Đề tài Phương hướng đầu tư phát triển ngành công nghiệp da giầy đến năm 2010

Vấn đề phát triển các cơ sở sản xuất vật tư, nguyên vật liệu làm giầy ở trong nước sẽ tạo khả năng chủ động trong cung ứng vật tư nguyên phụ liệu, tạo thêm công ăn việc làm và tăng hiệu quả kinh tế.

-Về thuộc da : Trước mắt cần tập trung củng cố, sắp xếp hoàn thiện các cơ sở thuộc da hiện có để khai thác năng lực thiết bị đã được đầu tư kịp thời cho nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ nội địa, đồng thời đáp ứng về công tác bảo vệ môi trường đặc biệt tại hai khu vực Hà Nội và Thành phố Hồ CHí Minh. Song song với việc cần xây dựng một số cơ sở thuộc da mới có quy mô ở khu vực phía bắc và phía nam nhằm đạt được sản lượng da thuộc như mục tiêu đề ra là 80 triệu sqft đến năm 2010.

-Về các vật liệu khác cho mũi giầy và đồ da.

Cần kết hợp với các ngành chất dẻo dệt may, hoá dầu và các đối tác nước ngoài để giải quyết những nguyên liệu này sao cho tiến đến có thể tự sản xuất được đa số các loại nguyên vật liệu này.

-Về các vật liệu đế giầy.

Chủ động nghiên cứu, giải quyết các vật liệu đế giầy ứng với mỗi loại đế giầy cụ thể. Ngoài ra ngành cần có chính sách thích hợp để giúp cho các cơ sở sản xuất trong nước có đủ khả năng cung ứng các loại vật liệu đế giầy, khuôn, phụ tùng, phụ liệu.

-Giải quyết khuôn, phụ tùng, phụ liệu bằng kim loại và phi kim loại.

 Ngành cần đầu tư xây dựng các xưởng kim khí nhỏ độc lập hoặc các xưởng phụ tùng tại nhà máy cơ khí chuyên ngành hay các nhà máy nhựa nhiệt cứng, nhựa nhiệt dẻo để chế tạo các loại khuôn mẫu phụ tùng, phụ liệu, trang sức rất đa dạng cho giầy, đồ da. Chỉ có huy động khuyến khích các lực lượng tư nhân, tiểu thủ công cùng tham gia phục vụ thì mới phát huy được hết tính năng động, sáng tạo cho nhu cầu sử dụng nguyên vật liệu của ngành.

 

doc25 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1218 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng đầu tư phát triển ngành công nghiệp da giầy đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đủ. Lt = Ld +Lind (Lind: số lao động có việc làm gián tiếp) Ivt = ivd +ivind (ivind: số vốn đầu tư gián tiếp ) Chỉ tiêu 3: Mức tiết kiệm ngoại tệ. Một nhiệm vụ cơ bản khi xem xét lợi ích kinh tế xã hội của dự án là xem xét tác động của dự án đến các cân thanh toán của dất nước. Xác định chỉ tiêu mức tiết kiệm ngoại tệ của dự án cho biết mức đóng góp vào cán cân thanh toán của đất nước. Bước 1: Xác định chênh lệch thu chi ngoại tệ của dự án xem xét. Phần chênh lệch này được tính cho cả đời dự án và từng năm. Bước 2: Xác định mức thu ngoại tệ của dự án có liên quan xem xét (chênh lệch gián tiếp ). Bước 3: Tính mức chênh lệch thu chi ngoại tệ dự án trực tiếp và gián tiếp bằng cách cộng bước1 và bước2. Bước 4: Xác định số ngoại tệ tiết kiệm do sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu không phải nhập của nước ngoài. Bước 5: Xác định mức tiếp kiệm ngoại tệ bằng cách cộng toàn bộ mức chênh lệch của bước 3 và bước4. Chỉ tiêu 4: Tác động của dự án tới việc phân phối thu nhập trong xã hội. Bước 1: Tính mức gia tăng phân phối hàng năm cho các nhóm đối tượng. Bước 2: Tính mức giá trị gia tăng phân phối cho vùng. Chỉ tiêu này được tính bằng phần giá trị gia tăng phân phối hàng năm cho các nhóm đối tượng thuộc vùng đó. Bước 3: Xác định tỷ trọng giữa giá trị gia tăng phân phối hàng năm cho từng nhóm đối tượng so với tổng mức giá trị gia tăng hàng năm của dự án Chỉ tiêu 5: Khả năng cạnh tranh quốc tế. Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm do dự án sản xuất ra trên thị trường quốc tế. Phương pháp tính chỉ tiêu này như sau: -Xác định P(FE). Tính đầu vào của dự án từ nguồn trong nước (vốn đầu tư, nguyên vật liệu, dịch vụ kết cấu hạ tầng, tiên lương trả cho người lao động trong nước...)phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu. Giá trị các đầu vào này được tính theo giá thị trường trong nước điều chỉnh, ở mặt bằng thời gian hiện tại và tỷ giá hối đoái điều chỉnh. So sánh số ngoại tệ tiết kiệm với giá trị các đầu vào trong nước. Nếu tỷ số này >1 thì sản phẩm của dự án có khả năng cạnh tranh quốc tế. Ta có : Trong đó: iC: là chỉ tiêu biểu thị khả năng cạnh tranh quốc tế DR: là các đầu vào trong nước dùng để sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Chỉ tiêu 6: Một số tác động khác của dự án. III. Một số vấn đề về ngành công nghiệp da giầy. Đặc điểm của ngành công nghiệp da giầy. Khi nghiên cứu hoạt động đầu tư trong ngành da giầy chúng ta thấy được các đặc điểm nổi bật như sau: Một là, Ngành công nghiệp da giầy là ngành thu hút nhiều lao động xã hội. Số lao động có việc làm tính đến năm 1999 vào khoảng 300000 người, ngoài ra tạo thêm nhiều việc làm gián tiếp thông qua việc phát triển các ngành nghề phụ như chăn nuôi gia súc... Hai là, Ngành công nghiệp da giầy là ngành có công nghệ đơn giản hơn so với các ngành công nghiệp khác, cần ít vốn đầu tư nhưng có hiệu quả kinh tế cao. Mặc dù đặc điểm là thiết bị gản đơn song ngành công nghiệp da giầy hiện nay vẫn phải mua máy móc thiết bị, công nghệ của nước ngoài. Ba là, Ngành công nghiệp da giầy nước ta hiện nay có hệ thống công nghệ, máy móc thiết bị tương đối lạc hậu. Bốn là, Ngành công nghiệp da giầy phụ thuộc tương đối vào nước ngoài về các nguyên liệu đầu vào. Năm là, Ngành da giầy là ngành sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu ăn mặc, thời trang. Sản phẩm sản xuất ra chủ yếu để xuất khẩu. Vì vậy đặc điểm của ngành da giầy là luôn có sự đổi mới về mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng sản phẩm. Sáu là, Là ngành có tiềm năng xuất khẩu tương đối lớn, thu được nhiều ngoại tệ cho đất nước. Vai trò của ngành công nghiệp da giầy Cùng với một số ngành công nghiệp khác, ngành công nghiệp da giầy được nhà nước đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển, đưa ra cấc kế hoạch định hưóng tới năm 2010, bởi lẽ nó có một vai trò tương đối quan trọng trong công cuộc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vai trò của ngành công nghịêp da giầy được biểu hiện qua một số điểm như sau: Một là, Giải quyết công ăn việc làm cho toàn xã hội. Đây là một vai trò to lớn của ngành bởi vì trong giai đoạn phát triển kinh tế của chúng ta hiện nay thì vấn đề việc làm trở thành gánh nặng cho Nhà nước. Với việc tăng trưởng và phát triển còn khiêm tốn thì việc phát triển các ngành nghề giải quyết được nhiều việc làm, đặc biệt là các việc làm thủ công, không đòi hỏi trình độ cao trở lên hết sức quan trọng. Hai là, Đóng góp vào tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong những năm qua sự phát triển của ngành công nghiệp da giầy đã đem lại cho Nhà nước nhiều khoản thu, thông qua việc mở rộng sản xuất, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu. Tăng thu ngoại tệ, làm giảm bớt sự thâm hụt trong cán cân thanh toán. Tạo ra sự tăng trưởng và phát triển tương đối trong những năm vừa qua. Ba là, Đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Bốn là, Có vai trò trong việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên trong nước. 3.Vai trò đầu tư với việc phát triển ngành da giầy. Trong những năm vừa qua ngành da giầy đã có những bước đi mang tính đột phá. Sản phẩm không ngừng tăng, quy mô không ngừng phát triển. Đã tạo ra cho mình một vai trò, vị trí tương đối trong việc thúc đẩy sự phát triển nền sản xuất kinh tế xã hội. Đóng góp không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển cuả đất nước. Để có được những kết quả đó chúng ta phải kể đến vai trò của hoạt động đầu tư phát triển. Thông qua hoạt động đầu tư mà tác động đến ngành da giầy được cụ thể ở một số vai trò như sau. -Thứ nhất: Đầu tư tác động đến quy mô của ngành da giầy. Nhờ có chính sách khuyến khích của Nhà nước, thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, cùng với sự phát triển của ngành giầy thế giới và các nước trong khu vực. Các hoạt động đầu tư phát triển của ngành da giầy ngày càng nhiều và hiệu quả, tác động đến quy mô, chất lượng, chủng loại sản phẩm. Cụ thể tính đến năm 1998 ngành công nghiệp da giầy Việt Nam có 196 doanh nghiệp, trong đó: +Doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước có 109 đơn vị. +Các doanh nghiệp sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân có 34 đơn vị. +Các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài có 39 đơn vị. +Các doạnh nghiệp liên doanh có 14 đơn vị. Quy mô sản phẩm không ngừng tăng lên, năm sau cao hơn nhiều so với năm trước. Theo số liệu thống kê thì năm 1998 toàn ngành đã sản xuất được 300 triệu đôi giầy dép các loại; 26 triệu đôi túi, cặp; 17 triệu(SQFT) da thuộc các loại. Đến năm 1999 với 550 dây chuyền sản xuất đồng bộ các loại sản lượng đã tăng là 80 triệu đôi giầy dép các loại, bốn triệu cặp túi và năm triệu sản phẩm da thuộc. Qua đây ta có thấy được vai trò của đầu tư đối với sự phát triển quy mô của ngành da giầy. -Thứ hai : Đầu tư tác động đến sự phát triển trình độ kỹ thuật sản xuất, trình độ quản lý. Bằng việc đầu tư cải tiến công nghệ, mua linh kiện, thiết bị mới đồng thời thông qua tăng cường đầu tư hợp tác với liên doanh với các doanh nghiệp nhà đầu tư nước ngoài mà trình quản lý của cán bộ kỹ thuật và công nhân được nâng cao, tính năng động, tính sáng tạo và sự khéo léo của lực lượng lao đông trẻ được phát huy. Trình độ quản trị kinh doanh của các cán bộ quản lý, ý thức kỷ luật có nhiều tiến bộ. -Thứ ba: Đầu tư tác động đến sức cạnh tranh của sản phẩm của ngành da giầy trên thị trường thế giới. Thông qua hoạt động đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra các hình thức mẫu mã phù hợp, thời trang mà trong những năm qua các sản phẩm của ngành chiếm được một số thị trường mới và đầy tiềm năng như EU, Mỹ, Nhật và đồng thời khôi phục lại một số thị trường truyền thống như Nga và các nước Đông Âu. Trên đây là một số vai trò cơ bản của đầu tư đã tác động trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển ngày càng mạnh của ngành da giầy trong một số năm qua. Song thông qua sự phát triển một cách nhanh chóng mà ngành da giầy cũng tác động trở lại đến đầu tư. Bởi vì sự tăng trưởng và phát triển nhanh tạo ra một môi trường đầu tư tương đối hấp dẫn. Do đó mà Nhà nước cũng như các doanh nghiệp, các nhà đầu tư đều có kế hoạch, chiến lược đầu tư phát triển ngành da giầy trong tương lai. PhầnII: Thực trạng đầu tư phát triển ngành da giầy. I.Thực trạng đầu tư phát triển ngành da giầy trong thời gian qua. Trong thời gian qua ngành công nghiệp da giầy đã có một bước phát triển đột phá. Tốc độ phát triển không ngừng tăng, để có được điều đó trước hết phải kể đến vai trò của đầu tư. Chúng ta có thể thấy rõ được vấn đề này qua việc đánh giá thực trạng của ngành da giầy trong một số năm qua. 1.Vốn đầu tư qua các năm. Trong giai đoạn 1990 – 1995 toàn ngành đã đầu tư khoảng 2200 tỷ đồng bằng nguồn vốn trong nước và khoảng 300 triệu USD bằng nguồn vốn nước ngoài thông qua các hình thức đầu tư như là xí nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Và trong giai đoạn 1996 – 2000 vốn đầu tư toàn ngành vào khoảng 1540 tỷ đồng cho đầu tư nguyên vật liệu phụ tùng và khoảng 325 triệu USD cho đầu tư phát triển sản xuất. Chúng ta có thể thông qua các số liệu về vốn đầu tư thực hiện qua các năm của tổng công ty da giầy Việt Nam để đánh giá về tình hình đầu tư của toàn ngành. Bảng 1: Vốn thực hiện đầu tư qua các năm. Năm Thực hiện (triệu đồng) Kế hoạch (triệu đồng) Tỷ lệ (%) Tốc độ phát triển liên hoàn(%) 1995 332526 - - - 1996 36104 60174 60.00 111.00 1997 39689 59727 66.45 109.93 1998 44740 70110 63.81 112.73 1999 79930 155000 51.57 178.65 2000 - Dự kiến: 205000 - - Qua bảng ta thấy mặc dù tốc độ vốn đầu tư thực hiên tăng liên tục qua các năm(1996 tăng 11% so với năm 1995, năm 1997 tăng 9.93% so với năm 1996...). Tuy nhiên qua bảng ta thấy vốn đầu tư thực hiện hầu như chỉ bằng khoảng 50 đến 60% vốn đầu tư kế hoạch đề ra. Qua đó ta thấy được thực trạng trong ngành da giầy là việc huy động vốn đầu tư còn nhiều hạn chế. Ngành còn cần rất nhiều vốn để đầu tư phát triển trong khi đó các nguồn đáp ứng còn hạn chế, và các giải pháp về huy động, khuyến khích đầu tư từ mọi thành phần kinh tế còn chưa hợp lý. 2.Quy mô vốn đầu tư. Về quy mô vốn đầu tư hiện nay của ngành da giầy nhìn chung vẫn còn nhỏ chỉ có các dự án đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài là tương đối lớn. Ta có thể so sánh quy mô vốn đầu tư cho một dự án của tổng công ty da giầy với quy mô đầu tư cho một dự án của nước ngoài vào ngành da giầy Việt Nam qua hai bảng số liệu sau: Bảng 2: Quy mô bình quân dự án đầu tư của tổng công ty da giầy Việt Nam từ năm 1996 đến năm 1998. Đơn vị: triệu đồng 1996 1997 1998 Tổng Vốn đầu tư thực hiện 36104 39689 44740 120533 Số dự án 5 5 6 16 Vốn đầu tư /số dự án 7220.8 7937.8 7456.7 7533.3 Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch 1996, 1997, 1998. Bảng 3: Quy mô bình quân dự án đầu tư nước ngoài vào ngành da giầy Việt Nam. Đơnvị: 1000 USD Liên doanh 100% vốn đầu tư nước ngoài Tổng Vốn đầu tư thực hiện 56545.9 425883.2 482429.1 Số dự án 14 39 53 Vốn đầu tư /số dự án 4038.99 10920.08 9102.43 Qua 2 bảng (2) và (3) ta thấy quy mô đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài(nếu lấy tỷ giá hối đoái là 10000/USD) là 9102.43 triệu đồng trên một dự án gấp 12.1 lần dự án dự án đầu tư của tổng công ty da giầy Việt Nam. Điều này cho thấy phần lớn quy mô các doanh nghiệp da giầy của Việt Nam còn rất nhỏ, do đó dẫn đến khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài không cao. Và từ đây cũng cho thấy việc đầu tư trong những năm qua của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế Việt Nam còn mang tính tự phát, thiếu quy hoạch, kế hoạch đầu tư cụ thể, việc phân bổ sản xuất còn chưa theo quy hoạch chung, manh mún và phân tán. 3.Cơ cấu vốn đầu tư. Theo số liệu thống kê cho biết trong khoảng từ năm 1992 đến năm 1997 tổng số vốn đầu tư toàn ngành vào nhà xưởng, thiết bi trong lĩnh vực sản xuất giầy, đồ da là vào khoảng 6000 tỷ đồng trong đó phần thiết bị chiếm khoảng 3500 tỷ đồng. Trong lĩnh vực thuộc da, tuy ít có sự đầu tư lớn và đồng bộ các cơ sở sản xuất da thuộc cũng đã đầu tư trên 200 tỷ đồng vào nhà xưởng, thiết bị, trong đó khoảng 140 tỷ đồng dành cho các loại thiết bị thuộc da. Chúng ta có thể thông qua các số liệu về tỷ lệ đầu tư của tổng công ty da giầy Việt Nam để thấy được vấn đề này. Bảng 4: Vốn đầu tư và thiết bị nhà xưởng. Đơn vị: tỷ đồng. Năm Vốn đầu tư Trong đó Nhà xưởng Thiết bị Tỷ trọng(%) 1 2 3 2/1 3/1 1996 33.404 225.904 7.5 77.55 22.45 1997 28.146 16.753 11.393 59.52 44.48 1998 44.510 14.073 30.437 31.62 68.32 Tổng 106.06 56.73 41.81 53.00 47.00 Nguồn : Báo cáo thực hiện kế hoạch 1996, 1997, 1998 - Tổng công ty da giầy Việt Nam. Qua bảng trên, chúng ta có thể thấy vốn đầu tư cho máy móc thiết bị hàng năm tăng lên rất nhanh. Tuy nhiên trong cơ cấu đầu tư giá trị vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản vẫn chiếm một tỷ trọng tương đối lớn, cụ thể năm 1996 chiếm 77.55% và năm 1997 chiếm 59.52% và năm 1998 chiếm 31,6 2% tổng vốn đầu tư. Từ đó, cho thấy cơ cấu vốn đầu tư giữa vốn cho xây dựng cơ bản và vốn cho máy móc thiết bị còn chưa hợp lý. ở các nước tiên tiến trên thế giới tỷ lệ này là xây cơ bản chiếm khoảng 30 đến 35%, máy móc thiết bị chiếm khoảng 65 đến 70%, còn ở nước ta thì ngược lại. Điều này chứng tỏ trình độ sản còn thấp còn mang nặng tính thủ công của nước ta. Tuy nhiên qua bảng ta cũng thấy được tỷ lệ đầu tư cho xây dựng ngày càng giảm và thay vào đó là đầu tư cho máy móc thiết bị ngày càng tăng phản ánh trình độ máy móc thiết bị ngày càng phát triển. Và qua đó cho thấy chúng ta đang có một hướng phát triển ngành da giầy một cách đúng đắn và triển vọng. 4.Cơ cấu đầu tư theo ngành hàng, mặt hàng. Hiện nay cơ cấu vốn theo ngành hàng, mặt hàng, còn nhiều bất cập. Hầu hết lượng vốn đầu tư chủ yếu là vào ngành giầy, rất ít lượng vốn được đầu tư vào phát triển ngành da thuộc, nguyên vật liệu,phụ tùng. Theo số liệu thống kê thì giai đoạn 1992 đến 1997 ngành da giầy đầu tư 6000 nghìn tỷ đồng vào lĩnh vực sản xuất da giầy trong khi đó chỉ có 200tỷ đồng được đầu tư vào lĩnh vực thuộc da. Một vấn đề nữa là cơ cấu vốn đầu tư vào mặt hàng của chúng ta còn thiếu cân đối. Chúng ta có thể xem xét vấn đề này qua cơ cấu vốn đầu tư theo mặt hàng của tổng công ty da giầyViệt Nam để thấy được điều này. Theo tổng kết cho thấy hầu hết vốn đầu tư thực hiện của công ty được đầu tư vào sản xuất giầy dép. Cụ thể là vào cuối năm 1998, trong số 120533 triệu đồng vốn đầu tư thực hiện thì vốn đầu tư vào sản xuất giầy dép là 110888 triệu đồng, chiếm 92%. Ta có thể thấy sự phân phối vốn đầu tư qua bảng sau: Bảng 5: Cơ cấu vốn đầu tư theo mặt hàng. Đơn vị: triệu đồng Tên mặt hàng Vốn đầu tư Tỷ trọng (%) Giầy vải 46682 42.1 Giầy thể thao 5026 4.53 Giầy nữ 36485 32.9 Giầy da nam 0 0 Giầy da nữ 10076 9.09 Dép 12619 11.38 Túi cặp 0 0 Tổng 110888 100 Từ bảng trên ta thấy tỷ trọng vốn đầu tư vào mặt hàng giầy vải (42.1%), giầy nữ(32.9%) là rất lớn, ngược lại vốn đầu tư vào sản xuất các mặt hàng giầy thể thao, giầy da nam, nữ lại quá ít. Trong khi đó xu hướng tiêu dùng trong thời gian tới các loại giầy dép thời trang sẽ được quan tâm và tiêu dùng nhiều hơn điều đó chứng tỏ chúng ta cần phải điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho hợp lý hơn, phù hợp hơn để ngành da giầy trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Để tất cả các thành phần trong ngành da giầy có thể cạnh tranh được trên thị trường quốc tế trong thời gian tới. 5.Đầu tư vào lao động. Ngành da giầy có số lượng lao động đến nay có khoảng 300000 người, song so với yêu cầu thì vẫn còn thiếu hụt một lượng rất lớn về đội ngũ cán bộ, công nhân được đào tạo chuyên sâu nhất là về công nhân trong khâu kỹ thuật và thiết kế sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật chuyên ngành phần lớn được đào tạo ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào những năm 1970 – 1980. Trong những năm gần đây hầu như không có sự bổ sung gì loại trừ một số cán bộ kỹ thuật về thuộc da được đào tạo dưới sự hỗ trợ của các chuyên gia UNiDO, hoặc được đào tạo ở một số nước như Italia, Xingapore, Hà Lan. Trong nước chưa có trường lớp đào tạo kỹ sư, công nhân chuyên ngành da giầy. Tổng công ty da giầy Việt Nam là trung tâm của hiệp hội da giầy Việt Nam, có sản lượng cũng như kim nghạch xuất nhập khẩu chiếm khoảng 17 đến 19% toàn ngành. Năm 1997 số lao động bình quân trong tổng công ty là 19703 người trong đó lao động có trình độ cao đẳng và đại học chiếm tỷ lệ thấp 3.69%, lao động bậc 3 trở lên chiếm khoảng 11.72% còn lại là lao động bậc thấp. Đối với các doanh nghiệp tư nhân thì vấn đề về lao động có trình độ kỹ thuật, tay nghề cao còn trở nên cấp bách hơn vì đa số các doanh nghiệp này không có được đội ngũ cán bộ kỹ thuật được đào tạo cơ bản, số cán bộ có trình độ đại học chiếm tỷ lệ không đáng kể. Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì tình hình lao động có khả quan hơn, vì thông qua các dự án này cán bộ, công nhân của doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc với các chuyên gia nước ngoài. Từ đó trình độ tay nghề của công nhân, cán bộ kỹ thuật, quản lý sản xuất... được nâng cao. Qua việc đánh giá trình độ, số lượng công nhân của tất cả các thành phần trong ngành da giầy trên ta thấy được thực trạng đầu tư vào lực lượng lao động có trình độ, kỹ thuật còn rất ít. Từ đó hiệu quả đầu tư cũng như khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của chúng ta trong những năm qua còn bị hạn chế. Vấn đề cấp bách ở đây phải tăng cường đầu tư đào tạo thật tốt các cán bộ có chuyên môn cao để đáp ứng được phương hướng phát triển của Ngành trong thời gian tới. 6.Nguồn vốn đầu tư Để có được kết quả tăng trưởng và phát triên tốt trong những năm vừa qua thì ngành da giầy phải đầu tư một lượng vốn tương đối lớn. Để đáp ứng được nhu cầu về vốn này ngành da gíầy đã phải huy động tất cả các nguồn vốn trong và ngoài nước. Chúng tă có thể xem xét thực trạng về nguồn vốn đầu tư của Ngành thông qua các nguồn vốn đầu tư của tổng công ty da giầy Việt Nam. Bẳng 6: Các nguồn vốn đầu tư của tổng công ty da giầy Việt Nam năm 1996 – 1997. Stt Nguồn vốn đầu tư 1996 1997 Giá trị (tỷ đồng) % so với tổng mức Giá trị (tỷ đồng) % so với tổng mức 1 Tín dụng Nhà nước 6.136 17 12.430 43.3 2 Khấu hao cơ bản để lại 2.199 6 1.700 5.9 3 Lợi tức sau thuế 0.350 1 - - 4 Vay nước ngoài và vay khác 27.419 76 14.555 50.8 5 Tổng mức 36.104 100 28.685 100 Qua bảng trên ta có thể thấy cơ cấu các nguồn vốn đầu tư còn chưa hợp lý, cụ thể là nguồn vốn tự đầu tư của ngành còn rất thấp, năm 1996 tỷ lệ này của tổng công ty da giầy chỉ chiếm 7% (tính cả khấu hao cơ bản để lại), năm 1997 chỉ có 5.9%. Hơn nữa cũng trong năm 1996 nguồn khấu hao cơ bản trở lại tái đầu tư chỉ đạt 13.5% so với tổng trích khấu hao là 16.285 tỷ đồng. Điều này phản ánh gánh nặng về nợ của các doanh nghiệp là rất lớn. Tỷ lệ nguồn vốn vay nước ngoài và vay khác lại quá nhiều, tổng công ty da giầy là 76 % năm 1996 và 50.8% năm 1997 trong tổng số các nguồn vốn huy động đầu tư. II.Hiệu quả của hoạt động đầu tư trong ngành công nghiệp da giầy qua các giai đoạn. 1.Giai đoạn 1990 - 1995 a.Những thành tựu đạt được Đây là giai đoạn ngành da giầy Việt Nam vượt qua cơn suy thoái, khó khăn thử thách (từ năm 1990 đến 1992) và phát triển (từ năm 1993 đến năm 1995), đồng thời là giai đoạn ngành da giầy thực hiện nghị quyết lần thứ Vii của Đảng. Do đó ta có thể thấy được trong giai đoạn này ngành da giầy có nhịp độ phát triển rất cao, vượt nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch định hướng 1990 đến năm 1995, tạo nhiều cơ hội cho các sản phẩm giầy đồ da Việt Nam hội nhập vào thị trường khu vực và quốc tế. Năng lực sản xuất năm 1995 tăng 7 đến 9 lần so với năm 1992. Bình quân hàng năm tăng trưởng về sản lượng trên 40%, về giá trị xuất khẩu trên 50% vượt 15% so với kế hoạch định hướng. Trong giai đoạn này đã tạo ra một số hiệu quả về mặt xã hội rất tích cực. Trước năm 1990 chỉ có làm việc làm cho trên 25 nghìn lao động tại các xí nghiệp quốc doanh là chính, đến giai đoạn này đã thu hút được gần 200 nghìn người vào làm việc cho ngành da giầy. Đó là chưa kể đến số lao động đang làm việc trong lĩnh vực dịch vụ và sản xuất nguyên vật liệu cho ngành da giầy. Trình độ kỹ thuật và tay nghề của cán bộ và công nhân được nâng cao nhiều lần, trình độ kinh doanh của cán bộ quản lý, ý thức kỷ luật trong lao động cũng có nhiều tiến bộ. Trong giai đoạn này cũng phát triển khá mạnh các mối quan hệ với các thị trường nước ngoài. Thiết lập được nhiều bạn hàng lâu dài, bền vững, có tiềm lực về tài chính, kỹ thuật trong đó có cả các hãng giầy lớn như NiKE, REEBOK, BATA... các sản phẩm từ da và giả da của Việt Nam như giầy, túi, cặp... đã có mặt ở các thị trường Tây Âu, Đông Âu, Bắc Mỹ, Đông á... cùng với nhiều nhãn hiệu có uy tín trên thị trường quốc tế. Thành tựu trên lĩnh vực xuất khẩu giầy da là nhân tố quan trọng để mở rộng sản xuất, tạo môi trường thuận lợi cho kỹ thuật, công nghệ giai đoạn này được đầu tư phát triển, tham gia ngày càng tích cực vào cộng đồng giầy dép quốc tế. b.Những tồn tại và yếu kém. Đây là giai đoạn đầu phát triển ngành da giầy, chúg ta đã đạt được nhiều thành công rực rỡ. Tuy nhiên, trong giai đoạn này vẫn còn tồn tại những nhược điểm, hạn chế, yếu kém cần khắc phục. Cụ thể: -Sản phẩm của ngành da giầy giai đoạn này lệ thuộc quá nhiều vào việc cung ứng nguyên vật liệu, phụ liệu, hoá chất, phụ tùng máy móc từ nước ngoài và nhất là từ chính các đối tác đặt sản xuất hoặc mua sản phẩm của chúng ta. Yếu kém này đã làm hạn chế rất nhiều về hiệu quả sản xuất cũng như lợi ích của các doanh nghiệp và Nhà nước. -Tình trạng yếu kém tài lực, vốn đầu tư đều phải vay trung hạn với lãi suất cao nên 70% các doanh nghiệp Việt Nam phải thực hiện gia công sản phẩm cho nước ngoài. -Ngoài sự yếu kém về vốn, giai đoạn này mới phát triển nên chưa có đủ uy tín và điều kiện để trực tiếp xuất sản khẩu sản phẩm, mà phải thông qua nhiều tầng, nấc trung gian mới đưa được hàng đến tận nơi tiêu thụ ở nước ngoài. Trình độ quản lý kĩ thuật công nghệ, thiết kế và phát triển mẫu mốt, quản lý và vận hành sản xuất kinh doanh của cán bộ Việt Nam còn yếu kém do mới hình thành ngành kinh tế kỹ thuật, chưa có trường lớp đào tạo. Phần lớn các bộ Việt Nam chưa thể tự mình chủ động độc lập điều hành sản xuất một cách khoa học, đồng bộ, đúng tiến độ và chất lượng. 2-Giai đoạn từ năm 1996 đến nay. Những thành tựu đạt được. Đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ và thành công của ngành da giầy Việt Nam.Với sự tăng trưởng và phát triển liên tục Ngành đã đem lại một lượng ngoại tệ lớn cho đất nước thông qua xuất khẩu sản phẩm của nình. Đồng thời còn tạo thêm hàng chục nghìn chỗ việc làm mới. Chúng ta có thể thấy được hiệu quả kinh tế xã hội mà ngành tạo được thông qua việc xem xét hiệu quả kinh tế xã hội của tổng công ty Da Giầy Bảng 7:Kết quả đạt được của tổng công ty da giầy Việt Nam. Chỉ tiêu Đơn vị 1996 1997 1998 Giá trị xuất khẩu Triệu đồng 134965 192298 187920 Nộp ngân sách - 12957 11700 12300 Lao động - 20930 20956 20006 Vốn đầu tư - 36104 39689 44740 Nộp NS/VĐT - 0.36 0.29 0.27 Lao động/VĐT - 0.06 0.07 0.07 Qua bảng ta thấy tổng công ty đã tạo công ăn việc làm cho hơn 20000 người lao động, trung bình mỗi động vốn đầu tư tạo ra 0.65 chỗ việc làm. Đây là một sự đóng góp to lớn của tổng công ty vào giải quyết nạn thất nghiệp của đất nước ta hiện nay. -Tổng công ty hàng năm đã mang lại một lượng ngoại tệ tương đối lớn cho đất nước, năm 1996 là 134.965 triệu USD, năm 1997 là 192.298 triệu USD và năm 1998 là 187.920 triệu USD. Đóng góp vào ngân sách nhà nước hàng chục tỷ đồng, trung bình mỗi đồng vốn đầu tư đóng góp vào ngân sách nhà nướclà 0.30 đồng. -Với các doanh nghiệp tư nhân và sở hữu tập thể (gồm các công ty trách nhiêm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân ) cũng có năng lực sản xuất 50 triệu đôi /năm chiếm 19% tổng năng lực sản xuất toàn ngành. -Các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài : cũng có năng lực sản xuất 18 triệu đôi/năm chiếm 7% tổng năng lực sản xuất toàn ngành, với tổng số vốn đầu tư 39 triệu USD, kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1997 đạt 174 triệu USD, chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. -Các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài gồm 28 doanh nghiệp, chiếm 16,9% tổng số doanh nghiệp, với tổng số vốn đầu tư thực hiện 259.7 triệu USD, kim ngạch xuất khẩu năm 1997 đạt 360.6 trriệu USD chiếm 37.3% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Đến cuối năm 1999 đầu tư toàn ngành là 550 dây chuyền sản xuất đồng bộ các loại giầy dép với năng lực sản xuất là 380 triệu đôi/năm, 30 triệu sản phẩm cặp túi và 22 triệu(sqrt) da thuộc. Toàn ngành tạo được 300000 việc làm cho người lao động chưa kể lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực phục vụ cho ngành da giầy. Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 1.3 tỷ USD và ước tính trong năm 2000 này là vào khoảng 1.6 tỷ USD. Những thành tựu đã đạt được trong những năm qua đã đưa ngành công nghiệp da giầy trở thành ngành công nghiệp da giầy trở thành công nghiệp phát triển mạnh đứng thư 3 sau ngành Dầu Khí và Dệt May. Những hạn chế và yếu kém. - Cũng giống như giai đoạn 1990 -1995 thì hiện nay ngành da giầy vẫn còn phải phụ thuộc vào nguyên vật liệu nước ngoài. Tuy nhiên chung ta đã có sự đầu tư phát triển các nguồn đầu vào trong nước nhưng chưa đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu sản xuất hiện nay. -Tron

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0160.doc
Tài liệu liên quan