Năm 2008, Việt Nam xuất khẩu được khoảng 62.7 tỷ USD, trong đó khoảng 37% giá trị xuất khẩu là hàng công nghiệp nặng và khoáng sản, 39.8% là hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, 22,6% là hàng nông, lâm, thủy sản. Trong khi đó cùng năm, giá trị nhập khẩu ước đạt 80,7 tỷ USD, trong đó ước khoảng 30,2% giá trị nhập khẩu là máy móc, thiết bị, dụng cụ các loại, 63,7% là nguyên, vật liệu, chỉ có 6,1% là hàng tiêu dùng.
Do sức tiêu thụ hàng hoá trên thị trường thế giới thu hẹp, giá cả của nhiều loại hàng hoá giảm mạnh nên kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt gần 41,4 tỷ USD, giảm 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Những tháng cuối năm tình hình đã được cải thiện rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 11 đạt gần 4,7 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 12 đạt mức cao nhất trong năm với 5,25 tỷ USD, tăng 12% so với tháng trước và tăng 12,5% so với tháng 12 năm trước, chủ yếu do hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng, trong đó hàng dệt may tăng 90 triệu USD, gạo tăng 80 triệu USD; giày dép tăng 77 triệu USD; cà phê tăng 67 triệu USD; dầu thô tăng 33 triệu USD. Tính chung quý IV năm 2009, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu tăng 7,1% so với quý IV năm 2008.
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1737 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển xuất khẩu Việt Nam trong giai đoạn đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại chưa thể cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường thế giới nên nguy cơ tồn đọng hàng hóa, xuất khẩu với giá thấp hoặc xuất khẩu sang nước trung gian là rất nhiều, do đó làm giảm thu nhập của người lao động, nếu tình trạng thị trường diễn biến phức tạp hàng hóa không tiêu thụ được có thể làm cho người lao động thất nghiệp, và dẫn đến nhiều hệ lụy khác diễn ra như : cờ bạc, trộm cắp...Mặt khác thúc đẩy xuất khẩu cũng đồng nghĩa với việc làm ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái.Ngành công nghiệp phát triển, các nhà máy mọc nên như nấm. Mặt khác công nghệ xử lý rác thải của các quốc gia đang và chậm phát triển nên nguy cơ ô nhiễm môi trường là rất cao. Các quốc gia này lại thường xuất khẩu nhiều tài nguyên thiên nhiên và nguyên liệu thô: Than đá, dầu thô, gỗ... nếu khai thác bừa bãi không có quy hoạch cụ thể thì nguy cơ cạn kiệt tài nguyên ngày một gia tăng và môi trường ngày càng bị hủy hoại, do hầu hết các nguồn tài nguyên đều không có khả năng tái tạo do khai thác quá mức.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới
2.1 Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1990
Về lương thực, thực phẩm, từ chỗ thiếu ăn triền miên (năm 1988, năm ta phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo), đến năm 1990, chúng ta đã vươn lên đáp ứng nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống nhân dân và thay đổi cán cân xuất - nhập khẩu. Đó là kết quả tổng hợp của việc phát triển sản xuất, thực hiện chính sách khoán trong nông nghiệp, xóa bỏ chế độ bao cấp, tự do lưu thông và điều hòa cung cầu lương thực thực phẩm trên phạm vi cả nước. Sản lượng lương thực năm 1988 đạt 19,50 triệu tấn (vượt năm 1987 hơn 2 triệu tấn) và năm 1989 đạt 21,40 triệu tấn. Hàng hóa trên thị trường, nhất là hàng tiêu dùng, dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối thuận lợi, trong đó nguồn hàng sản xuất trong nước tuy chưa đạt kế hoạch vẫn tăng hơn trước và có tiến bộ về mẫu mã. Các cơ sở sản xuất gắn chặt với nhu cầu thị trường, phần bao cấp của Nhà nước về vốn, giá vật tư, tiền lương... giảm đáng kể. Đó là kết quả của chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đối mới nhiều chính sách về sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Kinh tế đối ngoại phát triển mạnh, mở rộng hơn trước về quy mô, hình thức và góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Từ năm 1986 đến năm 1990, hàng xuất khẩu tăng gấp 3 lẩn (từ 439 triệu rúp và 884 triệu đô la, lên 1019 triệu rúp và 1170 triệu đô la). Từ năm 1989, sản xuất của ta tăng thêm các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn như gạo, dầu thô và một số mặt hàng mới khác. Năm 1989, Việt Nam xuất 1,5 triệu tấn gạo; nhập khẩu giảm đáng kể, tiến gần đến mức cân bằng giữa xuất và nhập.
Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam từ 1986- 1990
Năm
ĐVT
Tổng KNXK
Kim ngạch xuất khẩu
Kim ngạch nhập khẩu
1985
Triệu USD
25559
6985
18574
1990
51564
24040
27524
2.2 Giai đoạn từ 1990 đến nay.
Đến giữa năm 2007, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với 224 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đã ký hơn 350 hiệp định hợp tác phát triển song phương, 87 hiệp định thương mại, 51 hiệp định thúc đẩy và bảo hộ đầu tư, 40 hiệp định tránh đánh thuế hai lần, 81 thoả thuận về đối xử tối huệ quốc. Đỉnh cao về hợp tác kinh tế song phương là việc ký hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản, còn về hợp tác kinh tế đa phương là việc ký hiệp định gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới với tiêu chuẩn “WTO Plus”, nghĩa là chấp nhận các đòi hỏi về tự do hóa thương mại (hàng hóa và dịch vụ), đầu tư, mua sắm của chính phủ cao hơn so với mức độ quy định trong các văn kiện có hiệu lực đang áp dụng của WTO. Từ đây xuất khẩu của việt nam có nhiều chuyển biến:
+ Quy mô và tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu đã được mở rộng và tăng trưởng ở mức độ khá cao
+ Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu đã có những chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần xuất khẩu hàng thô. Nhiều mặt hàng xuất khẩu đã mở rộng được quy mô sản xuất, nâng cao giá trị xuất khẩu như dệt may, giày dép, thủy sản, gạo…nhiều mặt hàng mới có tốc độ tăng trưởng cao đang và sẽ là những hạt nhân quan trọng trong cơ cấu xuất khẩu hàng hóa của việt nam trong những năm tới đây như sản phẩm gỗ, điện tử và linh kiện máy tính….
+ Công tác phát triển thị trường xuất khẩu đạt được nhiều thành tựu quan trọng, vừa mở ra những thị trường mới, vừa thâm nhập và khai thác tốt hơn những thị trường đang có
+ Các chủ thể tham gia xuất nhập khẩu không ngừng được mở rộng, đa dạng hóa và hoạt động ngày càng hiệu quả, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân và khu vựcdoanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Tổng mức lưu chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu
Năm
Tổng số
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cân đối
(XK - NK)
Triệu USD
1990
5156.4
2404.0
2752.4
-348.4
1991
4425.2
2087.1
2338.1
-251.0
1992
5121.5
2580.7
2540.8
39.9
1993
6909.1
2985.2
3923.9
-938.7
1994
9880.1
4054.3
5825.8
-1771.5
1995
13604.3
5448.9
8155.4
-2706.5
1996
18399.4
7255.8
11143.6
-3887.8
1997
20777.3
9185.0
11592.3
-2407.3
1998
20859.9
9360.3
11499.6
-2139.3
1999
23283.5
11541.4
11742.1
-200.7
2000
30119.2
14482.7
15636.5
-1153.8
2001
31247.1
15029.2
16217.9
-1188.7
2002
36451.7
16706.1
19745.6
-3039.5
2003
45405.1
20149.3
25255.8
-5106.5
2004
58453.8
26485.0
31968.8
-5483.8
2005
69208.2
32447.1
36761.1
-4314.0
2006
84717.3
39826.2
44891.1
-5064.9
2007
111326.1
48561.4
62764.7
-14203.3
2008
143398.9
62685.1
80713.8
-18028.7
Sơ bộ 2009
127045.1
57096.3
69948.8
-12852.5
Nguồn: Tổng cục thống kê
Từ năm 1990 trở lại đây, quy mô và tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu đã được mở rộng và tăng trưởng ở mức độ khá cao. Tổng mức giá trị xuất khẩu vẫn tăng đều qua các năm, nhưng do tổng giá trị nhập khẩu cũng tăng nhanh nên nước ta vẫn là nước nhập siêu. Tuy nhiên, cơ cấu xuất khẩu lại có sự chuyển biến tích cực: nhóm nông- lâm- thủy sản có tỷ trogj giảm tương đối, nhóm cong nghiệp có tỷ trọng ngày càng tăng, thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng…
Về thị trường xuất khẩu trong giai đoạn 2001-2005:
* Khu vực thị trường châu Á đã giảm dần tỷ trọng từ 57,3% năm 2001 xuống 50,5% năm 2005 song vẫn chiếm ưu thế trong xuất khẩu hàng hóa việt nam.
* Khu vực thị trưởng Châu Âu: Tỷ trọng xuất khẩu vào khu vực thị trường Châu Âu có xu hướng giảm nhẹ nhưng giá trị tuyệt đối năm sau vẫn tăng so với năm trước và đóng góp trên 20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
* Khu vực thị trường Châu Mỹ: Xuất khẩu vào thị trường Châu Mỹ tăng khá đột biến, chiểm tỷ trọng từ 8,9% năm 2001 lên 21,3% vào năm 2005; xuất khẩu vào thị trường hoa kỳ tăng mạnh từ 7,1% năm 2001 lên 20,2% năm 2005.
* Khu vực thị trường Châu Phi có tỷ trọng tăng từ 1,2% năm 2001 lên 2,1% năm 2005 và tăng được kim ngạch xuất khẩu gấp 4 lần trong giai đoạn này.
* Khu vực thị trường châu Đại Tây Dương tăng chậm và khá ổn định từ 7,1% năm 2001 lên 8% năm 2005.
Trong năm 2009, 7 thị trường xuất khẩu chính của hàng hoá của nước ta đã chiếm gần 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, gồm: Thị trường Mỹ ước tính đạt 11,2 tỷ USD, giảm 5,5% so với năm 2008; EU 9,3 tỷ USD, giảm 14,4%; ASEAN 8,5 tỷ USD, giảm 16,4%; Nhật Bản 6,2 tỷ USD, giảm 27,7%; Trung Quốc 4,8 tỷ USD, tăng 4,9%; Hàn Quốc 2,5 tỷ USD, tăng 15%; Ôx-trây-li-a 2,2 tỷ USD, giảm 48% (chủ yếu do giá dầu thô giảm). Đáng chú ý là thị trường châu Phi tuy kim ngạch ước tính mới đạt 1,1 tỷ USD nhưng đã phát triển nhanh, gấp 8 lần năm 2008.
Trị giá xuất khẩu hàng hóa theo bảng phân loại tiêu chuẩn ngoại thương
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
2008
TỔNG SỐ
20149.3
26485.0
32447.1
39826.2
48561.4
62685.1
Hàng thô hoặc mới sơ chế
9397.2
12554.1
16100.7
19226.8
21657.7
27698.7
Lương thực, thực phẩm và động vật sống
4432.0
5277.6
6345.7
7509.2
9191.7
12164.3
Đồ uống và thuốc lá
159.8
174.0
150.0
143.5
155.1
190.8
NVL thô, không dùng để ăn, trừ nhiên liệu
631.3
830.9
1229.1
1845.3
2199.8
2491.7
Nhiêu liệu, dầu mỡ nhờn và vật liệu liên quan
4151.1
6233.2
8358.0
9709.4
10061.0
12750.5
Dầu, mỡ, chất béo, sáp động, thực vật
23.0
38.4
17.9
19.4
50.1
101.4
Hàng chế biến hoặc đã tinh chế
10747.8
13927.6
16341.0
20592.0
26886.1
34625.5
Hoá chất và sản phẩm liên quan
339.9
421.3
536.0
791.9
1028.5
1449.9
Hàng chế biến phân loại theo nguyên liệu
1354.8
1889.6
2165.4
2926.3
3975.7
6398.4
Máy móc, phương tiện vận tải và phụ tùng
1792.8
2562.1
3145.1
4194.7
5601.2
7368.4
Hàng chế biến khác
7260.3
9054.6
10494.5
12679.1
16280.7
19408.8
Hàng hoá không thuộc các nhóm trên
4.3
3.3
5.4
7.4
17.6
360.9
Nguồn: Tổng cục thống kê
Theo bảng số liệu ta thấy các mặt hàng xuất khẩu hầu như đều tăng, kể cả hàng thô, mới sơ chế và hàng chế biến đã tinh chế; trong đó tăng nhanh nhất là trong những năm gần đây (giai đoạn 2007- 2008). Trong cơ cấu hàng thô hoặc mới sơ chế thì nhóm lương thực- thực phẩm- động vật sống và nhóm nhiên liệu- dầu mỡ- vật liệu liên quan có tỷ trọng lớn nhất và cũng có mức tăng cao nhất. Trong khi đó hàng đã qua chế biến ngày càng tăng nhanh, chiếm tỷ trọng cao so với hàng thô và chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu xuất khẩu. Ngày nay nước ta cũng chú trọng xuất khẩu cả dịch vụ.
Trị giá xuất khẩu hàng hóa phân theo nhóm hàng
Năm
Tổng
Hàng CN nặng và khoáng sản
Hàng CN nhẹ và TTCN
Hàng nông sản
Hàng lâm sản
Hàng thủy sản
Triệu USD
( % )
Triệu USD
( % )
Triệu USD
( % )
Triệu USD
( % )
Triệu USD
( % )
1995
5448.9
1377.7
25.3
1549.8
28.4
1745.8
32.0
153.9
2.8
621.4
11.4
1996
7255.9
2085.0
28.7
2101.0
29.0
2159.6
29.8
212.2
2.9
696.5
9.6
1997
9185.0
2574.0
28.0
3372.4
36.7
2231.4
24.3
225.2
2.5
782.0
8.5
1998
9360.3
2609.0
27.9
3427.6
36.6
2274.3
24.3
191.4
2.0
858.0
9.2
1999
11541.4
3609.5
31.3
4243.2
36.7
2545.9
22.1
169.2
1.5
973.6
8.4
2000
14482.7
5382.1
37.2
4903.1
33.9
2563.3
17.7
155.7
1.1
1478.5
10.1
2001
15029.2
5247.3
34.9
5368.3
35.7
2421.3
16.1
176.0
1.2
1816.4
12.1
2002
16706.1
5304.3
31.8
6785.7
40.6
2396.6
14.3
197.8
1.2
2021.7
12.1
2003
20149.3
6485.1
32.2
8597.3
42.7
2672.0
13.3
195.3
1.0
2199.6
10.8
2004
26485.0
9641.9
36.4
10870.8
41.0
3383.6
12.8
180.6
0.7
2408.1
9.1
2005
32447.1
11701.4
36.1
13288.0
41.0
4467.4
13.7
252.5
0.8
2732.5
8.4
2006
39826.2
14428.6
36.2
16382.4
41.2
5352.4
13.4
297.6
0.8
3358.0
8.4
2007
48561.4
16646.7
34.4
20693.6
42.6
7032.8
14.5
408.4
0.8
3763.4
7.7
2008
62685.1
23209.4
37.0
24896.4
39.8
9239.6
14.7
468.7
0.7
4510.1
7.2
Sơ bộ 2009
57096.3
16800.0
29.4
24445.0
42.8
9000.0
15.8
9000.0
15.8
4251.3
7.4
Nguồn: Tổng cục thống kê
Từ năm 1995 trở lại đây, cơ cấu xuất khẩu nhóm hàng nông- lâm- thủy sản có tỷ trọng giảm tương đối, trong khi tỷ trọng hàng công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng. Tuy vậy, xét về tổng trị giá xuất khẩu của các mặt hàng trên đều tăng.
Kết quả xuất khẩu nước ta trong những năm gần đây:
Năm 2008, Việt Nam xuất khẩu được khoảng 62.7 tỷ USD, trong đó khoảng 37% giá trị xuất khẩu là hàng công nghiệp nặng và khoáng sản, 39.8% là hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, 22,6% là hàng nông, lâm, thủy sản. Trong khi đó cùng năm, giá trị nhập khẩu ước đạt 80,7 tỷ USD, trong đó ước khoảng 30,2% giá trị nhập khẩu là máy móc, thiết bị, dụng cụ các loại, 63,7% là nguyên, vật liệu, chỉ có 6,1% là hàng tiêu dùng.
Do sức tiêu thụ hàng hoá trên thị trường thế giới thu hẹp, giá cả của nhiều loại hàng hoá giảm mạnh nên kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt gần 41,4 tỷ USD, giảm 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Những tháng cuối năm tình hình đã được cải thiện rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 11 đạt gần 4,7 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 12 đạt mức cao nhất trong năm với 5,25 tỷ USD, tăng 12% so với tháng trước và tăng 12,5% so với tháng 12 năm trước, chủ yếu do hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng, trong đó hàng dệt may tăng 90 triệu USD, gạo tăng 80 triệu USD; giày dép tăng 77 triệu USD; cà phê tăng 67 triệu USD; dầu thô tăng 33 triệu USD. Tính chung quý IV năm 2009, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu tăng 7,1% so với quý IV năm 2008.
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2009 ước tính đạt 56,6 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2008. Trong đó: khu vực kinh tế trong nước đạt 26,7 tỷ USD, giảm 5,1%, đóng góp 23,5% mức giảm chung của xuất khẩu hàng hoá cả năm; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 29,9 tỷ USD, giảm 13,5%, đóng góp 76,5%. Nếu không kể dầu thô thì kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 2,2% so với năm 2008.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2009 ước tính đạt 9 tỷ USD, giảm 1,3% so với năm trước; dầu thô 6,2 tỷ USD (giảm 2,4% về lượng và giảm tới 40% về kim ngạch), chiếm tới 68% mức giảm chung của tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm; thủy sản đạt 4,2 tỷ USD, giảm 6,7%; giày dép đạt 4 tỷ USD, giảm 15,8%; gạo đạt 2,7 tỷ USD (tăng 25,4% về lượng và giảm 8% về kim ngạch); gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,6 tỷ USD, giảm 9,9%; cà phê đạt 1,7 tỷ USD (tăng 10,2% về lượng và giảm 19% về kim ngạch); than đá đạt 1,3 tỷ USD (tăng 29,9% về lượng và giảm 4,5% về kim ngạch).
Thị trường xuất khẩu một số hàng hoá chủ yếu năm 2009 như sau: Hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ đạt 4,9 tỷ USD, giảm 3% so với năm 2008; tiếp theo là EU đạt 1,7 tỷ USD, giảm 3,1%; Nhật Bản 930 triệu USD, tăng 12%. Thị trường chính của dầu thô vẫn là Ôx-trây-li-a với 1,5 tỷ USD, giảm 55%; Xin-ga-po 1 tỷ USD, giảm 37%; Ma-lai-xi-a 780 triệu USD, giảm 8%; Mỹ 430 triêụ USD, giảm 57%; Trung Quốc 420 triệu USD, giảm 30%. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang các đối tác chính trong năm 2009 đều giảm, trong đó EU đạt 1,1 tỷ USD, giảm 5,7 %; Mỹ 710 triệu USD, giảm 3,9%; Nhật Bản 760 triệu USD, giảm 8,4%. Sản phẩm giày, dép xuất khẩu sang EU năm 2009 ước tính đạt 1,9 tỷ USD, giảm 23,2%; Mỹ 1 tỷ USD, giảm 2%; Nhật Bản 120 triệu USD, giảm 10,5%.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 9/2010 ước tính đạt 6,1 tỷ USD, giảm 11% so với tháng trước và tăng 32,2% so với cùng kỳ năm 2009. Tính chung chín tháng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 51,5 tỷ USD, tăng 23,2% so với cùng kỳ năm trước (Nếu loại trừ xuất khẩu vàng và các sản phẩm vàng thì tăng 24,6%), bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 24,2 tỷ USD, tăng 19,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (gồm cả dầu thô) đạt 27,3 tỷ USD, tăng 26,5%.
Trong 9 tháng năm 2010, có 13 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (Dệt may 8 tỷ USD; dầu thô 3,7 tỷ USD; giày dép 3,6 tỷ USD; thủy sản 3,4 tỷ USD; đá quý, kim loại quý và sản phẩm 2,8 tỷ USD; gạo 2,6 tỷ USD; hàng điện tử, máy tính 2,5 tỷ USD; gỗ và sản phẩm gỗ 2,4 tỷ USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng 2,1 tỷ USD; cao su 1,4 tỷ USD; cà phê 1,3 tỷ USD; than đá 1,2 tỷ USD; phương tiện vận tải và phụ tùng 1,1 tỷ USD). Trong đó kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng chủ lực tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Hàng dệt may đạt kim ngạch lớn nhất với 8 tỷ USD, tăng 20,6%; giày dép đạt 3,6 tỷ USD, tăng 23,1%; thủy sản 3,4 tỷ USD, tăng 13%; gạo 2,6 tỷ USD, tăng 15,2%; hàng điện tử máy tính 2,5 tỷ USD, tăng 28,2%; gỗ và sản phẩm gỗ 2,4 tỷ USD, tăng 36,4%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng 2,1 tỷ USD, tăng 55,2%; cao su 1,4 tỷ USD, tăng 95,6%.
Tuy nhiên, một số mặt hàng giảm so với cùng kỳ năm trước là: Dầu thô đạt 3,7 tỷ USD, giảm 22,2% (lượng giảm 44,3%); cà phê đạt 1,3 tỷ USD, giảm 1,6%; sắn và sản phẩm của sắn đạt 384 triệu USD, giảm 19,1% (lượng giảm 54,1%). Một số mặt hàng do đơn giá bình quân tăng nên tuy giảm về lượng nhưng kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng so với cùng kỳ là: Xăng dầu đạt 862 triệu USD, tăng 22,1% (lượng giảm 10,5%); hạt tiêu đạt 335 triệu USD, tăng 26,8% (lượng giảm 8,5%).
Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu chín tháng năm nay có sự thay đổi ở một số nhóm hàng so với cùng kỳ năm trước. Tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 40,6% chín tháng năm 2009 lên 43% chín tháng năm 2010; nhóm hàng nông, lâm sản giảm từ 16,7% xuống 15,8%; nhóm hàng thủy sản giảm từ 7,3% xuống 6,7%; vàng và các sản phẩm vàng giảm từ 6,4% xuống 5,4%; nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản không biến động nhiều, từ 29% lên 29,1%.
Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch tám tháng năm 2010 ước tính đạt 9,1 tỷ USD, tăng 25,7% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là EU đạt 6,9 tỷ USD, tăng 12,5%; ASEAN đạt 6,8 tỷ USD, tăng 19,7%; Nhật Bản đạt 4,8 tỷ USD, tăng 24,4%; Trung Quốc đạt 4,1 tỷ USD, tăng 46,8%; Hàn Quốc đạt 1,7 tỷ USD, tăng 31,5%.
2.3 Một số vấn đề cơ bản đặt ra về xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ hiện nay
- Qui mô xuất khẩu vẫn còn nhỏ bé, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu của nước ta chỉ gần bằng ¼ kim ngạch xuất khẩu của malaysia, 1/3 của thái lan và 2/3 của Philippin; kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người còn thấp hơn, chỉ bằng ¼ của thái lan và 2/3 của philippin.
- Xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc và rất dễ bị tổn thương bởi các cú sốc từ bên ngoài như sự biến động giá trên thị trường thế giới hay sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới của nước ngoài
- Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu còn chưa hợp lý
- Khả năng chủ động nắm bắt những cơ hội thuận lợi để thâm nhập và khai thác các thị trường xuất khẩu còn hạn chế. Chưa tận dụng triệt để lợi ích từ các hiệp định thương mại song phương, đa phương và khu vực đã ký kết giữa việt nam và các đối tác để khai thác hết tiềm năng thị trường lớn như Hoa Kỳ, Eu và Trung Quốc
- Năng lực cạnh tranh còn yếu kém.
- Công tác mạng lưới đại diện, đạc biệt về thương mại. ở nước ngoài còn nhiều yếu kém, chưa thực sự hỗ trợ tốt cho hoạt động xuất khẩu, các chương trình XTTM nhỏ lẻ, rời rạc hiệu quả chưa cao.
- Nhập siêu ở mức cao và chưa có giải pháp kiềm chế hiệu quả, triệt để, đã ảnh hưởng tiêu cực đến một số chỉ tiêu kinh tế ví mô của nền kinh tế như cán cân thanh toán, dự trữ ngoại tệ, nguồn lực đầu tư...
Chương III: Các giải pháp phát triển xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới
3.1 Các quan điểm cơ bản phát triển xuất khẩu trong giai đoạn tới.
Phát triển xuất khẩu theo hướng “đa phương hóa và đa dạng hóa” các quan hệ kinh tế quốc tế. Nhà nước thống nhất quản lý ngoại thương bằng chính sách và pháp luật. Nhà nước có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế, ưu đãi các doanh nghiệp tham gia sản xuất và xuất khẩu hàng hóa dịch vụ.
* Quan điểm phát triển xuất khẩu đến 2020:
- Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC,…
- Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh mẽ những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, giảm mạnh xuất khẩu sảm phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hóa trong sản phẩm, nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao. Xây dựng các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhất là đối với hàng nông sản. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu tiến tới cân bằng xuất- nhập khẩu.
- Đẩy mạnh các lĩnh vực dịch vụ thu ngoại tệ: du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải, tài chính tiền tệ…
- Chủ động và thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới.
- Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương mại, thông tin thị trường bằng nhiều phương tiện và tài chính thích hợp. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia các hoạt động môi giới khai thác thị trường quốc tế.
3.1. Giải pháp về thị trường.
1. Mục tiêu của phát triển thị trường xuất khẩu là mở rộng và đa dạng hoá thị trường theo các quan điểm sau đây:
- Tích cực, chủ động tranh thủ mở rộng thị trường xuất khẩu.
- Đa phương và đa dạng hoá quan hệ với đối tác, phòng ngừa chấn động đột ngột.
- Mở rộng tối đa về diện trọng điểm là các thị trường có sức mua lớn, tiếp cận công nghệ nguồn.
- Tìm kiếm thị trường mới ở Mỹ Latinh và châu Phi.
2. Để thực hiện mục tiêu trên đây, phương hướng phát triển thị trường xuất khẩu của Việt Nam được xác định như sau:
* Thứ nhất: chủ động thâm nhập thị trường quốc tế. Đây là phương hướng cơ bản của hoạt động thúc đẩy phát triển thị trường xuất khẩu của nước ta.
* Thứ hai: đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối tác và các thị trường xuất khẩu của Việt Nam.
- Tăng cường mở rộng thị trường các nước phát triển như Mỹ,Nhật Bản.EU...
- Tiếp tục đẩy mạnh quan hệ buôn bán với các nước trong khu vực trên cơ sở tận dụng các lợi thế của Việt Nam và lợi ích của quá trình tự do hoá thương mại.
+ Lợi thế về vị trí địa lý và thị hiếu tiêu dùng với các nước gần kề biên giới với Việt Nam như Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, Lào.
+ Lợi thế quan hệ buôn bán truyền thống với Trung Quốc và cả cơ hội mà tự
do hoá thương mại đem lại trong khuôn khổ AFTA và trong tương lai của
khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc.
+ Cơ cấu xuất khẩu của nước ta với từng nước trong khu vực vẫn có thể bổ
sung cho nhau.
+ Lợi thế của nước nhập siêu trong quan hệ buôn bán với nhiều nước trong
khu vực như Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, ... với
tiêu chí cân bằng thương mại với từng nước Chính phủ Việt Nam có thể tăng
cường đàm phán ở cấp Nhà nước để các nước trong khu vực ký kết các hợp
đồng cấp Chính phủ cho nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực ở Việt Nam, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị
trường này.
- Mở rộng thị phần với các nước SNG và Đông Âu đồng thời tích cực tìm kiếm các thị trường xuất khẩu mới.
- Tìm kiếm các thị trường xuất khẩu mới ở mọi khu vực địa lý vừa có ý nghĩa thúc đẩy xuất khẩu vừa khắc phục được những rủi ro trong buôn bán quốc tế. Nhiều thị trường mới mở ra trong vài năm gần đây nhưng đã rất tốt như Australia, Newdiland. Hàng hoá của nước ta cũng đã xuất hiện trên các thị trường Trung Cận Đông, Nam Á, châu Phi và Mỹ Latinh nhưng kim ngạch còn rất nhỏ bé và chủ yếu xuất khẩu qua trung gian. Do đó, đối với các khu vực này, nhiều cơ hội thị trường vẫn còn tiềm ẩn, cần tiếp tục nghiên cứu và khai thác để đẩy mạnh xuất khẩu trong những năm tới.
*Thứ ba: đẩy mạnh phát triển thị trường xuất khẩu theo cả chiều rộng và chiều sâu. Theo phương hướng này, việc phát triển thị trường xuất khẩu theo chiều rộng tập trung vào tăng khối lượng xuất khẩu, giá trị gia tăng xuất khẩu, đồng thời mở rộng thị trường về mặt không gian và phạm vi địa lý của các hàng hoá dịch vụ xuất khẩu. Việc phát triển thị trường xuất khẩu theo chiều sâu cần tập trung vào nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ, đưa ra thị trường ngày càng nhiều chủng loại có giá trị gia tăng xuất khẩu cao nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Mặt khác, trên cùng không gian địa lý, từng thị trường xuất khẩu cần đẩy mạnh sự hình thành đồng bộ các loại thị trường xuất khẩu như các thị trường xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, vốn, sức lao động, các sản phẩm trí tuệ để bổ sung, hỗ trợ và tạo tiền đề cho nhau phát triển. Theo phương hướng này, phấn đấu sau năm 2010, bên cạnh các sản phẩm hữu hình của nền sản xuất truyền thống, có một tỷ trọng kim ngạch tương đối lớn của các sản phẩm “mềm” của nền sản xuất dựa vào tri thức, các sản phẩm “sạch” của Việt Nam trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam hàng năm.
* Thứ tư: mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu bao hàm cả phát triển thị trường xuất khẩu tại chỗ, xuất khẩu vào các khu chế xuất… nhằm điều hoà cung-cầu hàng hoá dịch vụ xuất khẩu, phân tán rủi ro khi thị trường thế giới bị chấn động đột ngột. Đồng thời, đây cũng là phương hướng khắc phục tư tưởng cực đoan, quá nhấn mạnh và dốc lực vào thị trường ngoài nhưng lại bỏ trống thị trường trong nước với trên 80 triệu dân và sức mua đang được nâng cao khá nhanh.
3.2 Giải pháp về nguồn hàng.
1. Đối với sản xuất :
Hiện nay, do diện tích thâm canh, nuôi trồng bắt đầu bị giới hạn, việc tăng quy mô sản xuất, nuôi trồng gặp khó khăn hoặc chi phí cao nên thời gian tới để tiếp tục nâng cao kim ngạch xuất khẩu cần tập trung khâu giống, phương pháp nuôi, trồng để nâng cao chất lượng sản phẩm và hàm lượng chế biến trên một đơn vị sản phẩm xuất khẩu, qua đó nâng cao giá trị xuất khẩu.
Đổi mới cơ cấu sản phẩm xuất khẩu từ các sản phẩm thô sang các sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng, giá trị tạo mới cao hơn.
Nâng cao chất lượng sản phẩm, trước mắt tập trung vào xử lý vấn đề đồng đều về chất lượng của sản phẩm xuất khẩu và đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn vệ sinh và các qui định về an toàn.
Tập trung vào khâu công nghệ sau thu hoạch, từng bước nâng cao năng lực chế biến.
Mở rộng quyền kinh doanh nhập khẩu nguyên vật liệu là đầu vào cho sản
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kttmvn_6536.doc