Lời mở đầu 1
phần I Cơ cấu nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu nông- lâm- ngư nghiệp trong phát triển kinh tế
I. Một số vấn đề lý luận cơ bản về sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp 3
1. Khái niệm về cơ cấu của một ngành kinh tế 3
1.2. Khái niệm về cơ cấu lao động. 5
1.3. Khái niệm cơ cấu đầu tư: 6
2. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành 6
3. Cơ cấu nông nghiệp và sự cần thiết phải chuyển dich cơ cấu nông nghiệp. 8
3.1. Cơ cấu ngành nông nghiệp: 8
3.2. Sự cần thiết phải chuyển dich cơ cấu nông nghiệp. 9
II. Cơ sở khoa học chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 10
1. Quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel. 10
2. Quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher. 10
3. Lý thuyết về các giai đoạn phát triển kinh tế của W.Rostow. 11
3.1. Xã hội truyền thống. 12
3.2. Giai đoạn chuẩn bị cất cánh. 12
3.3. Giai đoạn cất cánh. 13
3.4. Giai đoạn trưởng thành 13
3.5. Giai đoạn mức tiêu dùng cao 13
4. Mô hình hai khu vực của Harry T.Oshima. 14
4.1. Cách đặt vấn đề của Harry T.Oshima 14
4.2. Bắt đầu quá trình tăng trưởng: tạo việc làm trong thời gian nhàn rỗi. 15
4.3. Hướng tới có việc làm đầy đủ 15
4.4. Sau khi có việc làm đầy đủ. 16
III. Các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp 17
1. Vấn đề vốn trong sản xuất nông nghiệp. 18
2. Nguồn nhân lực. 19
3. Khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học. 20
4. Thị trường trong và ngoài nước. 20
5. Một số các yếu tố khác. 21
IV. ý nghĩa của việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp 22
4.1 Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế 24
4.2 Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp với các vấn đề xã hội 25
III. Kinh nghiệm của một số nước. 25
1. Chính sách hỗ trợ nông nghiệp. 25
1.1. Các nước Nics 26
2.2. Chính sách phát triển nông nghiệp ở các nước asean 26
2. Phương hướng và bước đi của CNH-HĐH của một số nước. 27
99 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1239 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng cơ bản chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2002-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
,29 triêu ha năm 20010, bình quân mỗi năm tăng trên 108 nghìn ha, diện tích lúa đông xuân cũng tăng từ 2,1 triêu ha lên 3,01 triệu ha. Diện tích gieo cấy lúa mùa một vụ, năng suất thấp của các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long giảm từ 920 nghìn ha năm 1991 xuống còn 535 nghìn ha năm 20010.
Kết quả mở rộng diện tích rõ nét nhất là ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Năm 20010 diện tích lúa vùng này đạt 3,94 triệu ha, tăng 1,35 triệu ha (+52%) so với năm 1990, chủ yếu do khai hoang tăng vụ ở Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hậu và chương trình ngọt hoá bán đảo Cà Mau.
Thành tựu 10 năm khai hoang và cải tạo mở rộng diện tích lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long là kết quả của quá trình đầu tư liên tục, có trọng điểm với số vốn đầu tư hàng nghìn tỷ đồng tạo nên những công trình thuỷ lợi quan trọng như: Quản Lộ- Phụng Hiệp, ngọt hoá bán đảo Cà Mau và đắp đê ngăn mặn ở Sóc Trăng. Nhờ đó gieo trồng lúa ở các vùng này không chỉ tăng về diện tích canh tác mà còn tạo ra khả năng tăng vụ. Hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu từ chỗ mỗi năm chỉ gieo cấy được một vụ lúa mùa với giống địa phương dài ngày, năng suất thấp, nay đã trở thành tỉnh gieo cấy được cả 3 vụ đông xuân, hè thu và vụ mùa với giống cao sản. Sản lượng lúa của 2 tỉnh này năm 1991 chỉ đạt 1,0 triệu tấn thì đến năm 20010 đạt trên 1,7 triệu tấn.
Diện tích cây công nghiệp hàng năm năm 20001 đạt 808,7 nghìn ha, gấp gần 1,5 lần năm 1990; diện tích cây ăn quả 541,0 nghìn ha, gấp trên 1,9 lần; diên tích cây công nghiệp lâu năm 1,4 triệu ha, gấp 2,1 lần. Cùng với gạo, cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, chè, lạc, rau quả đã trở thành những mặt hàng năng suất xuất khẩu quan trọng. Trong 10 năm 1991-20010, bình quân mỗi năm xuất khẩu gạo tăng 7,6 %, rau quả tăng 10,8%/năm; cao su tăng 12,4%/năm; cà phê tăng 17,4%/năm; hạt tiêu tăng 24,8%/năm; hạt điều tăng 37,5%/năm.
Biểu đồ 4
b. Về năng suất:
Cùng với mở rộng diện tích, 10 năm qua sản xuất lúa nước ta còn đạt được tiến bộ về thâm canh tăng năng suất và nâng cao chất lượng gạo. Trình độ thâm canh lúa của nông dân không ngừng tăng lên cùng với tác động tích cực của khoa học kỹ thuật, đưa năng suất từ 31,1 tạ/ha năm 1991 lên 42,5 tạ/ha năm 20010. Bình quân hàng năm tăng trên 1,1 ta/ha. Năng suất lúa của tất cả các vùng đều tăng, nhưng đáng chú ý là do áp dụng giống lúa lai và hiệu quả của chương trình kiên cố hoá kênh mương, nên năng suất lúa nước của các tỉnh vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Tây nguyên những năm gần đây không ngừng tăng.
c. Về sản lượng:
Do tăng cả diện tích và năng suất nên sản lượng lúa tăng từ 19,6 triệu tấn năm 1991 lên 29,1 triệu tấn năm 19981999; 31,4 triệu tấn năm 19992000 và năm 20010 tuy cả nước co khó khăn do lũ lụt lớn ở ĐDB Sông Cửu Long, sâu bệnh ở ĐDB Sông Hồng nhưng sản lượng lúa cả năm vẫn đạt mức kỷỳ lục với 32,55 triệu tấn, tăng 1,16 triêu tấn so với năm 19992000.
Nếu so với năm 1991 thì diện tích lúa năm 20010 tăng 21,4% (1,35 triệu ha), năng suất tăng 36,5% và sản lượng tăng 65,9% (+12,9 triệu tấn), Bình quân mỗi năm sản lượng lúa cả nước tăng thêm 1,3 triệu tấn. Liên tục trong 10 năm sản lượng lúa năm sau luôn cao hơn năm trước, là xu thế hiếm thấy trong lịch sử sản xuất lúa ở nước ta và thế giới. Sản lượng lúa tăng liên tục trong 10 năm qua đã góp phần quyết định bảo đảm an toàn lương thực quốc gia, đẩy lùi tình trạng thiếu đói giáp hạt ở các tỉnh miền Bắc và tăng lượng gạo xuất khẩu.
Vùng chuyên canh lúa phục vụ xuất khẩu ở các tỉnh ĐDB Sông Cửu Long đã được hình thành với các tỉnh: An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Long An, Sóc Trăng, Cần Thơ, Tiền Giang, mỗi tỉnh có từ 10-20 vạn lúa chuyên canh với chủng loại khác hau, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.
Cùng với cây lúa, trong 10 năm qua sản xuất màu lương thực cũng phát triển khá ổn định góp phần bổ xung nguồn lương thực cho người và thức ăn cho gia súc. Sản lượng màu qui thóc bình quân mỗi năm đạt 3 triệu tấn, trng đó tăng nhanh nhất là ngô. Năm 1991 diện tích ngô cả nước mới đạt 44,8 vạn ha, sản lượng 672 nghìn tấn, thì năm 19971998 đã tăng 66,3 vạn ha, năng suất 25 tạ/ha, sản lượng 1,6 triệu tấn. Năm 20010 diên tích ngô đạt 714 nghìn ha, năng suất đạt 27,0 tạ ha, sản lượng 1,9 triệu tấn. Việc mở rộng diện tích, áp dụng công nghệ sinh học, đặc biệt là các giống ngô lai năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất đại trà đã tạo ra sự đột biến về năng suất và sản lượng ngô. Một số vùng ngô tập trung quy mô lớn đã được hình thành như vùng Đông Nam Bộ với sản lượng 30 vạn tấn; vùng Đông Bắc và Tây Bắc với sản lượng 50 vạn tấn. Một số tỉnh đã có vùng sản xuất ngô tập trung như Đồng Nai, năm 20001 sản lượng ngô của Đồng Nai đạt 22,9 vạn tấn, gấp trên 3 lần năm 1991. Sản xuất ngô tăng liên tục trong nhiều năm đã bổ xung nguồn lương thực cho đồng bào miền núi cao, nơi diện tích lúa bình quân đầu người quá thấp; đồng thời cung cấp nguồn nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc, góp phần tăng nhanh sản lượng chăn nuôi, bình ổn giá thực phẩm. Ngô cũng đã và đang trở thành một mạt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng với sản lượng xuất khẩu trên 100 nghìn tấn/năm và có khả năng sẽ tăng nhanh trong những năm tới.
Sắn và khoai lang tuy không tăng và không còn giữ vai trò là cây lương thực thiết yếu, nhưng cũng đang chuyển dần theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường. Nhiều địa phương ở vùng Đông Nam Bộ đã đẩy mạnh trồng sắn làm nguyên liệu chế biến mỳ chính và sắn thái lát khô xuất khẩu, khoai lang cũng chuyển sang phục vụ chế biến thực phẩm, làm quà bánh hoặc chế biến thức ăn gia súc.
- Cây công nghiệp hàng năm và rau đậu
Thực hiện phương châm “ đất nào cây ấy” nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, những năm vừa qua đã chuyển một phần diện tích trồng lúa,màu năng suất và hiệu quả thấp sang trồng cây công nghiệp, nhất là những loại cây phục vụ xuất khẩu và làm nguyên liệu cho công nghiệp như lạc, mía, đỗ tương, bông.Trong 10 năm 1991- 20010, sản lượng lạc tăng 49,6%; đỗ tương tăng 77,3%; bông tăng 2,3 lần.
Mía là cây công nghiệp ngắn ngày có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các cây công nghiệp. Diện tích mía năm 1991 chỉ có 144,6 nghìn ha với sản lượng 6,2 triệu tấn, nhưng đến năm 19992000 diện tích mía đã tăng lên đạt 344,2 nghìn ha với sản lượng 17,8 triệu tấn, tăng 11,6 triệu tấn so với năm 1991, bình quân mỗi năm tăng trên 1,0 triệu tấn. Nguyên nhân sản lượng lúa tăng nhanh là do nhu cầu mía làm nguyên liệu cho các nàh máy đường mơi được xây dựng nhằm thực hiện mục tiêu 1 triệu tấn đường năm 20010.
Gieo trồng rau đậu cũng có tiến bộ theo hướng nâng cao chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm , phục vụ nhu cầu ngày càng tăng của nông dân và xuất khẩu. Hàng loạt các vùng chuyên canh rau sạch, sản xuất theo công nghệ tiên tiến đã được quy hoạch ở hầu hết các khu vực ngoại thành, ngoại thị, góp phần làm phong phú thêm thị trường rau quả.
-Cây lâu năm:
Tổng diện tích gieo trồng các loại cây lâu năm từ năm 1991 đến năm 20010 đã tăng lên không ngừng với mức tăng bình quan 8,0% /năm theo xu hướng năm sau luôn cao hơn năm trước. Năm 20010 tổng diện tích gieo trồng cây lâu năm đã đạt 2021,8 nghìn ha, bằng 215,4% namư 1990. Trong cây lâu năm, nhóm cây công nghiệp chiếm 68,5% tổng diện tích gieo trồng. Mười năm qua diện tích gieo trồng các loại cây công nghiệp lâu năm lên với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 7,8% và đã đạt 1397,4 nghìn ha trong năm 20010, bằng 216,6% năm 1990.
Cây cà phê là một trong hnững cây công nghiệp lâu năm có giá trị xuất khẩu cao và chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng diện tích cây công nghiệp lâu năm. Tỷ trọng diện tích cây cà phê chiếm trong tổng diện tích nhóm cây công nghiệp lâu năm này càng tăng, từ 18,15% năm 1990 đến nay đã chiếm 36,98%. Năm 20010 diên tích gieo trồng cà phê đạt 516,7 nghìn ha, bằng 433,1% năm 1990 với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 15,8%. Sản lượng năm 20001 ước tính đạt 698,2 nghìn tấn, bằng 758,9% năm 1990 với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 22,5%. Sản lượng tăng lên do diện tích cho sản phẩm tăng từ 61,8 nghìn ha năm 1990 lên 408,3 nghìn ha năm 20010, bình quân mỗi năm tăng 20,8%.
Cây cao su phát triển tương đối ổn định, chiếm khoảng 30% tổng diện tích cây công nghiệp lâu năm. Năm 20010 sản lượng mủ ước tính đạt 291,9%, bằn 504,1% năm 1990. Sản lượng cao su tăng lên ngoài tăng năng suất còn do diện tích cho sản phẩm tăng từ 81,1 nghìn ha năm 1990 lên 228,3 nghìn ha năm 20010.
Các cây công nghiệp lâu năm khác như cây tiêu, cây điếu và cây chè cũng ngày càng tăng được đầu tư mở rộng diện tích, thâm canh tăng năng suất. Vì cây sản lượng tiêu tăng bình quân hàng năm 15,7%; điều tăng 12,5%/ năm; chè tăng 9,0%/ năm.
Nhóm cây ăn quả cũng tăng mạnh, từ 281,2 nghìn ha nông nghiệp năm 1990 tăng lên 540,8 nghìn ha năm 20010 vớioí tốc độ tăng bình quân hàng năm là 6,8%. Trừ một vài năm diện tích cây ăn quả giảm, còn lại năm sau đều cao hơnưon năm trước.
Nhóm cây ăn quả nhãn, vải, chôm chôm có tốc độ tăng diện tích và sản lượng khá cao. Diện tích gieo trồng của nhóm cây này giai đoạn 19951996- 20010 tăng bình quân hàng năm là 21,4% (từ 57,0 nghìn ha năm 19951996 tăng lên 150,4 nghìn ha năm 20010). Diện tích cho sản phẩm tăng bình quân 27,2% (Từ 26,6 nghìn ha năm 19951996 lên 88,7 nghìn ha năm 20010). Sản lượng tăng bình quân hàng năm 26,4% và đạt 648,7 nghìn tấn vào năm 20010, bằng 322,7% năm 1990.
Diện tích gieo trồng cam, chanh, quýt tù 19,1 nghìn ha năm 1990 tăng lên 69,3 nghìn ha năm 20010 voí tốc độ tăng bình quân hàng năm là 13,8%. Diện tích cho sản phẩm đạt 48,4 nghìn ha năm 20010 bằng 333,8% năm 1990 với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 12,8%, Sản lượng năm 20010 ước tính đạt 449,9 nghìn tấn, bằng 377,4% năm 1990 và tốc độ tăng bình quân hàng năm là 14,2%.
Nguyên nhân chủ yếu làm cho diện tích cây lâu năm tăng nhanh như trên là do việc đổi mới các chính sách trong nông nghiệp của Đảng và Nhà nước về thuế nông nghiệp, và quyền sử dụng đất nông nghiệp, về tiêu thụ và xuất khẩu sản phẩm nông sản hàng hóa ... Các yếu tố này đã khuyến khích nông dân đầu tư mở rộng sản xuất; khai hoang, phục hoá; cải tạo vườn tạp; tiếp cận và áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới; chuyển đỏi cây trồng gia trị kinh tế thấp sang những cây trồng có giá trị kinh tế cao... Ngoài ra, diện tích cây công nghiệp lâu năm tăng lên còn do yếu tố tác động của một số chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
Bên cạnh đó vẫn có một giá trị cây lâu năm giảm giá cả về diện tích và sản lượng như dứa, dâu tằm, nho. Nguyên nhân chính là do các loại cây này có giá trị kinh tế thấp. Riêng cây nho cò do nông dân tự nhân giống. Do vậy giống nho này ngày càng thoái hoá, năng suất và chất lượng quả thấp dần.
2.1.2. Chăn nuôi
Chăn nuôi gia súc và gia cầm cũng phát triển với tốc độ nhanh. Giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi năm 2001 0 tăng 75% so với năm 1990, bình quân mỗi năm tăng 5,8%.
- Đàn trâu:
Tăng từ 2858,6 nghìn con năm 1991 lên 2977,3 nghìn con năm 1994. Từ năm 19951996 do nông dân các vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long đã đưa nhiều máy cày loại nhỏ vào sản xuất nên trâu cày kéo giảm. Tuy nhiên, trâu nuôi lấy thịt tăng nên sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng năm 20010 đạt 48,1 nghìn tấn, tăng 11,8% so với năm 1991.
- Đàn bò
Đến năm 20010 đàn bò có 4,1 triệu con, tăng trên 1 triệu con so với năm 1990, bình quân mỗi năm tăng 1,03%. Việc cơ giới hoá trong nông nghiệp cũng làm giảm bò cày kéo, nhưng nuôi bò lấy thịt và bò sữa phát triển mạnh để phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân . Năm 1993 dự án DANIDA về việc cải tạo đàn bò, đưa giống mới có vóc dáng to hơn được triển khai đã làm cho đàn bò thịt tăng tăng lên ở nhiều tỉnh thuộc mièn núi phía Bắc và Tây nguyên. Đàn bò sữa phát triển mạnh ở TP HCM, Hà Nội, Hà Tây... Riêng năm 20010 đàn bò sữa tăng 19,0% so với năm 19992000.
- Gia cầm:
Đàn gia cầm tăng 196,1 triệu con so với 109,0 triệu con năm 1991, trong đó đàn gà đạt 147,05 triệu con, tăng 66.76 triệu con so với năm 1992000. Sản lượng thịt gia cầm năm 20010 đạt 286,5 nghìn tấn so với 157,8 nghìn tấn năm 1991. Sản lượng trứng gia cầm năm 20010 đạt 3708.6 triệu quả, tăng 1670,6 triệu qua so với năm 1991. Nuôi gà công nghiệp phát triển mạnh ở các tỉnh Đông Nam Bộ như: Đồng Nai, Bình Dương và một số tỉnh miền núi phía Bắc.
- Đàn lợn:
Năm 20010 đàn lợn đạt 20,2 triệu con, tăng 7,9 triệu con so với năm 1991, bình quân tăng mỗi năm 1,05%. Đàn lợn phát triển do những năm qua đã có nhiều chương trình và dự án của nhà nước hỗ trợ nông dân chăn nuôi lợn, trong đó có chương trình xoá đói giảm nghèo. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 1,4 triệu tấn, gấp 2 lần năm 1990.
Số lương lợn
Biểu đồ 2
2.2. Lâm nghiệp.
Thành quả lớn nhất mà ngành lâm nghiệp đạt được trong những năm qua là vốn rừng được giữ vững và phát triển. Tổng diện tích rừng theo kiẻm kê vừa công bố năm 20010 đã đạt được 10,9 triệu ha, tăng 1,8 triệu ha so với với 1990, năng độ che phủ của rừng từ 27,7% năm 1990 lên 33,2% năm 20010, Sở dĩ đạt được kết quả trên một mặt do công tác nuôi trồng và khoanh nuôi tái sinh rừng đạt được kết quả cao, nhất là ở vùng Tây bắc và vùng Đông bắc; mặt khác chủ trương đóng của rừng để bảo vệ và phát triển vốn rừng đã được thực hiện nghiêm túc trong phạm vi cả nước. Thực hiện chủ trương này, phần lớn các lâm trường đã chuyển sang làm nhiệm vụ trồng và bảo vệ rừng và làm dịch vụ lâm cho cả vùng,viẹc khai thác gỗ giảm đến mức tối đa.
a. Giá trị sản xuất lâm nghiệp.
Giá trị sản xuất lâm nghiệp từ năm 1991 đến năm 20010 tăng bình quân mỗi năm 1,2%, trong đó thời kỳ 19961997-20010 mỗi năm tăng 0,4%. Tuy tăng chậm nhưng cơ cấu giá trị sản xuất lâm nghiệp biến đổi theo chiều hướng tích cực. Giá trị sản xuất lâm nghiệp, khoanh nuôi tái sinh và dịch vụ lâm nghiệp tăng lên chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Nếu năm 1990 giáa trị trồng và nuôi rừng chỉ chiếm 13,12% giá trị sản xuất thì những năm gần đây đã chiếm 20,0% giá trị khai thác lâm sản từ rừng trồng cũng tăng dần trong những năm gần đây.
b. Sản lượng gỗ, củi khai thác.
Trong 10 năm qua sản lượng gỗ khai thác cả nước của tất các thành phần kinh tế là 29,6 triệu m3, trong đó sản lượng gỗ khai thác của lâm nghiệp Nhà nước giảm từ 1,2 triệu m3/ năm trong những năm 90 xuống còn 0,6 triệu m3/năm trong những năm vừa qua. Năm 1990 sản lượng củi khai thác là 32,0 triệu ste. Năm 20001 giảm xuống chỉ cầàn 24,2 triệu ste. Gỗ, củi khai tác từ rừng trồng tuy giảm nhưng vẫn cung cấp đủ nguyên liệu cho công nghiệp giấy và gỗ trụ mỏ.
Từ năm 1990 đến nay cả nước đã trồng được 1.938,8 nghìn ha rừng tập trung bình quân, bình quân mỗi năm trồng 176,2 nghìn ha, trong đó giai đdoạn 1991-19951996 trồng 742,9 nghìn ha, bình quân mỗi năm trồn 148,5 nghìn ha; giai đoạn 19961997-20010 trồng 1.095,7 nghìn ha, bình quân mỗi năm trồng 219,4 nghìn ha. Như vậy, tốc độ trồng rừng tập trung qua từng giai đoạn rõ rệt, đặc biệt là Tây Nguyên những diện tchs rừng vẫn còn tăng. Trong 8 vùng thì vùng Đông Bắc có diện tích rừng trồng nhiều nhất, chiếm 1/3 diện tích rừng trồng của cả nước. Sau vùng Đông Bắc là vùng Bắc Trung Bộ, chiếm 1/5 diện tích. Hai vùng có diện tích đất trống đồi trọc tương đối lớn là Tây Nguyên và Tây Bắc nhưng phong trào trồng rừng còn yếu.
Chương trình trồng rừng mới 5 triệu ha được triển khai từ năm 19992000 đến nay đã được 2 năm và đạt kết quả như sau: Năm 19992000 đã trồng 230,1 nghìn ha; năm 20010 ước tính thực hiện 232,3 nghìn ha. Tổng cộng cả hai năm trồng được 462,4 nghìn, bình quân mỗi năm trồng 231,2 nghìn ha. Khoanh nuôi tái sinh được 77,0 nghìn ha. Các chỉ tiêu về rừng phòng hộ, khoanh nuôi kết hợp trồng bổ sung đều đạt được kế hoạch. Đây là một cố gắng lớn vì ngay khi bước vào thực hiện chương trình này đã gặp nhiều khó khăn. Đầu năm 19992000 hạn hán nặng và kéo dài, cuối năm lại lũ lụt liên tiếp. Trong hoàn cảnh đó, hầu hết các địa phương đã cố gắng khắc phục khó khăn, huy động thêm nguồn nhân lực tại chỗ để đảm bảo chi tiêu trồng rừng. Tuy nhiên, so với tiến bộ mỗi năm phải trồng 250,0 nghìn ha thì hai năm qua diện tích rừng kinh tế đạt thấp do chu kỳ kinh tế đạt chỉ tiêu đề ra. Sở dĩ như vậy vì trồng rừng kinh tế đạt thấp do chu kỳ cây rừng dài. Trong khi đó vốn vaytín dụng lãi xuất tới 7,0% nên các lâm trường và nhân dân không muốn vay để trồng rừng kinh doanh. Mặt khác, đầu ra cho lâm sản thu hoạch từ trồng gặp nhiều khó khăn, nguyên liệu giấy tiêu thụ không hết, giá thấp không bù đắp nổi chi phí sản xuất. Cơ chế khai thác, vận chuyển, tiêu thụ sản phẩm rừng trồng chưa được thật sự thông thoáng. Ngoài ra, công tác quy hoạch còn chậm. Hiện nay cả nước còn khoảng 10 triệu ha đất chưa sử dụng, nhưng ở một số địa phương chưa quy hoạch cụ thể.
c. Thiệt hại về rừng.
Từ năm 1991-20010 diện tích rừng bị cháy và bị phá 185,8 nghìn ha, bình quân mỗi năm thiệt hại 22 nghìn ha. Tỷ lệ rừng bị thiệt hại so với rừng trồng trong thời kỳ chiếm 12,6%. Trước năm 19951996 diện tích rừng bị mất bình quân mỗi năm 16,7 nghìn ha, nhưng 2 năm 19992000 và 20010, diện tích rừng bị thiệt hại giảm nhiều. Trong 9 tháng đầu năm 20010 cả nước chỉ thiệt hại khoảng 4 nghìn ha.
2.3. Thuỷ sản.
2.3.1. Kết quả đạt được.
Ngành thuỷ sản đã được kết quả khả quan trong 10 năm vừa qua. Tổng sản lượng thuỷ sản từ 890,6 nghìn tấn năm 1990 đã tăng lên đạt 2.148,8 nghìn tấn trong năm 20010. Tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 8,4%. Trị gia thuỷ sản xuất khẩu tăng nhanh trong những năm gần đây làm cho thuỷ sản trở thành một trong những ngành mũi nhọn để tăng kim ngạch xuất khẩu, mang lại nhiều ngoại tệ cho đất nước (Đứng thứ 3 sau ngành dầu khí và dệt may). Ngành thuỷ sản đã thu hút giải quyết việc làm cho gần 9 triệu lao động vào việc khai thác tiềm năng nguồn lợi thuỷ sản. Những thành tựu đó góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước.
.
Một số chỉ tiêu chủ yếu của ngành thuỷ sản 1990-20010
Chỉ tiêu chủ yếu
1990
19951996
19992000
Sơ bộ 20010
Giá trị sản xuất thuỷ sản (Tỷ đồng)
8135,2
13523,9
18252,9
20198,2
Sản lượng thuỷ sản (Nghìn tấn )
890,6
1584,4
2006,8
2148,8
Diện tích nuôi trồng (Nghìn ha)
295,8
453,6
524,6
535,0
Thụ nhập ngoại tệ (Triệu USD)
205,0
621,4
971,0
1300,0
Bảng 2
a). Thời kỳ 1991-19951996.
Khai thác thuỷ sản: Do nhận thức được tiềm năng to lớn của nguồn lựcôựi thuỷ sản ngoài khơi nên thời kỳ này ngành thuỷ sản đã tập trung khôi phục và đóng mới tàu thuyền đánh bắt thuỷ sản xa bờ. Hệ thống cầu cảng, bến cá cũng từng bước được xây dựng thêm.
Nuôi trồng thuỷ sản: Trong thời kỳ này phong trào nuôi trồng thuỷ sản bắt đầu chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá, Nuôi thuỷ sản thuộc vùng bãi bồi ven sông, nước mặn, lợ được nhà nước hỗ trợ vốn đầu tư. Hình thức và đối tượng nuôi trồng ngày càng đa dạng làm cho sản lượng và giá trị nuôi trồng tăng nhanh.
b) Thời kỳ 19961997-20010
Khai thác thuỷ sản: Nhà nước tậẩp trung 4000 tỷ đồng vốn tín dụng ưu đãi để đồngdongds mới và cải hoán trên 300 tàu đánh cá xa bờ và tập trung nguồn kinh phí khá lớn từ ngân sách cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ nghề cá trong các năm 19971998-20010. Nhờ vậy số tàu thuyền tăng đáng kể. Năm 19981999 có 5330 chiếc với tổng công suất 445980 CV; năm 19992000 đã có 6226 chiếc với tổng công suất 976882 CV
Nuôi trồng thuỷ sản: Nuôi trồng thuỷ sản cũng được nhà nước đầu tư trong thời kỳ này. Nghề nuôi trồng thuỷ sản tiếp tục phát triển theo chiều sâu, chuyển hướng sang nuôi tăng sản, nuôi quảng canh cải tiến và thâm canh. Các tỉnh ven biển và Đồng bằng Sông Cửu Long chuyển dần sang nuôi thuỷ sản nước lợ và nước mặn.
I. Đánh giá tình hình chuyển dịch cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp trong những năm qua
1. Những thành quả chuyển dịch cơ cấu nông, lâm ngư nghiệp
1.1 Cơ cấu kinh tế ngành đã có bước chuyển dịch theo hướng tích cực
Cơ cấu nông nghiệp (bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp) có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp, tăng tỷ trọng ngành thuỷ sản. Thuỷ sản trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản. Ngành thuỷ sản phát triển nhanh và ổn định, tỷ trọng giá trị sản xuất ngành thuỷ sản tăng từ 14,5% năm 19951996 lên 15,1% năm 20010
a. Trong ngành nông nghiệp tỷ trọng ngành trồng trọt, tỷ trọng cây lương thực có xu hướng giảm, tỷ trọng cây công nghiệp, cây ăn quả tăng từ 18,4% năm 19951996 lên 20,6% năm 20010. Diện tích gieo trồng các loại cây công nghiệp, cây ăn quả đã hình thành và phát triển vùng hàng hoá tập trung gắn với công nghiệp chế biến như các vùng cà phê, cao su, điều, tiêu, chè, mía, bông, vùng cây ăn quả. Diện tích cây công nghiệp dài ngày năm 20010 đạt gần 1,8 triệu ha, tăng gần 500 ngàn ha so với năm 19951996, một số cây công nghiệp có diện tích lớn như: cà phê 517 ngàn ha, gấp hơn 2,7 lần, cao su 407 ngàn ha tăng 46%, mía 303 ngàn ha tăng 35%, bông 19 ngàn ha tăng 8%, thuốc lá tăng trên 18% so với năm 19951996.
b. Trong ngành lâm nghiệp giá trị khai thác giảm mạnh giá trị trồng rừng, bảo vệ, chăm sóc rừng tăng đáng kể, độ che phủ của rừng từ 28% năm 19951996 lên 33% năm 20010. Ngoài việc bảo vệ 9,3 triệu ha rừng hiện có, đã trồng mới được 1,12 triệu ha rừng tập trung, bình quân mỗi năm trồng mới 230.000 ha; Khoanh nuôi tái sinh đạt 700.000 ha, bình quân 140.000 ha/năm. Phát triển lâm nghiệp bước đầu gắn với công nghiệp chế biến lâm sản, sản xuất giấy để phát triển kinh tế xã hội, tạo công ăn việc làm và góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, đặc biệt đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa
c. Trong ngành thuỷ sản tỷ trọng giá trị thuỷ sản nuôi trồng tăng từ 52% năm 19951996 lên 59% năm 20010; Tỷ trọng giá trị tôm nuôi tăng từ 71% năm 19951996 lên 74,1% năm 20010
1.2 Cơ cấu sản phẩm ngành nông, lâm, ngư nhiệp chuyển dịch theo hướng tăng sản phẩm hàng hoá xuất khẩu
Tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu của ngành nông nghiệp tăng nhanh, năm 19951996 xuất khẩu bằng 37% GDP nông nghiệp, năm 20010: 40%. Trong đó tỷ lệ hàng nông sản xuất khẩu so với sản lượng làm ra như sau: gạo: 3,5 triệu tấn, tăng từ 12% lên 25%, cà phê: 694/698 ngàn tấn = 95%, cao su: 280/291 ngàn tấn = 85%, chè 44,7/76,5 ngàn tấn 42%, hạt điều 26 ngàn tấn trên 90%, hồ tiếu 36,2/37 ngàn tấn = 99%,…... Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản năm 20010 đạt 4,308 tỷ USD, tăng gấp 1,7 lần so với năm 19951996 (2,52 tỷUSD).
Tỷ trọng công nghiệp chế biến, dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn tăng dần đến nay chiếm khoảng 30%. Riêng công nghiệp chế biến nông lâm sản những năm gần đây tăng trưởng khá từ 12 đến 14%/năm. Thời kỳ 19961997 -20010 sản lượng đường chế biến công nghiệp tăng 7 lần, cà phê tăng 5 lần, cao su trên 4 lần, xay xát goạ tăng 2,3 lần.
1.3 Cơ cấu chất lượng ngành sản xuất nông nghiệp dịch chuyển theo hướng nâng cao chất lượng giống cây, giống con, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập nông dân
Cho đến nay đã có tới 90% diện tích gieo trồng lúa, 60% diện tích gieo trồng ngô, trên 80% diện tích mía đước áp dụng các giống mới. Nhờ nâng cao chất lượng, giá xuất khẩu nhiều loại gạo của Việt Nam đã ngang bằng Thai Lan.
Năng suất cây trồng 5 năm 19961997 - 20010 tăng khá: lúa tăng 15,2%, ngô tăng 28%, bông tăng 38,3%, cao su tăng 51,7%, cà phê tăng 15,3%, chè tăng 37,6%…...
Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 5% (mục tiêu là 4,5 - 5%) và giá trị sản xuất ra trên một ha đất nông nghiệp tăng từ 13,5 triệu đồng/ha năm 19951996 lên 17,5 triệu ha năm 20010
Thu nhập và mức sống dân cư nông thôn không ngừng cải thiện, bình quân thu nhập đầu người một tháng đã tăng từ 172 ngàn (19951996) lên 225 ngàn đồng(20010); tỷ lệ hộ nghèo đói đã giảm 20%(19951996) xuống 10% (20010) theo tiêu chí cũ, đồng thời tỷ lệ hộ nông dân có nhà kiên cố, có tivi, xe máy tăng lên, hàng triệu hộ nông dân đã trở thành giàu có
2. Những tồn tại trong chuyển dịch cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp
2.1. Cơ cấu ngành nông, lâm, ngư nghiệp còn lạc hậu
Việt Nam là nước đang phát triển, tỷ trọng GDP ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm trên 23,1% (năm 20010). Cơ cấu ngành nông, lâm, ngư nghiệp được hình thành mang tính tự phát theo điều kiện thiên nhiên và theo nhu cầu cuộc sống đến nay thu nhập (GDP) từ nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao 86,04% năm 20010, thu nhập (GDP) từ lâm nghiệp chỉ chiếm 4%, thu nhập (GDP) từ ngư nghiệp khá lớn cũng chỉ chiếm chưa đến 10%. Trong ngành nông nghiệp tỷ trọng trồng trọt chiếm rất lớn 80,34% trongkhi chăn nuôi chỉ chiếm 17,12%, dịch vụ chỉ chiếm 2,54%. Nhìn chung với cơ cấu ngành nông lâm ngư nghiệp như trên hiệu quả kinh tế, thu nhập nông dân đương nhiên là rất thấp vì trọng tâm sản xuất của chúng ta đang ở những ngành, lĩnh vực có hiệu quả kinh tế thấp như nông dân ta chủ yếu trồng cây lương thực mà hiệu quả trồng cây lương thực thấp hơn cây công nghiệp, hiệu quả trồng trọt thấp hơn chăn nuôi và dịch vụ, hiệu quả của nông nghiệp thấp hơn thuỷ sản và chế biến…...
2.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành nông, lâm, ngư nghiệp còn chậm, mang tính tự phát chạy theo thị trường
Trong 5 năm 19961997 -– 20010, tỷ trọng ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong nền kinh tế chỉ giảm được 3,08% (từ 26,24% xuống 23,16%). Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp rất chậm: tỷ trọng giá trị sản xuất ngành nông nhgiệp giảm 0,9%, giá trị sản xuất lâm nghiệp giảm 0,77% và giá trị sản xuất ngành thuỷ sản tăng 1,67%. Cơ cấu trong ngành nông nghiệp cũng chuyển d
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0014.doc