Lời mở đẩu
I. Lý luận chung về mõu thuẫn . 1
1. Khái quát chung về quy luật mâu thuẫn . 2
2. Nội dung của quy luật mâu thuẫn . 2
3. Một số loại mâu thuẫn . 6
4. í nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn . 8
II. KTTT và mâu thuẫn biện chứng trong nền KTTT ở nước ta. 9
1. Khái quát chung về KTTT. 9
2. KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. 10
3. Những mâu thuẫn phát sinh trong quỏ trỡnh chuyển sang KTTT ở Việt Nam. 15
III. Kết luận. 25
1. Kết luận. 25
2. Giải pháp cho nền KTTT ở Việt Nam hiện nay. 26
Tài liệu tham khảo
30
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2087 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng lại chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta, song khi chuyển sang xây dựng và phát triển kinh tế, chính mô hình đó đã tạo ra nhiều khuyết tật, nền kinh tế không có động lực, không có sức đua tranh, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của người lao động, của các chủ thể sản xuất- kinh doanh, sản xuất không gắn với nhu cầu, ý chí chủ quan đã lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực- sức mạnh nội sinh của bản thân nền kinh tế, đã làm cho nền kinh tế suy thoái thiếu hụt, hiệu quả thấp, nhiều mục tiêu của CNXH không thực hiện được.
Kinh tế hàng hóa, bắt đầu bằng kinh tế hàng hóa đơn giản, ra đời từ khi chế độ Cộng sản nguyên thủy tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung- tự cấp sang kinh tế hàng hóa là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Trong lịch sử của mình, vì thế của kinh tế hàng hóa cũng dần được đổi thay :từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh tế- xã hội không phổ biến, không hợp thơi trong xã hội Chiếm hữu nô lệ của những người thợ thủ công và nhân dân tự do, đến chỗ được thừa nhận trong xã hội Phong kiến, và đến CNTB thì kinh tế hàng hóa giản đơn không những được thừa nhận mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn đó là KTTT.
KTTT là giai đọan phát triển cao của kinh tế hàng hóa, cũng đã trải qua ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất, là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang KTTT. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn phát triển KTTT tự do. Đặc trưng quan trọng của giai đoạn này là sự phát triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do, Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế. Giai đọan thứ ba, là giai đoạn KTTT hiện đại. Đặc trưng của giai đoạn này là Nhà nước can thiệp vào KTTT và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. KTTT có những đặc trưng cơ bản như :phát triển kinh tế hàng hóa, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hóa sở hữu, phân phối do quan hệ cung cầu... đó là cơ chế hỗn hợp "có sự điều tiết vĩ mô" của Nhà nước để khắc phục những khuyết tật của nó.
Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hóa tự phát sẽ "hàng ngày hàng giờ đẻ ra CNTB" và sự phát triển của KTTT trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình thành và phát triển của CNTB, nhưng tuyệt nhiên, KTTT không phải là chế độ kinh tế- xã hội. KTTT là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Quá trình hình thành và phát triển KTTT là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội, phát triển khoa học- công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất kinh doanh. Sự phát triển của KTTT gắn liền với quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại, của khoa học- kỹ thuật, của lực lượng sản xuất.
Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật, tự cung- tự cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam, về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Phát triển trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số một đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn vậy phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là phát triển nền KTTT, cùng với nó là thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sự phát triển kinh tế xã hội nào rút cuộc cũng nhằm mục tiêu xã hội, nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng về lượng (tăng trưởng kinh tế) còn bao hàm cả sự thay đổi về chất (những biến đổi về mặt xã hội). Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của C.Mác là một thành tựu khoa học của loài người. Nó phác hoạ quy luật vận động tổng quát của nhân loại, và sự phát triển của xã hội loài người sẽ tiến tới Chủ nghĩa Cộng sản mà giai đoạn thấp của nó là CNXH. CNXH không đối lập với phát triển, với KTTT, mà là một nấc thang phát triển của loài người được đánh dấu bằng tiến bộ xã hội của sự phát triển. Nó là cách thức giải quyết các quan hệ xã hội, là một sự thiết lập một trật tự xã hội với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng nhân dân lao động đem lại cuộc sống hạnh phúc và giàu sang cho nhân dân lao động. Vì vậy, sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh, hạnh phúc của nhân dân lao động, vì sự hùng mạnh và giàu có của cả xã hộ, của toàn xã hội, của toàn dân tộc, là sự phát triển mang tính XHCN, là sự phát triển hiện đại. Nghĩa là, chúng ta phải phát triển nền KTTT định hướng XHCN.
b.Một số đặc điểm chung của nền KTTT ở Việt Nam.
Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch tập trung- hành chính, quan liêu- bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế nước ta trong hiện nay và tương lai. Đặc biệt, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, được Đại hội đại biểu toàn quốc của ĐCS Việt Nam lần thứ VII thông qua vào năm 1991 đã nêu lên những đặc trưng bản chất của nền KTTT và phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN.
Thứ nhất, nền KTTT định hướng XHCN mà nước ta xây dựng là nền KTTT hiện đại với tính chất xã hội hiện đại. Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa, KTTT, thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn KTTT hiện đại. Bởi vậy, chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hóa giản đơn và giai đoạn KTTT tự do mà đi thẳng vào phát triển KTTT hiện đại. Mặt khác, thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH, cho nên sự phát triển kinh tế- xã hội nước ta phải theo định hướng XHCN là cần thiết khách quan và cũng là nội dung yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh" vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Thứ hai, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng hóa, nền KTTT phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng, nền KTTT mà chúng ta sẽ xây dựng là nền KTTT hiện đại, cho nên cần có sự tham gia bởi "Bàn tay hữu hình" của nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời, chính nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của nền KTTT. Việc xây dựng kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa KTTT định hướng XHCN với KTTT TBCN. Tính định hướng XHCN của nền kinh tế ở nước ta đã quy định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, bởi lẽ, mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó. Kinh tế nhà nước tạo cơ sở cho chế độ xã hội mới- chế độ XHCN.
Thứ ba, nhà nước quản lý nền KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền KTTT hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhà nước ta là nhà nước "của dân, do dân và vì dân", nhà nước công nông, nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển nền KTTT hiện đại ở nước ta.
Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất- kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Điều đó có nghĩa là nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta vận động theo những quy luật nội tại của nền KTTT nói chung, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế. Việc quản lý Nhà nước nhằm hạn chế, khắc phục những "thất bại của thị trường", thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm được.
Vai trò quản lý của Nhà nước trong nền KTTT hết sức quan trọng. Sự quản lý của Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả, đặc biệt là bảo đảm sự công bằng và tiến bộ xã hội. Không có ai ngoài nhà nước lại có thể giảm bớt sự chênh lệch giữa giàu- nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các vùng của đất nước. Tuy vậy, cần phải nhấn mạnh rằng sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế sao cho tương hợp với thị trường.
Thứ năm, mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là nội dung quan trọng của nền KTTT ở nước ta. Quá trình phát triển của KTTT đi liền với xã hội hóa nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hóa trên cơ sở phát triển của KTTT là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của KTTT hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế với những khu vực hóa và toàn cầu hóa đang ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện nay. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển trong điều kiện của KTTT hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung- tự cấp mà phải mở của, hội nhập với nền kinh tế thế giới trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Thứ sáu, thúc đẩy tăng trương kinh tế đồng thời với việc bảo đảm công bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền KTTT ở nước ta. Phát triển trong công bằng được hiểu là những chính sách phát triển phải bảo đảm sự công bằng xã hội, là tạo cho mọi tầng lớp nhân dân đều có thể tham gia vào quá trình phát triển va được hưởng những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ họ bỏ ra, là giảm bớt chênh lệch giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư giữa các vùng. Khác với nhiều nước, chúng ta phát triển KTTT nhưng chủ trương bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, trong tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế ở nước ta. Mức độ bảo đảm công bằng xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển, khả năng và sức mạnh kinh tế của quốc gia.
Tóm lại, quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta phải là "Quá trình thực hiện dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỉ cương, xóa bỏ áp bức bất công tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc".
Từ những đặc trưng và sự phát triển đúng hướng của nền KTTT ở nước ta chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn:
* Nền kinh tế Việt Nam chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa toàn diện, khép kín sang một nền KTTT mới, theo định hướng XHCN. Công cuộc đổi mới kinh tế- xã hội được mở đầu từ Đại hội VI của ĐCS Việt Nam ( 1986)
- Năm 1991 Đại hội VII của Đảng nhận định "Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng nhưng nước ta vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội".
- Năm 1996 Đại hội đảng VIII nhận định "Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội, nhưng một số mặt còn chưa được củng cố vững chắc". Nền kinh tế Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao :tốc độ tăng GDP bình quân thời kỳ 1986- 1990 là 3,6%; 1991-1995 là 8,2%; 1996-2000 là 7%.
* Lạm phát được đẩy lùi từ 67,4% năm 1990 xuống 12,7% năm 1995, 0,1% năm 1999 và 0% năm 2000. Phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
* Điều kiện vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hóa không ngừng tiến bộ. Việt Nam từ một nước thiếu lương thực đã trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới.
* Quốc phòng và an ninh được đảm bảo, ổn định chính trị được giữ vững, các mối quan hệ kinh tế được mở rộng với nhiều nước trên thế giới, bộ mặt đất nước đã có những biến đổi to lớn trên mọi lĩnh vực.
Đại hội IX khẳng định :"Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN, đó là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN"
Chủ trương xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN thể hiện tư duy, quan niệm của đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ lên CNXH.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đại hội IX Đảng ta một lần nữa khẳng định "Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của cương lĩnh được thông qua tại đại hội VII của Đảng đồng thời giúp đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên CNXH ở nước ta. Chúng ta một lần nữa khẳng định :Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên CNXH định hướng cho mọi hoạt động của Đảng ta hiện nay và trong những thập kỉ tới .Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh".
Tuy vậy đi đôi với thành tựu là rất nhiều khó khăn đòi hỏi phải có phương hướng giải quyết đúng đắn, đặc biệt, lao động và việc làm đang là vấn đề gay gắt nổi cộm nhất hiện nay với tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị là 74% và tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn là 30% tỉ lệ lao động được đào tạo về chuyên môn kĩ thuật còn thấp trong tổng số lao động :theo kết quả điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/1999, công nhân kỹ thuật và nghiệp vụ chiếm 30,3%; lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp chiếm 36,8%; trình độ Cao đẳng và Đại học chiếm 31,6%; trên Đại học chiếm 1,3%.[ Kinh tế và phát triển số 42, tháng12/2000, tr19]. Từ năm 2001, khi Việt Nam áp dụng chuẩn hóa đói nghèo mới thì tỷ lệ đói nghèo sẽ còn khá hơn, khoảng 17% so với 11% chuẩn cũ. Hiện tại, mức tiêu dùng của dân cư thấp, tích lũy nội bộ của nền kinh tế mới đạt khoảng 25-27%GDP, còn tích lũy ròng chỉ đạt dưới 20% GDP. Trong khi đó kết cấu hạ tầng còn yếu kém, sản lượng điện bình quân đầu người mới chỉ đạt trên 340kwh, mật độ đường giao thông tính trên 1000 dân còn tháp xa so với các nước xung quanh. [Thời báo kinh tế Việt Nam, số 151, 18/12/2000]
Nguyên nhân phát sinh ra những khó khăn trên là trong nội bộ nền kinh tế của nước ta vẫn còn tồn tại nhiều mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng KTTT.
3. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình chuyển sang KTTT ở Việt Nam.
a. Mâu thuẫn giữa phát triển KTTT và mục tiêu xây dựng con người XHCN.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng CNXH trước hết phải có con người XHCN. Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lựu của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của CNXH. Từ một nước nông nghiệp, lạc hậu đi lên CNXH, chúng ta phải bắt đầu từ con người, lấy con người làm điểm xuất phát. Một trong những điều kiện đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng con người trong giai đoạn hiện nay là đời sống sinh hoạt vật chất. Nhưng nhu cầu về vật chất và tinh thần phong phú của con người chỉ có thể được thỏa mãn trong một nền kinh tế vững vàng, ổn định, phát triển cao, có tốc độ tăng trưởng nhanh. Việc tiến hành sự nghiệp trồng người hôm nay gắn bó một cách chặt chẽ với quá trình mở rộng, hoàn thiện KTTT kết hợp với mở cửa giao lưu quốc tế. Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định : "Giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục- đào tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người- yếu tố cở bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững".
KTTT là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua- bán, trao đổi hàng hóa- tiền tệ. Trong KTTT, các quan hệ hàng hóa- tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát trên nhiều lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và tiêu dùng. Do nảy sinh và hoạt động một cách khách quan trong những điều kiện lịch sử nhất định, KTTT phản ánh trình đọ văn minh, và sự phát triển của xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất , tăng trưởng kinh tế , thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên , KTTT cũng có những khuyết tật tự thân, đặc biệt là tính tự phát mù quáng, sự cạnh tranh lạnh lùng, dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ, ô nhiễm môi trường…
Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng đối với nước ta hiện nay, không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố KTTT. Việc xây dựng, củng cố, hoàn thiện cơ cế thị trường có sự quản lý cả Nhà nước theo định hướng XHCN cũng đồng nghĩa với việc tạo ra các điều kiện vật chất cơ bản để thực hiện chiến lược xây dựng phát triển con ngời cho tế kỷ XXI.
Trong những năm vừa qua, KTTT ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sôi động hơn, các hoạt động sản xuất , kinh doanh, dịch vụ phát triển hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi. Đây là những két quả đáng mừng, đáng được phát huy, nó thể hiện sự phát triển và vận độn đúng đắng các quy luật xã hội . Quá trình biện chứng đi lên CNXN từ khách quan đáng trở thành nhận thức chủ quan trên quy mô toàn xã hội .
Bên cạnh đó, có một khía cạnh khác cũng cần được đề cập đến :KTTT ở nước ta hiện nay không chỉ tạo ra điều kiện vật chất để xây dựng, phát huy nguồn lực con người, mà còn tạo ra môi trường xã hội thích hợp cho con người phát triển hài hòa, toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. KTTT tạo ra sự cạnh tranh, chạy đua quyết liệt. Điều đó buộc con người phải năng động, sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh nhẹn, có đầu óc quan sát, phân tích để thích nghi và hành động có hiệu quả, từ đó nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người, góp phần làm giảm đi sự chậm chạp và trì trệ vốn có của người lao động trong nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu từ ngàn đời ở con ngời Viêt Nam. KTTT tạo ra những điều kiện thích hợp để con người mở rộng các mối quan hệ, giao lưu buôn bán, từ đó hình thành các chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới theo tiêu chí thị trường như chữ tín trong chất lượng, chữ tín trong giao dịch,…
Tuy nhiên, cấn phải thấy rằng không phải cứ xây dựng được KTTT là những phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thành cho con người, có những lúc, những nơi, KTTT không những không làm cho con người ta năng động hơn, tốt đẹp hơn mà nược lại, còn làm tha hóa bản chất con người, biến con người thành nô lệ sung bài đồng tiền hoặc kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lợi tích cá nhân, sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm, văn hóa, đạo đức, luân lý… Bên cạnh những tác động tích cực , KTTT cũng có nhiều khuyết tật, hạn chế gây ra những tác động xấu. Việc quá đề cao lợi ích cá nhân, bất chấp lợi ích tập thể và lợi tíc xã hội là một nguy cơ lớn. Lợi nhuận kích thích sản xuất, nhưng mặt khác, lợi nhuận cũng tự phát đẩy con ngời tới những hành vi phá hoại môi trưòng sống và làm tha hóa đạo đức, nhân phẩm. Sự cạnh tranh trên thương trường làm cho con người năng động hơn, sáng tạo hơn nhưng nhiều khi cũng làm mất đi lòng nhân ái, vị tha, biến con người thành những cỗ máy chỉ biết tính toán môt cách sòng phẳng, lạnh lùng, thiếu nhân tính. Quân hệ hàng hóa - tiền tệ làm sống động thị trường nhưng cũng làm xói mòn nhân cách và hạ thấp phẩm giá của con người. Ngoài ra đi kèm với KTTT là hàng loạt tệ nạn xã hội để đưa đến những rối loạn, khủng hoảng cho gia đình, hạt nhân , tế bào của xã hội . Nạn cờ bạc, rượu chè, mại dâm, ma tuý, buôn lậu, hối lộ, tham nhũng… là những căn bệnh trầm kha không dễ khắc phục trong KTTT. Thật không sai khi hình dung KTTT là con dao hai lưỡi, nếu dùng không cẩn thận rất dễ bị đứt tay.
Những phân tích trên đây cho thấy, KTTT và mục tiêu xây dựng con người XHCN là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội. Giữa KTTT và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. KTTT vừa tạo ra những diều kiện để xây dựng, phát huy nguồn lực con người, vừa tạo ra những độc tố đầu độc, hủy hoại con người.
Việc giải quyết những mâu thuẫn trên đây là việc làm không đơn giản. Đối với nước ta, mâu thuẫn giữa KTTT và quá trình xây dựng con người được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đảng ta xác định :"Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH mà là thnàh tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần htiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng ''. Như vậy, Đảng ta vạch ra sự thống nhất giữa KTTT và mục tiêu xây dựng con người mới XHCN ''Việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt vấn đề này không phát huy được tác động tích cực, to lơn cũng như ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục những tiêu cực, khiếm khuyết của KTTT. Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng vào phục vu công cuộc xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tiến hành các hoạt động văn hóa, giáo dục nhằm khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thưòng các giá trị nhân văn . Phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức , thẩm mỹ, các di sản văn hóa, nghệ thuật của dân tộc. Đây chính là công cụ, phưong tiện quan trọng để tác động, góp phần giải quyết mâu thuẫn đã nêu''. Và Đại hội Đảng IX cũng xác định : ''Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết can bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân''.
Tóm lại, KTTT là mục tiêu xây dựng CNXH là một mâu thuẫn biện chứng xã hội trong thực tiễn nước ta hiện nay. Mâu thuẫn đó được giải quyết bằng cách tăng cương vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước và phát huy tối đa các giá trị tinh thần dân tộc.
b. Mâu thuẫn giữa phát triển KTTT và định hướng XHCN .
Một trong những luận điểm rất quan trọng phản ánh tư duy mới của Đảng ta thể hiện trong văng kiện Đại hội Đảng VI là :''chính sách, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần". Từ đó, Đảng ta từng bước xác định chủ trương xây dựng ở nước ta một nền KTTT theo đinh hướng XHCN. Trải qua thực tiễn đổi mới, chính sách, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo đinh hướng XHCN đã đưa lại hiệu quả, góp phần lớn vào sự thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Năm 1996, khi tổng kết 10 năm đổi mới, chúng ta đã thống nhất đánh giá, đó là quyết sách chiến lược đúng đắng của Đảng. Nhờ đó đã tạo nên những thành tựu to lớn, đưa nước ta vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy nhiên, trong khi nghiên cứu, thảo luận, đóng góp ý kiến vào dự thảo văn kiện Đại hội IX, có ý kiến băn khoăn về việc Đảng ta tiếp tục xác định chủ trương xây dựng ''nền KTTT định hướng XHCN'', nhất là cụm từ ''định hướng XHCN'' có người cho rằng :''cả về lý thuyết và thực tiễn, KTTT - điều kiện tất yếu để phát triển kinh tế - không thể đi đôi với định hướng XHCN được'' và ''Giữa hai cái phải chọn lấy một, không thể ''Bắt cá hai tay''" và theo họ, nếu chọn định hướng thì "đấy là thất bại, là ngõ cụt'' . Ý kiến đó lập luận rằng đã là nền KTTT thì đương nhiên nó vận động theo định hướng TBCN, nước ta đang cần phát triển, cần vận dụng cơ chế thị trường để thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, thì hà tất phải nêu "định hướng XHCN''. Việc nêu cụm từ ''định hướng XHCN'' có thể dẫn đến hai điều bất lợi :một là, KTTT là sản phẩm của CNTB nên không thể gắn cho nó cái định hướng XHCN; hai là, nêu định hướng XHCN vào đây dễ gây ra nghi ngại cho các nhà đầu tư, nhấtlà các nhà đầu tư tư nhân trong nước và các nhà đầu tư từ các nước TBCN.
Như đã biết, vào cuối thời kỳ công sản nguyên thủy, đầu thời kỳ xã hội nô lệ, loài người đã có một bước nhảy vọt trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất. Trong sản xuất đã bắt đầu có sản phẩm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60109.doc