Mục lục
Lời mở đầu 2
Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 6
1. Quan niệm về thương mại điện tử 6
2. Lợi ích của thương mại điện tử đối với các doanh nghiệp 8
3. Các điều kiện phát triển thương mại điện tử 14
3.1. Môi trường pháp lý và chính sách 14
3.2. Bối cảnh kinh tế - xã hội 14
3.3. Hạ tầng cơ sở nguồn nhân lực 15
3.4. Hạ tầng cơ sở kỹ thuật - công nghệ 16
4. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển thương mại điện tử của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập 17
4.1. Các nhân tố quốc tế 17
4.2. Các nhân tố trong nước 20
Chương II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 25
1. Mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp cho việc ứng dụng và phát triển thương mại điện tử 25
2. Thực trạng ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp Việt Nam 29
3. Đánh giá chung về thực trạng phát triển thương mại điện tử ở các doanh nghiệp Việt Nam 37
3.1. Những thành tựu đạt được 37
3.2. Những tồn tại cần quan tâm giải quyết khi phát triển thương mại điện tử ở các doanh nghiệp 41
Chương III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 45
1. Quan điểm 45
2. Mục tiêu 48
3. Giải pháp thúc đẩy phát triển thương mại điện tử ở các doanh nghiệp Việt Nam 50
Kết Luận 64
Tài liệu tham khảo 67
66 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7361 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển thương mại điện tử ở các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tuyến chiếm 9% trong tổng số các khoá đào tạo theo kết quả điều tra. Chất lượng đào tạo cũng được nâng lên một bước khi một số khoá học được đào tạo bằng tiếng Anh và có sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài.
Qua điều tra của Vụ TMĐT, Bộ Thương mại trên 200 tổ chức có cung cấp dịch vụ đào tạo công nghệ thông tin (CNTT) và TMĐT cho thấy các khoá đào tạo về CNTT và TMĐT ở nước ta chủ yếu được thực hiện dưới những hình thức sau: (1) Đào tạo chính quy dài hạn: 16%; (2) Đào tạo tập trung ngắn hạn: 33%; (3) Đào tạo theo đặt hàng (tại tổ chức, công ty đối tác): 37%. (4) Đào tạo trực tuyến: 9%. (5) Các hình thức khác: 5%. Nghiên cứu chi tiết các chương trình đào tạo này cho thấy sự vận dụng đa dạng những quan điểm đào tạo trên trong đào tạo ở nước ta.
Về hạ tầng viễn thông và Internet, kết quả điều tra cho thấy 100% doanh nghiệp có điện thoại, 100% doanh nghiệp có máy fax và tỉ lệ doanh nghiệp đã kết nối Internet là 92%. Trong số doanh nghiệp đã kết nối Internet, hình thức truy cập bằng ADSL chiếm 81,5%, đường truyền riêng chiếm 5,4% và hình thức truy cập bằng quay số chỉ còn 5,2%. Trong số 8% doanh nghiệp chưa kết nối Internet, 3,5% cho biết đã có kế hoạch kết nối trong năm tới.
Như vậy có thể khẳng định điều kiện hạ tầng tối thiểu cho ứng dụng thương mại điện tử đã được xác lập ở hầu hết các doanh nghiệp tại khu vực đô thị trên cả nước.
Ngoài ra, để đánh giá mức độ sẵn sàng cho thương mại điện tử trong doanh nghiệp chúng ta cũng có thể xem xét mức độ ứng dụng công nghệ thông tin và viễn thông ở mỗi doanh nghiệp như việc sử dụng các mạng nội bộ. Theo số liệu điều tra mới đây của Bộ Thương mại, có 73,78% doanh nghiệp đã lắp đặt mạng LAN và 4,03% doanh nghiệp có sử dụng mạng WAN. Những con số này phần nào phản ánh mức độ sẵn sàng cho thương mại điện tử trong doanh nghiệp khá cao. Thương mại điện tử có thể ứng dụng và phát triển ở mức độ cao phải được xuất phát từ mức độ tin học hoá cao trong nội bộ doanh nghiệp. Việc kết nối các mạng Intranet và Extranet của các doanh nghiệp. Đây thực sự vẫn còn là công nghệ mới với nhiều doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo báo cáo điều tra phản ánh việc các doanh nghiệp sử dụng hai mạng này trong nội bộ doanh nghiệp minh còn rất thấp, tương ứng là 8,01% doanh nghiệp sử dụng mạng Intranet và 1,21% doanh nghiệp sử dụng mạng Extranet. Công nghệ này hiện nay chỉ mới được ứng dụng tại các doanh nghiệp, tập đoàn lớn.
Bảng 2. Mức độ sử dụng mạng trong doanh nghiệp
Mạng được sử dụng
Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng
Mạng LAN
73,78%
Mạng WAN
4,03%
Mạng Intranet
8,01%
Mạng Extranet
1,21%
Nguồn: Báo cáo TMĐT Việt Nam 2006 (Bộ Thương mại)
2. Thực trạng ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp Việt Nam
Sự phát triển mạnh mẽ của TMĐT trong những năm qua gắn liền với thành tựu phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định của Việt Nam, năm 2006 kinh tế Việt Nam tăng trưởng cao với tốc độ tăng trưởng cao với tốc độ tăng GDP là 8,17%. Thương mại tiếp tục tăng trưởng mạnh với vai trò là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Năm 2006 đánh dấu sự hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu của Việt Nam, với việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đồng thời tổ chức thành công hội nghị diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), thể hiện cam kết tiếp tục mở cửa nền kinh tế với thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những cơ hội mới và những thách thức mới. Những cơ hội đó là: có một thị trường rộng lớn để có thể tiêu thụ sản phẩm được sản xuất ra trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa; thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài, các nguồn viện trợ phát triển của các nước và các định chế tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu Á (AD)…; có điều kiện tiếp nhận công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý thông qua các dự án đầu tư. Cùng với cơ hội và đồng hành với nó, nền kinh tế nước ta, các doanh nghiệp nước ta cũng phải đối đầu với các thách thức lớn. Đó là sự cạnh tranh quyết liệt trên cả ba cấp độ do hàng rào bị dỡ bỏ, do phải thực hiện chế độ đãi ngộ tối huệ quốc và đối xử quốc gia, nên các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp trên toàn thế giới cũng như trong nội địa. Bối cảnh đó đòi hỏi các doanh nghiệp nước ta phải quan tâm thực sự đến việc nâng cao khả năng cạnh tranh và TMĐT là một giải pháp quan trọng tích cực được nhiều doanh nghiệp Việt Nam quan tâm ứng dụng.
Sự quan tâm của doanh nghiệp đối với thương mại điện tử trước hết được thể hiện qua hoạt động giao dịch mua bán tại các sàn thương mại điện tử (e-Marketplace) sôi động hơn, dịch vụ kinh doanh trực tuyến phong phú và doanh thu tăng mạnh. Đồng thời, số lượng các website doanh nghiệp, đặc biệt là website mang tên miền Việt Nam (.vn) tăng nhanh, số lượng cán bộ từ các doanh nghiệp tham gia các khóa đào tạo kỹ năng thương mại điện tử lớn hơn so với năm trước. Đông đảo doanh nghiệp đã nhận thấy những lợi ích thiết thực của thương mại điện tử thông qua việc cắt giảm được chi phí giao dịch, tìm được nhiều bạn hàng mới từ thị trường trong nước và nước ngoài, số lượng khách hàng giao dịch qua thư điện tử nhiều hơn. Nhiều doanh nghiệp đã ký được hợp đồng với các đối tác thông qua sàn giao dịch thương mại điện tử.
Các kế hoạch và đề án ứng dụng thương mại điện tử phổ biến nhất là thiết kế, xây dựng website doanh nghiệp, tham gia sàn giao dịch thương mại điện tử, bổ sung, hoàn thiện các tính năng cho website, đào tạo thêm nguồn nhân lực hoặc thiết lập phòng ban riêng về thương mại điện tử.
Nếu xem việc doanh nghiệp có website là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh mức độ ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp thì số liệu khảo sát của Bộ Thương mại cho thấy một bức tranh tổng thể về mức độ ứng dụng TMĐT ở các doanh nghiệp Việt Nam tương đối khả quan. Trong tổng số 1.077 doanh nghiệp được điều tra, thì 31,3% đã có website và 35,1% cho biết sẽ tiến hành xây dựng website trong năm tới.
Khác với giai đoạn 2001 – 2005, năm 2006, các doanh nghiệp Việt Nam đã chú trọng hơn đến đầu tư phát triển các website theo chiều sâu. Số liệu điều tra mới đây của Bộ Thương mại cho thấy 62,2% doanh nghiệp cập nhật thông tin trên website hàng ngày, 13,7% doanh nghiệp cập nhật thông tin trên website hàng tuần. Thống kê này là một tín hiệu khả quan cho thấy doanh nghiệp đã bắt đầu chú trọng đến hiệu quả hoạt động thực chất của website, chứ không chỉ đơn thuần lập website theo phong trào.
Các mặt hàng được giới thiệu nhiều nhất trên các website bao gồm những sản phẩm điện tử, viễn thông, sách, văn hóa phẩm và quà tặng. Đây cũng là những mặt hàng có doanh số bán qua mạng cao. Thực trạng này hoàn toàn phù hợp với tình hình chung trên thế giới, sản phẩm nào có độ tiêu chuẩn hóa càng cao thì sẽ càng thích hợp cho việc mua bán qua mạng.
Bên cạnh việc thiết lập website, việc tham gia các sàn giao dịch thương mại điện tử là một tiêu chí quan trọng phản ánh mức độ ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp. Hơn nữa, trong bối cảnh nguồn nhân lực triển khai thương mại điện tử của doanh nghiệp còn ít và nguồn tài chính khiêm tốn, tham gia các sàn giao dịch thương mại điện tử là một giải pháp mang tính chiến lược và có hiệu quả cao.
Sự quan tâm của doanh nghiệp đối với phương thức kinh doanh TMĐT được thể hiện qua hoạt động giao dịch mua bán tại các sàn giao dịch TMĐT(e – Marketplace) trở nên nhộn nhịp và sôi động hơn. Số lượng doanh nghiệp tham gia làm thành viên của các sàn giao dịch TMĐT: doanh nghiệp với doanh nghiệp(B2B) và doanh nghiệp với người tiêu dùng(B2C) trong nước và nước ngoài tăng lên nhanh chóng.
Theo kết quả khảo sát mới đây của Bộ Thương mại có 7,9% doanh nghiệp đã tham gia các sàn giao dịch TMĐT, và 55% trong số đó tham gia nhiều hơn một sàn giao dịch.
Tính đến cuối năm 2006, có khoảng 30 sàn giao dịch TMĐT(B2B) của Việt Nam đang hoạt động và đạt được những thành tựu rất đáng quan tâm so với năm 2005 và các năm trước đó. Các sàn giao dịch TMĐT (B2B) không chỉ đăng tải các cơ hội kinh doanh mua bán hàng hóa và dịch vụ, mà các sàn đã cung cấp các hỗ trợ khác như đấu giá, đấu thầu trực tuyến, các bản tin điện tử…. Tuy nhiên, lợi ích mà các sàn TMĐT B2B chỉ mới dừng lại ở việc đăng tải các nhu cầu mua bán, mà chưa có một sàn giao dịch nào tận dụng tối đa các tiện ích của nó có thể mang lại như: hỗ trợ các doanh nghiệp tiến hành các giao dịch và đàm phán, ký kết hợp đồng, trợ giúp sau bán hàng. Trong số đó chỉ có một số sàn hoạt động có hiệu quả và thu hút được đông đảo các doanh nghiệp tham gia, còn có nhiều các sàn giao dịch phát triển rất chậm. Thực trạng đó phản ánh đúng phần nào những tồn tại của các sàn TMĐT B2B hiện nay đó là vấn đề chữ tín, độ tin cậy về thông tin các doanh nghiệp, thông tin các sản phẩm đã chưa được các sàn giao dịch quan tâm đúng mức. Ngoài ra có thể thấy hầu hết các sàn giao dịch này đều có mô hình kinh doanh tương tự nhau, chúng đều là các sàn có loại hình kinh doanh tổng hợp, chưa có sự chuyên doanh một loại hình sản phẩm và dịch vụ cụ thể.
Theo kết quả xếp hạng các sàn TMĐT B2B hoạt động có uy tín nhất của năm 2006 thì cổng TMĐT quốc gia (ECVN) được các doanh nghiệp đánh giá là sàn giao dịch hàng đầu của Việt Nam. Cổng TMĐT quốc gia được Bộ Thương mại chính thức khai trương hoạt động vào tháng 8-2005. ECVN sau 1 năm hoạt động, đã thể hiện được vai trò và tầm quan trọng của mình đối với cộng đồng các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có thêm một công cụ để nâng cao sức cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Đến cuối tháng 12 năm 2006 đã có trên 6.000 cơ hội kinh doanh và có hơn 1.500 thành viên tham gia cổng TMĐT quốc gia, trong đó có hơn 300 thành viên vàng là những doanh nghiệp xuất khẩu uy tín do Bộ Thương mại bình chọn và đặc biệt tham gia sàn còn có nhiều thành viên là các doanh nghiệp nước ngoài.
Thương mại điện tử giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng (B2C) cũng là một trong những hình thức TMĐT phổ biến. Tính đến cuối năm 2006, Việt Nam có khoảng 80 doanh nghiệp kinh doanh sàn TMĐT B2C, phần lớn các sàn này đều hoạt động theo dạng siêu thị điện tử tổng hợp kinh doanh nhiều mặt hàng trong đó chủ yếu là những mặt hàng: điện tử (thiết bị máy tính, điện thoại di động, đồ điện…), sách báo, văn phòng phẩm….
Trong năm 2006, số lượng hàng hóa giao dịch trên sàn B2C cũng tăng lên đáng kể, chất lượng phục vụ cũng có nhiều biến chuyển tích cực. Các doanh nghiệp đã chú trọng hơn về đầu tư xây dựng chiến lược kinh doanh quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp qua website. Đáng chú ý ở loại hình giao dịch TMĐT B2C BTSPlaza của trung tâm công nghệ và truyền thông BTS chỉ mới được đưa vào hoạt động cuối năm 2005, nhưng theo thống kê của BTSPlaza, đến tháng 9 năm 2006 sàn đã thu hút được 1.500 thành viên trong đó 500 doanh nghiệp đăng ký tham gia hoạt động giao dịch. Tăng trưởng bình quân từ hoạt động bán hàng trực tuyến đạt 133 triệu đồng/tháng.
Bảng 3. Danh sách các sàn giao dịch TMĐT được nhiều doanh nghiệp tham gia
Sàn trong nước
Sàn nước ngoài
www.ecvn.gov.vn
www.alibaba.com
www.vnemart.com
www.logistics.com
www.thuonghieuviet.com
www.amazon.com
www.vietco.com
www.ebay.com
www.golict.com
www.chodientu.vn
www.btspalaza.com
www.gophatdat.com
www.vietnamfood.com.vn
Nguồn: Báo cáo TMĐT Việt Nam 2006 (Bộ Thương mại)
Theo báo cáo TMĐT mới đây của Bộ Thương mại về việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý doanh nghiệp chỉ ra tỉ lệ doanh nghiệp sử dụng các phần mềm quản trị ngày càng tăng. Đặc biệt, các giải pháp được nhiều doanh nghiệp quan tâm sử dụng và đã thu được những kết quả đáng quan tâm là phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu khách hàng (CRM) và phần mềm quản lý nguồn lực doanh nghiệp (ERP). Việc kết nối với các đối tác cũng đã được nhiều doanh nghiệp quan tâm, 12,8% doanh nghiệp cho biết họ đã có cơ sở dữ liệu kết nối trực tiếp với các đối tác của mình.
Ngoài website, ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp còn có thể được tiến hành qua nhiều phương tiện khác. Năm 2006 cũng ghi nhận việc doanh nghiệp sử dụng linh hoạt các phương tiện điện tử khác nhau như thư điện tử, fax, điện thoại để thực hiện giao dịch thương mại. 78,9% doanh nghiệp đã cho phép các khách hàng đặt hàng bằng các phương tiện điện tử.
Bảng 4. Các phương thức đặt hàng qua phương tiện điện tử
Phương tiện điện tử
Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng
Website
22,2%
Thư điện tử
34,9%
Fax
24,2%
Điện thoại
29,3%
Nguồn: Báo cáo TMĐT Việt Nam 2006 (Bộ Thương mại)
Những số liệu trên về phương thức đặt hàng qua các phương tiện điện tử phần nào phản ánh tốc độ phát triển theo chiều sâu của ứng dụng thương mại điện tử. Ngoài hai phương tiện fax và điện thoại đã được nhiều doanh nghiệp sử dụng từ lâu, website và thư điện tử là những phương tiện điện tử mới mà doanh nghiệp sử dụng nhiều do chi phí thấp nhưng hiệu quả cao. Đáng chú ý, thư điện tử đã trở thành phương tiện được sử dụng nhiều nhất trong giao dịch thương mại. Cũng theo khảo sát mới đây của Bộ Thương mại về việc giao dịch với đối tác và khách hàng bằng các phương tiện điện tử cho thấy đã có tới 81,5% doanh nghiệp sử dụng thư điện tử (e-mail) thường xuyên trong giao dịch với đối tác. Cũng đã thấy xuất hiện một số các doanh nghiệp sử dụng chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) trong giao dịch.
So sánh về hình thức giao hàng của các doanh nghiệp trong năm 2006 so với các năm trước đó cho thấy, hình thức giao hàng vẫn không thay đổi nhiều. Với các đơn vị đặt hàng điện tử, tùy theo loại hình hàng hóa mà doanh nghiệp có thể giao hàng trực tuyến, lấy hàng từ đại lý, chuyển hàng qua đội ngũ giao nhận của doanh nghiệp hoặc qua bưu điện. Hiện nay, ở Việt Nam vẫn chưa có đội ngũ giao hàng chuyên nghiệp cho các hợp đồng trực tuyến, do đó các đơn đặt hàng từ xa, doanh nghiệp thường phải sử dụng dịch vụ bưu điện để giao hàng cho khách. Theo báo cáo điều tra của Bộ Thương mại, phương thức chuyển hàng qua bưu điện chiếm 17,1% trong tổng số giao dịch của doanh nghiệp. Với hàng hóa số hóa, có 8,9% được giao hàng trực tuyến.
Thương mại điện tử không thể phát triển toàn diện và mang lại hiệu quả cao nhất khi không có phương thức thanh toán điện tử. Do đó, thanh toán bằng các phương tiện điện tử cũng là một vấn đề được các doanh nghiệp rất quan tâm.
Bảng 5. Các phương thức thanh toán của doanh nghiệp
Phương tiện thanh toán
Tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng
Tiền mặt khi giao hàng
75,0%
Chuyển tiền qua bưu điện
31,9%
Chuyển khoản qua ngân hàng
77,3%
Thanh toán bằng thẻ tín dụng
14,3%
Thanh toán trực tuyến
3,2%
Nguồn: Báo cáo TMĐT Việt Nam 2006 (Bộ Thương mại)
Theo số liệu từ bảng trên cho thấy các hình thức thanh toán cho các hợp đồng điện tử đã được các doanh nghiệp áp dụng rất đa dạng. Tỷ lệ doanh nghiệp cho phép khách hàng thanh toán trực tuyến còn rất thấp chỉ chiếm 3,2%, tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng đã đạt 14,3%. Tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt và chuyển khoản qua ngân hàng tương ứng là 75,0% và 77,3% điều đó phản ánh thực tế là hệ thống ngân hàng Việt Nam còn chưa theo kịp đà phát triển chung của TMĐT.
Tóm lại, mức độ ứng dụng TMĐT của các doanh nghiệp trong năm 2006 đã có nhiều nét khởi sắc, nhưng nhìn chung các doanh nghiệp cũng chỉ mới dừng ở mức độ quảng bá thương hiệu, giới thiệu sản phẩm và trao đổi thông tin bằng các phương tiện điện tử. Ở mức độ cao hơn, việc giao dịch và ký kết hợp đồng bằng các công cụ điện tử cũng đã được một số doanh nghiệp ứng dụng, nhưng con số này chưa nhiều. Trong giao dịch với các đối tác nước ngoài, doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều hơn hình thức trao đổi bằng thư điện tử, tuy nhiên với giao dịch trong nước các doanh nghiệp vẫn có xu hướng sử dụng giấy tờ truyền thống. Đối với khách hàng là cá nhân, một số doanh nghiệp đã bán hàng qua mạng, thói quen mua hàng truyền thống của người Việt Nam chưa tạo cơ hội cho các dịch vụ này phát triển. Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp đánh giá vẫn cần thời gian đáng kể để thói quen tiêu dùng và tập quán kinh doanh trong xã hội có sự điều chỉnh tương ứng.
3. Đánh giá chung về thực trạng phát triển thương mại điện tử ở các doanh nghiệp Việt Nam
3.1. Những thành tựu đạt được
Năm 2006 có ý nghĩa đặc biệt đối với thương mại điện tử Việt Nam, là năm đầu tiên thương mại điện tử được pháp luật thừa nhận chính thức khi Luật Giao dịch điện tử, Luật Thương mại (sửa đổi), Bộ luật Dân sự (sửa đổi) và Nghị định Thương mại điện tử có hiệu lực. Năm 2006 cũng là năm đầu tiên triển khai Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010 theo Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg ngày 15 tháng 9 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ.
Có thể nhận thấy những thành tựu nổi bật của thương mại điện tử trong những năm trở lại đây tại Việt Nam như sau:
Tỷ lệ đầu tư cho lĩnh vực TMĐT của các doanh nghiệp đã có những thay đổi đáng kể trong năm 2006. Theo số liệu khảo sát mới đây của Bộ Thương mại, gần một nửa số các doanh nghiệp (48,3%) cho biết tỷ lệ đầu tư cho TMĐT dưới 5%, khoảng 38% doanh nghiệp có tỷ lệ đầu tư từ 5% đến 15%. Đáng chú ý là trong năm vừa qua đã có tới 13,6% doanh nghiệp có mức đầu tư trên 15%. Nếu như năm 2005 chỉ có khoảng 17,5% doanh nghiệp dành trên 5% tổng chi phí hoạt động thương niên để đầu tư cho TMĐT thì năm 2006 số doanh nghiệp này đã chiếm 51,7%. Cơ cấu đầu tư có xu hướng chuyển dịch về mức 5% - 15% là mức trung bình của khu vực.
Về doanh thu từ TMĐT của năm 2006 so với các năm trước, có tới 95,7% doanh nghiệp cho biết doanh thu từ TMĐT của họ tăng lên. Trong số 4,3% doanh nghiệp bị giảm doanh thu từ TMĐT, các doanh nghiệp này cho rằng sự giảm sút này là do các nguyên nhân về quản trị doanh nghiệp, các rủi ro từ an ninh, an toàn mạng…
Năm 2006 còn có một loạt các hình thức kinh doanh mới trên các phương tiện điện tử liên tục xuất hiện, đặc biệt là dịch vụ kinh doanh nội dung số. Mặc dù mới hình thành, nhưng các hoạt động trong lĩnh vực này đã được triển khai rộng khắp và đem lại doanh thu đáng kể. Kinh doanh các dịch vụ giá trị gia tăng qua thiết bị di động tăng nhanh, như dịch vụ cung cấp nhạc chuông, hình nền, tra cứu thông tin. Kinh doanh trong các lĩnh vực đào tạo trực tuyến, báo điện tử, cơ sở dữ liệu trực tuyến, trò chơi trực tuyến, trò chơi tương tác qua truyền hình, bình chọn kết quả thể thao, xem phim, nghe nhạc trực tuyến cũng tăng trưởng mạnh.
Cùng với lượng người sử dụng Internet và thẻ tín dụng tăng nhanh, số lượng người tiêu dùng mua sắm qua mạng tăng lên nhanh chóng, đặc biệt trong giới trẻ ở khu vực đô thị. Tâm lý và thói quen mua bán bắt đầu thay đổi từ phương thức truyền thống sang phương thức mới của thương mại điện tử.
Việc tiếp cận Internet qua kết nối băng thông rộng, đặc biệt là ADSL, ngày càng dễ dàng với chi phí hợp lý và yêu cầu cấp bách phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp khi Việt Nam thực sự bước vào sân chơi toàn cầu là hai yếu tố quan trọng thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm tới thương mại điện tử.
Kết quả điều tra cho thấy có tới 92% doanh nghiệp đã kết nối Internet, trong đó tỷ lệ kết nối băng thông rộng ADSL lên tới 81%. Số doanh nghiệp tham gia các sàn thương mại điện tử B2B của Việt Nam cũng như của nước ngoài tăng rất nhanh. Nhiều doanh nghiệp đã tìm được đối tác mới, hợp đồng mới qua các chợ “ảo” này. Việc sử dụng thư điện tử (email) trong giao dịch kinh doanh đã trở nên phổ biến. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng Internet cho mục đích mua bán hàng hoá và dịch vụ. Trong năm 2006 hình thức giao dịch thương mại điện tử B2B phát triển nhanh. Đây là tín hiệu rất lạc quan so với bức tranh thương mại điện tử ở Việt Nam năm 2005 và các năm trước đó.
Theo kết quả điều tra của Bộ Thương mại với 1.077 doanh nghiệp trên toàn quốc, nhận thức xã hội về thương mại điện tử hiện đang được doanh nghiệp đánh giá là trở ngại hàng đầu cho sự phát triển của thương mại điện tử tại Việt Nam. Đánh giá này đồng thời cũng cho thấy doanh nghiệp đã bắt đầu ý thức được tầm quan trọng của nhân tố con người và xã hội khi bắt tay vào triển khai thương mại điện tử. Tuy nhiên, thay đổi nhận thức xã hội về một phương thức sản xuất kinh doanh mới là một quá trình lâu dài và phức tạp, đòi hỏi sự tham gia của mọi thành phần từ các cơ quan nhà nước, phương tiện truyền thông, tổ chức xã hội cho đến bản thân doanh nghiệp và người tiêu dùng. Sự thay đổi nhận thức của các nhóm đối tượng khác nhau có thể diễn ra với nhịp độ khác nhau, nhưng nhìn chung nhận thức xã hội về thương mại điện tử trong năm 2006 đã có nhiều chuyển biến tích cực so với các năm trước.
Nhà nước cũng phải thay đổi để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia thông qua quyết tâm hiện đại hoá nền hành chính, xây dựng chính phủ điện tử. Các cơ quan nhà nước trong thời gian qua đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giao tiếp với doanh nghiệp và công dân. Hầu hết các Bộ ngành và địa phương đã có website, trên đó cung cấp nhiều thông tin đa dạng và cần thiết cho doanh nghiệp. Một số cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương đã bắt đầu cung cấp trực tuyến dịch vụ công ở mức đơn giản như cấp đăng ký kinh doanh điện tử, khai hải quan điện tử, đấu thầu mua sắm công, cấp chứng nhận xuất xứ điện tử.
Việc Chính phủ ban hành Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về thương mại điện tử ngày 9 tháng 6 năm 2006 đánh dấu một bước tiến lớn trong việc tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về thương mại điện tử. Nghị định này thừa nhận giá trị pháp lý của chứng từ điện tử trong các hoạt động liên quan tới thương mại. Đây là cơ sở để các doanh nghiệp và người tiêu dùng yên tâm tiến hành giao dịch thương mại điện tử, khuyến khích thương mại điện tử phát triển, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia, đồng thời cũng là căn cứ pháp lý để xét xử khi có tranh chấp liên quan đến hoạt động thương mại điện tử. Nghị định về thương mại điện tử là nghị định đầu tiên hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử và là nghị định thứ sáu hướng dẫn Luật Thương mại (sửa đổi) được ban hành.
Khái quát lại những thành tựu đã đạt được của TMĐT Việt Nam trong năm 2006 có thể nói: thương mại điện tử ở Việt Nam đã bước sang giai đoạn mới và phát triển trên tất cả mọi khía cạnh từ chính sách, luật pháp, giao dịch kinh doanh của doanh nghiệp và người tiêu dùng cũng như sự hỗ trợ đa dạng của các cơ quan nhà nước. Điều này hứa hẹn trong những năm tới, thương mại điện tử ở Việt Nam có thể có những bước tiến nhảy vọt, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế thương mại chung của cả nước.
3.2. Những tồn tại cần quan tâm giải quyết khi phát triển thương mại điện tử ở các doanh nghiệp
Những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc phát triển phương thức kinh doanh TMĐT ở Việt Nam. Bằng việc ban hành các văn bản pháp lý để hướng dẫn và quản lý việc áp dụng phương thức kinh doanh TMĐT, Nhà nước đã tạo dựng được một môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển TMĐT tại các doanh nghiệp trên phạm vi cả nước.
Việc Chính phủ ban hành Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về thương mại điện tử ngày 9 tháng 6 năm 2006 đánh dấu một bước tiến lớn trong việc tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về thương mại điện tử. Nghị định này thừa nhận giá trị pháp lý của chứng từ điện tử trong các hoạt động liên quan tới thương mại. Đây là cơ sở để các doanh nghiệp và người tiêu dùng yên tâm tiến hành giao dịch thương mại điện tử, khuyến khích thương mại điện tử phát triển, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia, đồng thời cũng là căn cứ pháp lý để xét xử khi có tranh chấp liên quan đến hoạt động thương mại điện tử. Nghị định về thương mại điện tử là nghị định đầu tiên hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử và là nghị định thứ sáu hướng dẫn Luật Thương mại (sửa đổi) được ban hành.
Mặc dù vậy, nhiều tồn tại, bức xúc vẫn cần phải được quan tâm giải quyết trong việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển TMĐT ở các doanh nghiệp. Cụ thể là:
Việc ban hành các văn bản thi hành luật Giao dịch điện tử diễn ra còn chậm. Nhiều Bộ ngành đã rất cố gắng trong việc xây dựng các nghị định khác hướng dẫn thi hành Luật Giao dịch điện tử như Nghị định về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số, Nghị định về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính, Nghị định về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, đến cuối năm 2006 chưa có nghị định nào trong số những nghị định này được ban hành.
Việc rà soát các văn bản pháp luật liên quan tới thương mại điện tử chưa được tiến hành. Một số quy định bất hợp lý cho thương mại điện tử đã được doanh nghiệp nhắc tới từ những năm trước vẫn chưa được khắc phục. Những quy định về cấp phép thành lập website hay mua bán tên miền chưa phù hợp với thực tiễn.
Cho đến hiện nay, nhận thức của các doanh nghiệp về sự cần thiết và hiệu quả của việc áp dụng phương thức kinh doanh TMĐT chưa đầy đủ. Phần lớn các doanh nghiệp mới nghe nói đến TMĐT nhưng chưa biết lợi ích và các điều kiện tham gia TMĐT.
Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đều rất thiếu cán bộ có tay nghề đáp ứng được nhu cầu của công nghệ như: Việc nối mạng và sử dụng mạng cơ sở; kiến thức, kỹ năng nhận và xử lý thông tin; ngôn ngữ trên mạng; khả năng tài chính để kinh doanh và sử dụng mạng. Do vậy, một số doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích của phương thức kinh doanh TMĐT nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 425.doc