MỤC LỤC
Trang
I- Phần mở đầu 1
II- Cơ sở lý luận chung 2
1. Kinh tế tư nhân trong quá trình chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 2
2. Khu vực kinh tế tư nhân 5
3. Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế hỗn hợp. 5
4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển khu vực kinh tế tư nhân. 9
III- Cơ sở thực tiễn. 13
1. Thực trạng phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong thời kỳ đổi mới. 13
2. Vai trò điều tiết kinh tế tư nhân bằng chính sách pháp luật. 16
3. Những kết quả đạt được và tồn tại yếu kém trong nền kinh tế tư nhân. 18
4. Phương hướng chính sách và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân. 20
IV. Kết luận 23
Tài liệu tham khảo 24
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1673 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng chính sách và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủ nghĩa chi phối mà lại không có sự cải tạo triệt để vì kỹ thuật. Kinh tế tư nhân là thành tựu của sự phát triển. Đến lượt mình kinh tế tư nhân lại là lực lượng kinh tế nằm trong tay phương thức tất yếu của sự tăng trưởng, phát triển kinh tế. Phương thức sản xuất này chứa đựng động lực, cơ chế tất yếu chuyển thặng dư thành tích luỹ tăng thêm của sự phát triển kinh tế và cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa lực lượng sản xuất của nhân loại đã diễn ra cách mạng công nghiệp. Cách mạng khoa học - công nghệ đặt nền kinh tế nhân loại tới giai đoạn phát triển hiện đại. Một nền kinh tế mà cơ cấu của nó phần lớn là kinh tế tư bản tư nhân thì nền kinh tế đó đã có được một đại động lực cho con tàu kinh tế tăng tốc.
Khi nước ta đi trên con đường xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế tư nhân đã không đóng vai trò chủ đạo. Trong điều kiện phát triển hiện đại, sự hình thành và phát triển của kinh tế tư nhân không dẫn tới xác lập chủ nghĩa tự bản.
Khi Nhà nước công nông đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thì kinh tế thị trường với khuôn mẫu hiện đại đã tạo ra điều kiện cần và đủ cho sự phát triển diễn ra theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Khu vực kinh tế tư nhân
Khu vực kinh tế tư nhân bao gồm các hình thức kinh tế sau:
Kinh tế cá thể: Được hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay một cá nhân hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động của chính hộ đó không thuê mướn lao động làm thuê.
Kinh tế tiểu chủ: Là hình thức kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý và điều hành, hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và có sd lao động thuê mướn ngoài lao động của chủ, quy mô vốn đầu tư và lao động nhỏ hơn của các hình thức doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc Công ty cổ phần.
Kinh tế tư bản tư nhân: Bao gồm các Công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân và Công ty cổ phần được thành lập theo luật doanh nghiệp tư nhân, luật Công ty.
3. Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế hỗn hợp.
Kinh tế tư nhân với tư cách là những "mảnh" của các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa xã hội sẽ còn chung sống với các "mảnh" xã hội chủ nghĩa mới được khai sinh và lớn dần lên trong một xã hội quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chừng nào sự phát triển của lực lượng sản xuất chưa cho phép "xã hội chủ nghĩa hoá" toàn bộ các quan hệ sản xuất, thì kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân còn tồn tại và phát triển. Quá trình chuyển hoá nó cũng diễn ra dần dần thông qua việc cải tạo để cho các "mảnh" tiền xã hội chủ nghĩa ngày càng chứa nhiều yếu tố xã hội chủ nghĩa hơn; chứ không phải bằng cách thủ tiêu nó thông qua mệnh lệnh hành chính.
Kinh tế tư nhân có thể kinh doanh được hầu hết các lĩnh vực kinh tế ngoại trừ một số ít các lĩnh vực trong nền kinh tế mà Nhà nước gửi độc quyền nhằm đảm bảo an ninh và quốc phòng.
Mặt mạnh chủ yếu của khu vực kinh tế tư nhân là có động lực cá nhân mạnh mẽ mà với nó hoạt động kinh doanh diễn ra năng động, nhanh chóng đổi mới hệ thống điều hành và quản lý gọn nhẹ có hiệu quả và chi phí thấp. Lợi ích cá nhân là một động lực mạnh mẽ của con người tồn tại lâu đời. Việc sử dụng động lực đó phục vụ cho lợi ích chung của xã hội là việc làm cần thiết và khôn ngoan nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Vấn đề thứ nhất: Kinh tế tư nhân và vấn đề bóc lột giá trị thặng dư : Xuất phát từ quan niệm quy mô kinh tế nhỏ thì bóc lột ít, quy mô kinh tế lớn thì bóc lột nhiều. Chính vì vậy mà một thời kinh tế tư nhân không được khuyến khích phát triển là đối tượng cải tạo xã hội chủ nghĩa để từng bước thu hẹp và xoá bỏ khu vực kinh tế này.
Cùng với quá trình đổi mới các chính sách đối với kinh tế tư nhân đã thay đổi khá căn bản: kinh tế hộ gia đình và kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển: kinh tế tư nhân mặc dù được tuyên bố phát triển bình đẳng với các thành phần kinh tế khác song trong nhận thức lý luận của các cấp hoạch định chính sách trên thực tế còn nhiều quan điểm chưa nhất quán.
Coi kinh tế tư nhân là bộ phận cần thiết có vai trò và vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế và có mối liên kết bổ xung hài hoà với kinh tế Nhà nước.
Coi kinh tế tư nhân là bộ phận chính, là động lực chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, quyết định rất lớn đến hiệu quả cũng như sự phát triển chung của nền kinh tế.
Coi kinh tế tư nhân gắn liền với bóc lột, vì vậy phải cải tạo, thu hẹp và từng bước xoá bỏ. Đây là quan điểm từng chiễm lĩnh vị trí thống trị.
Coi kinh tế cá thể và tiểu chủ là không có bóc lột nên có thể khuyến khích phát triển còn kinh tế phát triển còn kinh tế tư nhân có tính chất bóc lột nên về lâu dài, về dài cần hạn chế sự phát triển.
Điểm mấu chốt quyết định thái độ đối xử với khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là kinh tế tư bản tư nhân là quan điểm về "bóc lột" và bản chất của hiện tượng này trong nền kinh tế đã phân tích dựa trên cơ sở vận dụng học thuyết giá trị thặng dư. Sự bóc lột diễn ra khi giá trị của lao động mới sáng tạo ra vượt quá giá cả sức lao động của người chủ thuê mướn lao động chiếm đoạt phần thặng dư dựa trên sự tư hữu của mình. Nhiệm vụ của Nhà nước là phải điều tiết quá trình phân phối và phân phối lại sao cho mức độ chiếm đoạt giá trị thặng dư của những người thuê mướn lao động sống có thể chấp nhận được không gây nên những mâu thuẫn xã hội gay gắt và cản trở quá trình phát triển kinh tế, thực hiện từng bước sự công bằng xã hội.
Vấn đề thứ hai, kinh tế tư nhân và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa có sự quản lý Nhà nước, các chính sách và biện pháp kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước phải nhằm cải tạo lập môi trường kinh tế mới thích hợp, trong đó mọi cá nhân có thể phát huy tài năng của mình làm giầu cho bản thân và cho đất nước.
Trong quan hệ mua bán sức lao động, Nhà nước thông qua luật lao động và các quy chế khác có thể bắt buộc những người thuê mướn lao động đảm bảo những quyền lợi cơ bản cho người lao động tiền lương, giờ làm việc, điều kiện an toàn....
Trong quan hệ phân phối và phân phối thu nhập Nhà nước hoàn toàn có thể thông qua việc xác định thể chế thuê mướn lao động, chính sách thuế để điều tiết và phân phối loại thu nhập hoặc thông qua chính sách xã hội, phát triển phúc lợi xã hội công cộng. Mỗi quan hệ giữa chủ và người làm thuê đã được Nhà nước quy đinh và giám sát. Đó là chưa kể vai trò kiểm tra, kiểm soát của tổ chức như Đảng công đoàn, nữ công... Đối với hoạt động của giới chủ và người lao động.
Tất cả những điều vừa trình bày trên cho thấy giữa các doanh nghiệp tư bản tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các doanh nghiệp tư bản tư nhân trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa có sự khác biệt căn bản vì thế sẽ là không thoả đáng nếu cứ xem các doanh nghiệp tư bản tư nhân hàng ngày hàng giờ để đưa ra chủ nghĩa tư bản và do đó là đối tượng cải tạo của chủ nghĩa xã hội. Ngược lại các hình thức kinh tế tư bản tư nhân sẽ có đóng góp quan trọng, lâu dài vào sự nghiệp phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khu vực kinh tế tư nhân trong triển vọng dài hạn.
Số liệu ước tính mới nhất cho thấy trong cơ cấu tổng sản phẩm trong nước năm 1998 ( tính theo giá hiện hành) kinh tế Nhà nước chiếm 40% kinh tế tư nhân chiếm 38% khu vực sở hữu hỗn hợp chiếm 22% trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm gần 10%, kinh tế tập thể và liên doanh trong nước chiếm khoảng 12%.
Tốc độ tăng trưởng trong mấy năm gần đây của khu vực kinh tế tư nhân cao hơn của khu vực kinh tế Nhà nước, nhưng thấp hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện tại do phần lớn các cơ sở kinh tế tư nhân có quy mô nhỏ, trang thiết bị giản đơn, phần nhiều là lao động thủ công nên khu vực kinh tế tư nhân có năng suất thấp. Trong tương lai nếu được khuyến khích phát triển đúng mức khu vực kinh tế tư nhân chắc chắn sẽ có năng suất lao động cao và đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã đánh một dấu mốc quan trọng cuộc đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới kinh tế. Thông qua các chính sách kinh tế mới của Đảng và Nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân được hồi sinh và phát triển trong nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
Các đại hội lần thứ VII và lần thứ VIII của Đảng sau đó khẳng định lại đường lối đổi mới được khởi xướng tại Đại hội VI.
Thứ nhất kinh tế cá thể có phạm vi tương đối rộng lớn được phát triển trong tất cả các ngành ở cả thành thị và nông thôn không hạn chế việc mở rộng kinh doanh có thể tồn tại độc lập, có thể tham gia các loại hình hợp tác hoặc liên kết với các doanh nghiệp lớn bằng nhiều hình thức.
Thứ hai, kinh tế tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc dân sinh được pháp luật quy định. Đường lối đổi mới cơ bản của Đảng đã được thể chế hoá bằng các văn bản pháp lý. Trước hết là trong hiến pháp năm 1992 của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp 1992 còn quy định kinh tế cá thể kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh.
Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng khẳng định. Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng và lâu dài Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác.
Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản phát triển theo những định hướng ưu tiên của Nhà nước.
Như vậy đường lối chính sách và cơ sở pháp lý đã tạo đủ các điều kiện cho các hình thức kinh tế thuộc khu vực tư nhân phát triển. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần làm rõ thêm về quan điểm, chính sách và nhất là tìm các giải pháp phát triển mạnh mẽ nền kinh tế đất nước trong giai đoạn mới - Giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Vì vậy cần quán triệt một số quan điểm sau đây về việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong giai đoạn xắp tới.
a. Sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân là nhu cầu tất yếu khách quan và lâu dài của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nền kinh tế Việt nam đang trong thời kỳ quá độ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ở đó tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều trình độ phát triển thuộc nhiều phương thức khác nhau. Trong đó các hình thức kinh tế tư nhân đã và sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Sau hơn 70 năm thử xây dựng một nền kinh tế gồm hai thành phần chi phối là Nhà nước và tập thể, phần lớn các nước xã hội chủ nghĩa trước đây lại trở lại với nền kinh tế tư nhân. Trong công cuộc đổi mới kinh tế vừa qua ở Việt Nam trong khi chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghiã đã coi trọng sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân với Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong chính sách đổi mới quản lý sản xuất nông nghiệp. Việt Nam từ một nước thiếu lương thực luôn phải nhập khẩu lương thực đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Tuy nhiên, chủ trương khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển còn nhiều vướng mắc gây nên sự hoài nghi về tính nhất quán của chủ trương, đường lối, chính sách giữa việc tổ chức thực hiện. Vì vậy đã đến lúc cần khẳng định dứt khoát quan điểm: Hỗ trợ và khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong mọi lĩnh vực mà pháp luật không cấm là chủ trương, chính sách nhất quán lâu dài trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, coi đó là quan điểm chỉ đạo việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong giai đoạn mới, đồng thời phải thể chế hoá chủ trương này thành luật pháp.
b. Phải đặt các khu vực kinh tế Nhà nước, tư nhân, hỗn hợp có vị trí bình đẳng trước pháp luật.
Đây là điều kiện rất quan trọng để huy động hết sức mạnh tiềm ẩn về vốn và lao động, công nghệ của các khu vực kinh tế, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân.
Về mặt pháp lý, doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân đều là các pháp nhân chịu trách nhiệm như nhau trước pháp luật, trong sản xuất kinh doanh chúng là những đơn vị kinh tế độc lập, cùng cạnh tranh với nhau trên thị trường và cùng chọu sự chi phối của các quy luật thị trường, do đó chúng cần được đối xử bình đẳng với nhau về mọi phương diện, mọi sự ưu tiên dành thuận lợi cho khu vực này, hạn chế, gây trở ngại cho khu vực kia là trái với yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan, rốt cuộc sẽ gây thiệt hại cho nền kinh tế.
Theo quan điểm này, các chính sách đầu tư vốn, đất đai, tín dụng, thị trường, khuyến khích phát triển phải được thực hiện, theo lĩnh vực, đối tượng, đầu tư chứ không phải theo chủ nghĩa đầu tư là ai, Nhà nước hay tư nhân, trong nước hay ngoài nước.
c. Khuyến khích, hỗ trợ tạo môi trường pháp lý kinh tế - xã hội, thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân.
Trước hết là hình thức kinh tế tư bản tư nhân tăng cường vốn tài sản vào sản xuất kinh doanh quy mô lớn đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp các công ty lớn của các nước trong khu vực trên thị trường khu vực và quốc tế.
III- Cơ sở thực tiễn.
1. Thực trạng phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong thời kỳ đổi mới.
a. Sự phát triển về số lượng của các hình thức kinh tế thuộc khu vực tư nhân.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1996) và nhất là từ khi ban hành luật doanh nghiệp tư nhân (1990) và Nghị định số 221/HĐBT ngày 23/7/1991 về "cá nhân và nhóm kinh doanh" cùng nhiều chỉ thị, nghị quyết và chính sách khuyến khích khác của Đảng và Nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân đã có bước ngoặt trong sự hồi sinh và phát triển. Năm 1990 mới có khoảng 800.000 cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ thì đến năm 1992 - sau một năm thực hiện Nghị định số 221/HĐBT đã có 1.498.000 hộ cá thể tiểu chủ đăng ký kinh doanh. Hai năm sau, năm 1994 đã lên tới 1.533.100 cơ sở, tăng thêm 34.500 cơ sở. Năm 1995 có 2.050.200 cơ sở, tăng 51.100 cơ sở. Năm 1996 có 2.215.000 cơ sở, tăng thêm 164.900 cơ sở. Bình quân giai đoạn 1990-1996 mỗi năm tăng 553.775 cơ sở và tốc độ tăng hàng năm hơn 20%. Cùng với kinh tế cá thể kinh tế tiểu chủ các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần cũng có bước phát triển vượt bậc về số lượng.
Năm 1991 tổng số các doanh nghiệp tư nhân là 414 doanh nghiệp. Năm 1992 tổng số các doanh nghiệp tư nhân là 5.198 doanh nghiệp.
Trong năm 1993, 1994, 1995, 1996, 1997 là 6.808 doanh nghiệp, tăng lần lượt là 31%, 60%, 40%, 24% và 32%. Năm 1998 đã tăng lên 26.021 doanh nghiệp, tăng 4%, gấp 62 lần so với số doanh nghiệp năm 1994. Năm 1999 Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành trong cả nức kể từ ngày 1/2000 đến 12/2000 số lượng doanh nghiệp đăng ký tăng lên 13.500 doanh nghiệp.
Loại hình doanh nghiệp tư nhân:
- 1999 cả nước cps 270 cơ sở
- 1998 cả nước có 18.750 cơ sở.
Tăng gần 70 lần, trong đó năm 1992 tốc độ tăng đột biến tới 1.361%.
Loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn:
- 1991 có 122 công ty.
- 1998 có 7.100 công ty.
Tăng trên 58 lần trong đó năm 1992 tăng đột biến lên tới 1.183%.
Công ty cổ phần:
- 1991 có 22 công ty.
- 1998 có 171 công ty.
Tăng 7,7 lần. Trong đó năm 1992 có tốc độ tăng lớn nhất là 526%.
Nhìn chung các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng trong giai đoạn 1992-1994 có nguyên nhân sâu xa là sự khuyến khích của các chính sách vĩ mô. Đặc biệt là luật doanh nghiệp và luật công ty.
Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân theo ngành nghề sản xuất:
Theo kết quả điều tra cho thấy: đa số các cơ sở kinh doanh thuộc khu vực kinh tế tư nhân đều tập trung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ sau đó mới đến sản xuất công nghiệp và sau cùng là sản xuất nông nghiệp.
1995: Tổng số 1.882.792 cơ sở kinh tế cá thể thì có đến 940.994 cơ sở kinh doanh trong lĩnh vực thương mại. 707.053 cơ sở hoạt động trong ngành công nghiệp.
Trong những năm gần đây xu thế trên vẫn được duy trì và có chiều hướng tập trung vào các lĩnh vực dịch vụ và sản xuất nông nghiệp. Không chỉ thể hiện về mặt số lượng mà cong thể hiện qua cơ cấu vốn đầu tư và số lượng lao động sử dụng, doanh thu, nộp thuế. Trong lĩnh vực sản xuất khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng thấp, tiềm lực còn rất nhỏ bé dễ bị tác động trước sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường các loại hình kinh tế tư nhân tập trung chủ yếu vào ngành thương mại, sửa chữa xe máy và công nghiệp chế biến vì đó là các ngành, lĩnh vực có thị trường lớn, đòi hỏi vốn đầu tư không nhiều, phù hợp với nguồn vốn hạn hẹp.
Sự tập trung của khu vực kinh tế vào lĩnh vực kinh tế thương mại đã góp phần đáp ứng nhu cầu về đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân có tác động thúc đẩy đối với sản xuất.
Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân theo vùng lãnh thổ.
Kinh tế tư nhân phát triển rất không đều giữa các vùng trong cả nước. Con số thống kê năm 1995 của Ban kinh tế trung ương cho thấy 55% số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tập trung ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ. Trong khi đó ở vùng đồng bằng sông Hồng là 18,1% và vùng duyên hải miền Trung là 10,1%.
Trong khi các tỉnh phía Nam thì riêng thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và tỉnh Đồng Nai đã tập trung 63% các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân quy mô vừa và nhỏ.
Đối với loại hình doanh nghiệp tư nhân, mức độ phát triển mạnh nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long 40%; đồng bằng sông Hồng là 33% và Đông Nam Bộ là 25%. Các công ty cổ phần lại phát triển mạnh ở vùng Đông Nam Boọ lên đến 54%.
Sự phân bố không đồng đều các cơ sở kinh tế tư nhân giữa các vùng, miền trên cả nước còn thể hiện qua cơ cấu vốn đăng ký kinh doanh đầu tư. Thống kê đến 31/12/1996 cho thấy tổng số vốn đăng ký của các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh trong đó chủ yếu là các loại hình kinh tế của khu vực kinh tế tư nhân 59.365 tỷ đồng tập trung ở Đông Nam Bộ trên 51%, đồng bằng sông Cửu Long trên 20%.
Những vùng có nhiều cơ sở kinh tế tư nhân cùng là những vùng sử dụng nhiều lao động. Tổng số 4.849.142 lao động trong khu vực kinh tế tư nhân Đông Nam Bộ chiếm 26%. Đồng bằng sông Cửu Long 23%.
2. Vai trò điều tiết kinh tế tư nhân bằng chính sách pháp luật.
a. Vai trò điều tiết và định hướng của chính sách phát triển.
Mối quan hệ kinh tế và giai cấp xã hội được định hướng và điều tiết bởi chính sách của Đảng và luật pháp, Nhà nước thực thi chính sách, chính sách của Đảng về phát triển kinh tế thị trường được đề ra từ Đại hội VI (1986) đã có quá trình liên tục hoàn thiện. Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định: tiếp tục nhất quán sự phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần nhất là nền kinh tế tư nhân. Những năm vừa qua việc thực hiện quy định "Đảng viên có lao động, không bóc lột" đã rất lúng túng về mặt xử lý đảng viên , đồng thời gây ra sự nghi ngại của giới kinh doanh tư nhân với chính sách khuyến khích phát triển . Trước thực tế đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành luật doanh nghiệp. Đó là sự khẳng định lâu dài của chính sách. Hội nghị lần thứ 5 của BCHTW Đảng khoá IX (2002) xuất phát từ quan điểm cơ bản của Đại hội IX đã đẩy tới một bước sự nhất quan của chính sách trên hai điều rất quan trọng "Bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của cả người lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở pháp luật và tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái".
b. Luật pháp là công cụ thực thi chính sách phát triển.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường Nhà nước ta đã và đang xây dựng thực thi hệ thống luật kinh tế và kinh doanh nhằm thực thi chính sách của Đảng, khuyến khích người dân mở mang kinh doanh hợp pháp.
Xét riêng về quan hệ giữa người sử dụng nhân công và người làm công ăn lương trong khu vực kinh tế tư nhân, luật pháp bảo vệ quyền lợi hợp lý của cả hai phía. Trên thực tế xây dựng văn bản pháp luật và thực thi pháp luật trong cuộc sống đã có tình hình: không cần không thể và chưa bao giờ trực tiếp đặt ra việc xây dựng văn bản xác định tầng lớp nào, người kinh doanh cụ thể nào. Trong khi đó luật doanh nghiệp với việc áp dụng chế độ đăng ký kinh doanh thay cho chế độ xin phép đã khiến cho đông đảo người kinh doanh vững tin, rất hăng hái đăng ký, tự xưng danh trước pháp luật và công chúng như một sự tăng đột biến bùng nổ được xã hội mong đợi.
Chính nền pháp chế mới đang hình thành và hoàn thiện từng bước, là công cụ định hướng tạo lập quan hệ mới, tạo khả năng đẩy lùi, loại trừ các nhân tố tiêu cực. Luật pháp như vậy đã đặt biển cấm sự suất hiện tầng lớp người có đặc quyền đặc lợi cũng như tầng lớp cam chịu bị bóc lột. Nhìn rộng hơn mọi doanh nghiệp chịu sự giám sát không chỉ của Nhà nước mà còn của người lao động, của toàn xã hội. Sự giám sát như vậy không chỉ dừng lại ở tính hợp pháp hay phi pháp mà còn ở sự bình luận, phán xét.
c. Phấn đấu vì " Quyền lao động" hợp hiến của công dân.
Điều 55 của Hiến pháp có ghi: Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân, Nhà nước và xã hội tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động với công dân nước ta quyền lao động và có việc làm là cơ bản nhất thuế nhưng đã có rất nhiều người không có việc làm hoặc có việc làm nhưng thu nhập thấp.
Thực tế chứng tỏ người lao động nước ta rất năng động cần cù nhẫn nại. Đồng thời cũng nói lên chính sách và môi trường chưa đủ sức tăng cầu lao động. Của cải nước ta lớn nhất của con người, là cộng đồng lao động lãng phí lớn nhất là vật chất và tinh thần. Người lao động chịu thiệt thòi lớn nhất là chưa có việc làm và thất nghiệp. Thực tế kinh tế phát triển đã làm tăng rõ khả năng tạo thêm việc làm. Khả năng đó tạo ra lớn nhất là khu vực kinh tế tư nhân chính vì vậy chúng ta càng phải đi tới trình độ phát triển đến mức cầu lao động lớn hơn cung lao động.
d. Kinh tế Nhà nước với cuộc tổng động viên lực lượng các thành phần kinh tế.
Nền kinh tế gặp hai thách thức. Một , doanh nghiệp Nhà nước chưa thể tự chuyển sang tự chủ kinh doanh. Hai, đây là khu vực kinh tế mang bệnh quan liêu, tham nhũng nặng.
Nguồn gốc của tình hình đó là do chính sách và thể chế kinh tế chính vì vậy Nhà nước ta cần đổi mới chính sách.
Kinh tế Nhà nước, bao gồm doanh nghiệp Nhà nước thật sự đổi mới làm đúng vai trò chủ đạo đầu đàn sớm tạo môi trường kinh tế xã hội bình đẳng. Các loại ihnhf doanh nghiệp đều hoạt động theo hệ thống luật doanh nghiệp.
Trên nền tảng kinh tế nhiều thành phần cần phải đổi mới Nhà nước về hệ thống chính trị theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tạo khả năng thúc đẩy cải cách nền hành chính gắn với đổi mới kinh tế, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý kinh tế.
3. Những kết quả đạt được và tồn tại yếu kém trong nền kinh tế tư nhân.
a. Những kết quả chủ yếu.
Khơi dậy và phát huy tiềm năng của một bộ phận lớn dân cư tham gia vào công cuộc phát triển đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm huy động mọi nguồn vốn đầu tư phát triển.
Năm 1992 vốn đầu tư 14.000 tỷ đồng đã tăng lên 26.500 tỷ đồng vào năm 1996 chiếm tới 8,3% tổng số vốn đầu tư sản xuất.
Thúc đẩy việc hình thành các chủ thể kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý theo hướng thị trường, tạo sự cạnh tranh trong nền kinh tế. Trước đây hầu hết các lĩnh vực kinh doanh đều do kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể đảm nhận. Trong đó nhiều ngành nghề khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng lớn. Đóng góp quan trọng trong GDP và thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế.
Hình thành và phát triển các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, góp phần xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp Việt Nam làm đầu tầu thúc đẩy, nền kinh tế bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở cửa hợp tác với bên ngoài.
Góp phần xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển thực hiện công bằng xã hội chính nhờ sự phát triển của kinh tế tư nhân với nhiều loại hình kinh tế khác nhau đã góp phần làm cho quan hệ sản xuất chuyển biến phù hợp với lực lượng sản xuất trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế nước ta.
b. Những tồn tại yếu kém chủ yếu.
Phần lớn các cơ sở kinh doanh tư nhân đều có qui mô nhỏ, năng lực và sức cạnh tranh hạn chế dễ bị tổn thương trong cơ chế thị trường. Hiện nay có tới 87,2% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng trong đó 29,4% có mức vốn từ 10 tỷ đồng trở lên. Thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất là hiện tượng phổ biến đối với toàn bộ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
Máy móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu và nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế. Mặc dù nhận thức được nhu cầu cần nâng cao khả năng cạnh tranh cúap nhưng để đổi mới công nghệ và máy móc lại là một vấn đề lớn.
Thiếu mặt bằng sản xuất và mặt bằng sản xuất không ổn định là tình trạng phổ biến đã tác động bất lợi tới chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp Luật đất đai qui định tư nhân chỉ có quyền sử dụng đất không cho phép quyền sở hữu và mua bán trái phép đã gây khó khăn cho tư nhân trong việc kinh doanh vì không có đất để xây dựng cơ sở.
Thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đây là vấn đề cản trở lớn đến sự phát triển sản xuất kinh doanh sản phẩm chủ yếu tiêu thụ trong nước, đã có một số mặt hàng được bán ra nước nogài nhưng không nhiều.
Khả năng cạnh tranh để tồn tại và đứng vững trên thị trường củakt tư nhân còn hạ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35391.doc