĩnh vực mà nước ta có lợi thế , còn đại bộ phận nguồn lực dành cho các nghành công nghiệp và dịch vụ . Tuy nhiên, từ thực tế phát triển những năm qua cho thấy NN-NT vẫn là lĩnh vực đóng góp quan trọng trong thành tựu phát triển kinh tế đất nước , vẫn là chỗ dựa vững chắc nhằm thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế. Hơn nữa hiện nay khu vực NN vẫn là địa bàn tập trung các lợi thế của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế . Cho nên việc đầu tư cho NN chính là khai thác các lợi thế nhằm nâng cao hiệu quả trong chiến lước phát triển kinh tế . Nhưng để phát triển NN-NT bền vững thì vẫn phải dựa trên một nền tảng thị trường tài chính nông thôn. Do vậy phát triển TTTCNT vẫn được xem là vấn đề cốt yếu trong chiến lược phát triển NN-NT nước ta hiện nay.
Để thúc đẩy sự phát triển của khu vực nông thôn thì vấn đề tiên quyết là vốn . Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong thúc đẩy khu vực NN-NT phát triển.
Bảng 1: Đầu tư từ ngân sách nhà nước vào khu vực NN-NT
Đơn vị : tỷ đồng
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Cơ cấu GDP
100
100
100
100
100
100
nông lâm ngư
22.54
21.81
20.97
20.4
20.3
22.1
công nghiệp, xây dựng
39.46
40.21
41.02
41.5
41.58
39.7
dịch vụ
38
37.98
38.01
38.1
38.12
38.2
tổng chi ngân sách nhà nước
239,246
290,927
343,135
404,721
521,700
637,300
chi cho nông lâm ngư
20,220
22,927
25,749
30,087
33,900
39,759
tỷ trọng chi cho nông nghiệp (%)
8.5
7.9
7.5
7.4
6.5
6.2
Nguồn: Con người và sự kiện: Việt Nam và thế giới 2009. Thời báo kinh tế
Bảng 1 cho thấy đầu tư từ NSNN cho khu vực NN còn rất khiêm tốn so với mức đóng góp của khu vực này hàng năm đối với sự phát triển kinh tế trong nước . xuất phát từ thực tế là khu vực NN luôn phải đối mắt với những rủi ro do thiên tai , dịch bệnh , thị trường , nếu nhà nước không tăng cường đầu tư hỗ trợ thì khả năng tự chống đỡ của khu vực này không cao.
Các định chế tài chính.
Các định chế tài chính chính thức
NHNN& PTNN
NHNN& PTNN là định chế cho vay khu vực nông thôn lớn nhất và ngày càng chiếm thị phần lớn trong khối ngân hàng có vốn nhà nước , có mạnh lưới khắp 64 tỉnh . hiện này ngân hàng này không còn chương trình tín dụng cho hộ nghèo và cũng chưa có chiến lược thu hút tiết kiệm nhỏ từ nông thôn
Ngân hàng chính sách xã hội
Ngân hàng chính sách xã hội có mạng lưới hoạt hoạt động gồm 64 tỉnh , 592 phòng giao dịch cấp huyện , 8076 điểm giao dịch cấp xã , quản lý 239647 tổ tiết kiệm và vay vốn. Ngân hàng chính sách xã hội là tổ chức phi lợi nhuận với mục đích chủ yếu là cung cấp tín dụng cho người nghèo , nhưng lại không có tiêu chí riêng xác định khách hàng mà dựa vào quy định của chính phủ . Phương thức cho vay là ủy thác từng phần cho các tổ chức tín dụng và tổ chức chính trị xã hội . Nguồn vốn chủ yếu là vay từ ngân hàng nhà nước . Dự nợ cho vay hộ nghèo chiếm tới 80%. Tỷ lệ nguồn huy động thấp vì lãi suất tiền gửi thấp chỉ bằng nữa của ngân hàng thương mại và khoảng 20% khu vực không chính thức. Lãi suất cho vay trước tháng 10-1999 là 0,8% tháng , sau đó là 0,7% tháng , từ 1-1-2006 là 0,6%. Lãi suất thấp hơn nhiều so với các ngân hàng thương mại nên chính phủ luôn phải bù đắp và ngân hàng cũng khó bền vững về tài chính , sản phẩm thu hút tiết kiệm còn yếu.
Quỹ tín dụng nhân dân
Hiện này có 1026 quỹ cơ sỡ và 1 quỹ trung ương . Mạng lưới trên 1000 xã chiếm 11% số xã toàn quốc. Hiên này quỹ tín dụng nhân dân chỉ được thành lập ở những nơi có tiềm năng huy động vốn, có nhu cầu vay và có khả năng quản lý quỹ , giao thông thuận lợi. Các vùng khó khăn rất khó lập quỹ . Nguồn vốn vay huy động từ người dân , thủ tục vay đơn giản và phù hợp với trình độ của nông dân, sản phẩm tín dụng đa dạng , gần gũi với dân làng và có tham gia của bảo hiểm tiền gửi nên dễ được người dân chấp nhận. Qũy cho vay các thành viên của mình bằng cách đóng lệ phí thành viên và tài sản thế chấp. Qũy cũng được phép của nhà nước cho hộ nghèo vay . Qũy đã thể hiện sự bễn vững về tài chính nên phát triển nhanh, nhưng cũng chưa thu hút được những khoản tiết kiểm từ dân cư nông thôn.
Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn
Hoạt động ngay tại làng xã , năm 1998 cả nước có 19 ngân hàng . Nhưng hiện nay chỉ còn duy nhất một ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn. Lượng vốn của ngân hàng này không đáng kể.
Khu vực tài chính nông thôn chính thức có ưu thế về nguồn vốn lớn , có cơ sỡ vật chất được bao cấp từ trước và mạng lưới rộng khắp nhưng phần lớn các tổ chức chỉ quan tâm đến khách hàng có thu nhập cao nên vẫn còn khoảng 40% hộ có thu nhập thấp chưa được tiếp cận với nguồn chính thức.
Các định chế tài chính bán chính thức
Các tổ chính xã hội có hoạt động tín dụng vi mô nhằm giúp các thành viên của mình xóa đói giảm nghèo bằng cách giúp các ngân hàng và dự án trong việc cho vay nông dân và hộ nghèo nông thôn. Trong các tổ chức xã hội thì tổ chức Hội Phụ Nữ là tổ chức nổi bật nhất. Các chương trình của hội phụ nữ thường gồm cả phần tiết kiệm và tín dụng chia làm hai loại :
-Liên kết với ngân hàng như ngân hàng NN&PTNT và ngân hàng chính sách
-Trực tiếp quản lý một số chương trình tín dụng quốc gia và các dự án tín dụng do các tổ chức quốc tế tài trợ.
Hoạt động tài chính vi mô của NGO . Hiện nay có khoảng 60 tổ chức trong nước và quốc tế đang thực hiện các dự án tài chính tại VN
Các hình thức tài chính không chính thức
Tín dụng của những người cho vay chuyên nghiệp
Người cho vay là những người khá giả ở nông thôn, thường dùng nguồn vốn tự có để cho vay. Thủ tục đơn giản qua ký kết hoặc thỏa thuận miệng, không cần thế chấp . Lãi suất cho vay thường gấp 2-3 lần tín dụng chính thức.Thời hạn vay thường ngắn , thậm chí có thể vay nóng một vài ngày . Lượng vốn cho vay thường nhỏ hơn 10 triệu. Người cho vay thường hoạt động trong khu vực mình sinh sống là làng, xã .
Tín dụng nhóm tổ, phường, hội .
Đây là hình thức hợp tác với nhau giữa các hộ nên rất đa dạng và theo các quy tắc riêng . Hình thức rất phổ biến trong nông thôn bằng cách các thành viên góp vốn theo quy định để tạo ra một lượng vốn cho từng người sử dụng trong một thời gian nhất định. Tính tức cực của hình thức này là tính hợp tác và tiết kiệm trong tạo vốn cho nhau giữa những người trong thôn xóm.
Tín dụng tư thương
Đây là hình thức mua bán chụi vật tư hàng hóa giữa người buôn bán và cung cấp dịch vụ nông nghiệp. Trong quan hệ vay vốn là hiện vật , vốn trả là tiền , thủ tục vay đơn giản qua sự trao đổi hàng hóa vật tư và ký vào sổ nợ. Thời gian chịu nợ thường là một chu kỳ sản xuất kinh doanh , việc tính lãi thường theo thỏa thuận và thường biến động.
Khu vực không chính thức có ưu thế về sự thuận tiện và tính linh động trong khi vay vốn , các thông tin về người vay nắm rất rõ nên không cần tài sản thế chấp, thủ tục cho vay đơn giản. Nhưng lãi suất cho vay thường cao và lượng vốn vay nhỏ, thời gian ngắn.
Những hạn chế trong hoạt động tín dụng nông thôn hiện nay
Hoạt động tín dụng nông nghiệp, nông thôn tuy đạt được những kết quả nhất định, song so với mức tăng tín dụng chung của toàn bộ nền kinh tế còn thấp. Điều đó cho thấy tín dụng nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng đủ cho nhu cầu và mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn, hiệu quả của tín dụng ngân hàng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn chưa cao, chưa gắn kết được giữa nông nghiệp với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ, tiềm năng kinh tế đồi rừng và miền ven biển ở nhiều vùng chưa được khai thác tốt.
Sở dĩ như vậy là do:
Trong hoạt động sản suất nông nghiệp còn chứa đựng nhiều rủi ro, do diễn biến thời tiết phức tạp, khó lường, dịch bệnh, sâu bệnh tấn công hàng năm, thị thường tiêu thụ sản phẩm nông sản, thực phẩm chưa ổn định, một số mặt hàng xuất khẩu thì phụ thuộc quá nhiều vào giá cả thế giới…, thêm vào đó, công tác nghiên cứu, dự báo kinh tế liên quan đến lĩnh vực này còn yếu nên đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho sản xuất. Tất cả những điều đó đã gây những khó khăn nhất định cho việc mở rộng đầu tư tín dụng của các định chế tài chính…
Thu nhập của các hộ nông dân còn thấp, cùng với việc xử lý quyền sử dụng đất của người nông dân còn có những bất cập, nên việc cho vay các khoản vốn lớn để mở rộng sản xuất của hộ gia đình nông thôn là rất hạn chế.
Công nghệ ngân hàng cũng như màng lưới viễn thông mới chỉ phát triển ở các vùng đô thị, đông dân, còn tại vùng sâu, vùng xa vẫn chưa phát triển, hạn chế cho việc tiếp cận tín dụng của người dân, cũng như các định chế tài chính khó có thể mở rộng màng lưới của mình. Và điều đó cũng giải thích tại sao các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tại khu vực nông thôn còn nghèo nàn, chủ yếu là tín dụng truyền thống, các dịch vụ thanh toán, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm tín dụng nông nghiệp còn rất hạn chế, gần như mới phát triển ở mức thử nghiệm, sản phẩm tín dụng của ngân hàng chưa bao gồm các dịch vụ hỗ trợ đi kèm,…
Quy trình cung cấp tín dụng còn phức tạp, chưa phù hợp với trình độ của người dân đặc biệt là các thủ tục liên quan đến tài sản thế chấp là đất đai. Các tổ chức tín dụng chính thức thường yêu cầu người đi vay phải thế chấp tài sản, phổ biến nhất là đất hay nhà có kèm theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc ít nhất phải có giấy chứng nhận tạm thời quyền sử dụng đất do huyện cấp, và đôi khi yêu cầu cả bảo lãnh của chính quyền địa phương. Tuy hầu hết các nông hộ đều có đất, nhiều hộ không thể đem đất thế chấp cho ngân hàng để vay tiền vì chưa có “sổ đỏ” hoặc để xin được một giấy chứng nhận thì mất rất nhiều thời gian. Thủ tục phiền hà và quy định rắc rối là một cản trở lớn đối với người dân có trình độ văn hóa thấp, và làm nảy sinh những tệ nạn như cò vay vốn, phát triển hình thức tín dụng nặng lãi,… và không đáp ứng kịp thời vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mạng lưới tiếp cận thông tin giữa ngân hàng và người đi vay chưa được nắm rõ. Tư duy bao cấp trong hoạt động tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn vẫn còn tồn tại làm tăng chi phí hoạt động của các định chế tài chính, đồng thời tăng tính ỷ lại và bóp méo thị trường tài chính nông thôn.
Chưa có chiến lược phát triển nông thôn phù hợp, quy hoạch vùng sản phẩm nông nghiệp chưa rõ ràng, thị trường tiêu thụ chưa mở rộng và ổn định, nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ cho nông nghiệp kịp thời. Việc hỗ trợ kỹ thuật cho phát triển trồng trọt, chăn nuôi chưa đồng bộ, việc bao tiêu sản phẩm chưa có kế hoạch, quy hoạch cụ thể, chắc chắn làm hạn chế mở rộng phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dẫn đến hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn.
Vai Trò của tín dụng trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn
3.1. Góp phần thúc đẩy hình thành thị trường tài chính nông thôn.
Thị trường tài chính ở nông thôn là nơi giải quyết quan hệ cung cầu về vốn, nhằm thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế nông thôn. Thị trường tài chính nông thôn bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Trong thị trường này, ngân hàng nông nghiệp có vai trò vô cùng quan trọng, vì nó có hệ thống đến tận huyện. Mặt khác từng xã, khu vực còn có quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Chính hoạt động tín dụng đã hình thành và đẩy nhanh sự phát triển của thị trường tài chính, tín dụng ở nông thôn.
Đầu tư vốn phát triển NN-NT bao gồm nhiều định chế tài chính khác nhau , bao gồm cả các định chế tài chính thức , bán chính thức và không chính thức. Tuy nhiên, đóng vai trò chủ lực hiện vẫn thuộc về NHNN & PTNN, NHCSXH Việt Nam và các năm gần đây đang có sự phát triển mạnh của các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước. Các tư liệu về dư nợ tín dụng từ các tổ chức này một năm gần đây được thể hiện ở bảng 2
BẢNG 2: Cho vay NN-NT của các ngân hàng có vốn của Nhà Nước
chỉ tiêu
1999
2003
2008
1/ Tổng dư nợ( tỷ đồng)
33464
83742
723565
NHNN&PTNN
23150
63679
294697
Ngân hàng công thương
2683
4170
120752
Ngân hàng ngoại thương
821
2554
112793
Ngân hàng đầu tư và phát triển
2974
5080
160983
Ngân hàng chính sách xã hội
3830
8251
32340
2/ Tỷ trọng dư nợ (%)
100
100
100
NHNN&PTNN
69.2
76.0
40.7
Ngân hàng công thương
8.0
5.0
16.7
Ngân hàng ngoại thương
2.5
3.0
15.6
Ngân hàng đầu tư và phát triển
8.9
6.1
22.2
Ngân hàng chính sách xã hội
11.4
9.9
4.5
Nguồn : báo cáo thường niên của các ngân hàng
Các dữ liệu từ bảng 2 cho thấy , dự nợ tín dụng từ các tổ chức tín dụng chính thức cung ứng phần lớn nhu cầu vốn cho địa bàn NN-NT những năm qua có sự tăng trưởng rất mạnh . Bên cạnh đó , nguồn vốn cung ứng từ các tổ chức tài chính vi mô cho các dự án từng thôn , xã, hội hàng năm cũng tương đối lớn . Các nguồn vốn này thực sự đã tác động rất quan trọng đối với sự phát triển của khu vực NN-NT nước ta những năm qua. Tuy vậy khu vực NN-NT luôn trong tình trạng thiếu vốn , các định chế tài chính chính thức không đáp ứng được đầy đủ và kịp thời các nhu cầu của khu vực này.
Cuộc khảo sát đầu năm 2010 giữa bộ công thương với các doanh nghiệp, hầu hết đều kêu thiếu vốn:
Điều : cần khoảng 14820 tỷ đồng để thu mua 400000 tấn điều trong nước và nhập khẩu khoảng 250000 tấn điều thô
Cà phê: khoảng 500 tỷ đồng thu mua tạm trữ cà phê
Hồ tiêu, lương thực , thực phẩm cũng đang đặt ra yêu cầu phải đầu cơ hàng hóa, chờ giá cao mới bán ra thị trường để chống lỗ.
Thủy sản: với đà tăng của một loạt các sản phẩm đầu vào thiết yếu làm tăng giá thành và giá bán thủy sản khiến các các doanh nghiệp xuất khẩu cần phải tăng vốn để thu mua thủy sản…
3.2. Hoạt động tín dụng đã góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn, tư liệu sản xuất, khoa học công nghệ để phát triển kinh tế nông thôn.
Trong nông thôn hiện nay, số hộ dân khá đang giàu lên chiếm tỷ lệ ngày càng cao do họ có trình độ sản xuất kinh doanh, tiếp thu được khoa học kỹ thuật, họ có vốn là điều thiết yếu ban đầu cho quá trình sản xuất và nắm bắt nhanh nhạy thị trường, họ quyết định được sản xuất cái gì? sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào? để mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Ngược lại, có những hộ không có kinh nghiệm, kinh doanh không có hiệu quả dẫn đến lỗ, hoặc có ruộng đất quá ít so với nhu cầu của họ hoặc thiếu vốn cho quá trình sản xuất. Trong mọi trường hợp đồng vốn tín dụng của ngân hàng, đã giúp hộ có khả năng giải quyết được khó khăn trong sản xuất kinh doanh và góp phần tăng thu nhập cho hộ. Quy mô sản xuất của hộ càng lớn, thì càng có khả năng đứng vững hơn trong cạnh tranh, bởi lẽ khi có vốn, người nông dân có thể áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật để tăng năng suất, tăng sản lượng, tăng tỷ trọng hàng hoá và hạ giá thành sản phẩm. Trên cơ sở đó, họ có khả năng dễ dàng trong việc tích tụ và tập trung vốn.
3. 3. Tín dụng đã góp phần tận dụng khai thác mọi tiềm năng về đất đai, lao động và tài nguyên thiên nhiên.
Tiềm năng về phát triển ở nông thôn nước ta là rất lớn, nếu được Nhà nước quan tâm đúng mức với những chính sách vĩ mô thích hợp, đặc biệt là nếu có chính sách đầu tư tín dụng hợp lý, thì chắc chắn những khả năng tiềm tàng mà lâu nay chưa được sử dụng sẽ được động viên khai thác triệt để và phát huy hiệu quả. Sức lao động được giải phóng kết hợp với đất đai được giao quyền sử dụng lâu dài cho từng hộ gia đình sẽ đóng góp ngày càng nhiều hơn, phong phú hơn hàng hoá nông sản thực phẩm cho tiêu dùng và xuất khẩu của đất nước.
Minh chứng là sự phát triển nhanh của kinh tế trang trại sau khi quyết định 67/1999/QDD-TT
Chính sách đầu tư tín dụng
Trang trại phát triển sản xuất, kinh doanh được vay vốn tín dụng thương mại của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Việc vay vốn được thực hiện theo quy định tại Quyết định số 67/1999/QDD-TTg ngày 30 tháng 3 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ về “Một số chính sách tín dụng ngân hàng phát triển nông nghiệp và nông thôn”, chủ trang trại được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm tiền vay theo quy định tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
Kết quả phát triển kinh tế trang trại .
Theo tổng cục thống kê, vào năm 2000 có 57.069 đến năm 2009 cả nước có khoảng 150.000 trang trại với diện tích đất sử dụng khoảng 900.000 ha. Vốn bình quân cho vay một trang trại từ 200 triệu đến 300 triệu đồng, có trang trại vay đến 500 triệu đồng. Kinh tế trang trại phát triền nhanh cả về số lượng và chất lượng đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Các trang trại chuyên trồng cây nông nghiệp chiếm 55,3%, chăn nuôi gia súc, gia cầm chiếm 10,3%, lâm nghiệp chiếm 2,2%, nuôi trồng thuỷ sản chiếm 27,3% và sản xuất kinh doanh tổng hợp chiếm 4,9%.
Những mặt được của kinh tế trang trại thời gian qua có thể tựu trung ở một số điểm sau:
Thứ nhất: Kinh tế trang trại phát triển đã góp phần khai thác thêm diện tich lớn đất trống, đồi núi trọc, diện tích còn hoang hoá (khoảng 20-30 vạn ha) đưa vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nhất là ở các vùng trung du, miền núi và ven biền.
Thứ hai: Giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn, ngoài 30 vạn lao động của gia đình còn thuê thêm 10 vạn lao động thường xuyên và 30 triệu ngày công lao động thời vụ/năm.
Thứ ba: Hàng năm làm ra giá trị tổng sản lượng gần 12.000 tỷ đồng, trong đó 87% là sản phẩm hàng hoá.
3.4. Tín dụng đã góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho nông dân tiếp thu công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh.
Trong điều kiện hiện nay, đời sống nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu. Muốn cải thiện tình hình đó phải tăng cường đầu tư vốn phát triển nông thôn. Chính vì lẽ đó, vốn đầu tư của ngân hàng không những tham gia vào quá trình sản xuất bằng hình thức bổ sung vốn lưu động, mà còn là vốn đầu tư trung hạn và dài hạn nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến cho quá trình sản xuất. Các công trình đầu tư nhằm phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng đó là: công nghiệp chế biến nông sản phẩm, ngành cơ khí phục vụ nông nghiệp, dịch vụ “đầu vào”, “đầu ra”, phát triển các ngành nghề mới, các hệ thống tưới tiêu, công trình thuỷ lợi, hệ thống đường giao thông, mạng lưới điện... nhằm phục vụ phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Cùng với việc đầu tư xây dựng và cải tạo những công trình trên Nhà nước còn cần đầu tư xây dựng các công trình phục vụ cho hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ kỹ thuật để tạo ra những giống cây, con mới đưa vào sản xuất, từ đó tăng năng suất và đem lại hiệu quả kinh tế.
3.5. Tín dụng tạo điều kiện phát triển ngành nghề truyền thống, ngành nghề mới, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động trong nông thôn.
Chính việc xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng các xí nghiệp chế biến nông sản đã thu hút một số lượng lớn lao động dư thừa trong nông thôn, tạo việc làm cho họ. Đồng thời dựa vào lợi thế so sánh của nước ta với khu vực và thế giới, giữa các vùng khác nhau cần thiết phải duy trì và phát triển ngành nghề ở nông thôn. Kinh tế hàng hoá càng phát triển thì sức mạnh cạnh tranh ngày càng lộ rõ, tất yếu dẫn đến phân hoá giàu nghèo ở nông thôn, có hộ sẽ phát triển thêm về nông nghiệp, có hộ sẽ rời khỏi nông nghiệp làm nghề khác như tiểu thủ công nghiệp, các nghề truyền thống. Do đó các ngành nghề này sẽ được phục hồi và phát triển. Hiện nay luật khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành đã tạo luồng sinh khí mới cho các doanh nghiệp trong nứơc mạnh dạn đầu tư vào tất cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doamh, dịch vụ và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kilo36 .doc