Đề tài Phương hướng đổi mới và hoàn thiện chính sách ruộng đất trong nông nghiệp nông thôn Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010

Trong hơn 10 năm đổi mới, cùng với các chính sách khác chính sách đất nông nghiệp đã góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng, vào những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới nói chung.

Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp đạt mức khá cao, bình quân trong giai đoạn 1986-1995 là 3,7%, giai đoạn 1996-2001 là 4,35% và năm 2002 tăng gần 4,8%. Tổng sản lượng lương thực tăng khoảng 5,6% năm, do vậy đã đưa mức bình quân lương thực từ 280kg/người năm 1987 lên 382kg/người năm 2001. Giá trị nông, lâm, thuỷ sản xuất khẩu tăng 6 lần, từ 542 triệu đô la năm 1987 lên 3,2 tỷ đô la năm 2002, chiếm khoảng 45% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

 

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1379 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng đổi mới và hoàn thiện chính sách ruộng đất trong nông nghiệp nông thôn Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các vùng như sau: -Nông nghiệp đã quyết định về cơ bản mục tiêu lương thực, đảm bảo đủ lương thực cho nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu với số lượng ngày càng tăng. Thắng lợi đó tạo cơ sở để tiến tới khai thác lợi thế so sánh của các vùng sinh thái, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá có hiệu quả và đa dạng hoá sản xuất. Các vùng trung du và miền núi đã quan tâm phát triển các cây công nghiệp, câ ăn quả và chăn nuôi đại gia súc. Vùng đồng bằng kết hợp giữa luân canh cây lúa với đa dạng các cây công nghiệp ngắn ngày, trồng rau, trồng các cây có giá trị kinh tế cao. Vùng đồng bằng ven biển và mặt nước có thể cải tạo kết hợp phát triển nông nghiệp lâm và nuôi trồng thuỷ sản. - Với mức vốn đầu tư gia tăng, trong nông nghiệp và nông thôn đã quan tâm củng cố và nâng cao cơ sở hạ tầng (đường sá giao thông, điện, hệ thống thuỷ lợi, thông tin…) đáp ứng yêu cầu sản xuất và vận chuyển, lưu thông sản phẩm dễ dàng và thuận lợi. -Với chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua các dự án đầu tư, xây dựng các liên doanh với nước ngoài, đến nay cả nước có 1700 dự án đầu tư nước ngoài, đã xây dựng 6 khu chế xuất, 10 khu công nghiệp kỹ thuật cao trên 11 tỉnh, thành phố. Phần lớn các khu chế xuất và khu công nghiệp kỹ thuật cao tập trung ở vùng nông thôn cận thịm vùng ven đô và vùng ven các trung tâm dân cư đã trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến chuyển đổi cơ cấu sản xuất, thu hút lao động và xây dựng cơ sở hạ tầng trong nông thôn. Đó là những tụ điểm công nghệ, kỹ thuật cao tác động tới các vùng lân cận trong nông thôn nước ta. - Nhà nước đã có những chương trình đầu tư trong điểm khai thác tiềm năng và thế mạnh của các vùng kinh tế - sinh thái trong cả nước, tạo động lực thúc đẩy kinh tế của các vùng. Ví dụ: vùng đồng bằng sông Cửu Long đã tập trung xây dựng các công trình thuỷ lợi phục vụ khai hoang 36.394 ha, tăng vụ cho 131.555 ha chuyển vụ cho 17.708 ha, hình thành 4 tuyến dân cư cho khoảng 12.500 hộ. Tập trung giải quyết việc xây dựng các công trình thuỷ lợi gắn với hệ thống giao thông và phát triển dân cư, tạo cơ sở hạ tầng chủ yếu, đồng bộ cho đồng bằng sông Cửu Long. Hoặc chú trọng những giải pháp lớn về kinh tế, kỹ thuật, xã hội để phát triển nông sản hàng hoá xuất khẩu ở vùng Tây Nguyên. -Trong nông thôn đã phục hồi và chấn hưng các làng nghề truyền thống, phát triển đa dạng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thủ công truyền thống và một số ngành mới như chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, may mặc… thay đổi kết cấu các ngành sản xuất trong nông thôn theo hướng "ly nông bất ly hương". -Trong khu vực nông thôn các hoạt động dịch vụ cũng được mở mang, bao gồm cả dịch vụ phục vụ sản xuất, dịch vụ công cộng và đời sống. Phần ii: một số chính sách ruộng đất trong bước chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta Đất đai luôn luôn là một vấn đề được Đảng và nhà nước ta quan tâm và là một vấn đề quan trọng nhất của cách mạng nước ta. Đây là một vấn đề phức tạp và nhạy cảm vì nó có ảnh hưởng đến mọi người dân mọi tổ chức kinh tế, chính trị xã hội và cả đến quan hệ quốc tế. Đất đai có ý nghĩa quan trọng bởi vì nó là tư liệu sản xuất đặc biệt hàng đầu không thể thay thế của sản xuất nông nghiệp, đảm bảo nguồn thu nhập của hơn 80% dân số nước ta, tạo ra nguồn hàng hoá thiết yếu không gì thay thế nổi của toàn xã hội với gần 80 triệu dân. Ngoài ra còn là nơi tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp và hàng nông sản xuất khẩu. Thực tế cho thấy mấy năm gần đây nó đã đem lại kim ngạch đầu cho đất nước. Tóm lại đất đai trong nền kinh tế thị trường là yếu tố cấu thành của sản xuất hàng hoá trở thành vật có giá trị không chỉ cho sản xuất nông nghiệp mà cả trong mọi hoạt động con người. i. Vài nét tình hình sử dụng đất đai ở nước ta hiện nay Đất đai là tài sản qúy giá của đất nước, gắn liền với quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Đất đai của Việt Nam có cơ cấu phong phú, đa dạng bao gồm đất nông nghiệp, đất rừng, đất thuộc vùng khai thác thủy sản, khai khoáng, đất công nghiệp, đất dân cư, đất chuyên dùng… - Diện tích tự nhiên cả nước có 33 triệu ha, trong đó đất khai thác và sử dụng khoảng 20,8 triệu ha, chiếm 68%, trong đó đất nông nghiệp 8,1 triệu ha, đất lâm nghiệp 10,9 triệu h, đất chuyên dùng 1,3 triệu ha, đất chưa khai thác khoảng 12,1 triệu ha (trong đó có 10,2 triệu ha có thể khai thác sử dụng). -Việt Nam thuộc loại đất hẹp người đông, mật độ dân số thuộc loại cao trong các nước ASEAN và cả trên thế giới. Năm 2001 mật độ dân số trung bình của các nước ASEAN là 106,7người/km2 thì Việt Nam là 227,7, người/km2, chỉ thấp hơn Philippin (239,3 người/km2) và Singapo (483,9 người/km2). - Là một nước nông nghiệp nhưng đất bình quân đầu người đã ít lại càng suy giảm, đặc biệt là đất trồng lúa nước và đất trồng rừng. Từ năm 1980-1985, đất trồng lúa nước mất khoảng 376.000 ha, như vậy mỗi năm mất khoảng 75.000 ha. Từ năm 1986 đến năm 2002, mỗi năm mất 20.000 ha, do đó đất canh tác và đất trồng lúa bình quân đầu người 899m2/người và 560m2/người. -Đất đai gắn liền với dân số, nhưng dân số tăng nhanh và phân bố không đều. Đồng bằng Bắc bộ đất chật người đông, dân số chiếm 20% cả nước nhưng đất chỉ có 5%. Trong khi đó ở Tây Nguyên, dân số chỉ có 4% nhưng đất đai chiếm 20%. - Đất đai vốn ít nhưng khả năng sinh lời thấp. Bình quân 1 ha đất nông nghiệp Việt Nam tạo ra được 600 USD/năm. Trong khi đó ở Đài Loan tạo ra 15.172 USD/năm Hà Lan 16.600 USD/năm. Giá trị lao động nông nghiệp ở Việt Nam là 210 USD/năm, thì ở Đài Loan là 11,100 USD/năm, ở Hà Lan là 44,300 USD/năm. - Ruộng đất ở Việt Nam bị phân chia rất manh mún, rất cản trở trong sản xuất. Đặc biệt cản trở quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp. Chẳng hạn ở Trung du miền núi phía Bắc bình quân một hộ có 15-20 thửa, mỗi thửa có diện tích 150-300m2. Đồng bằng Bắc bộ mỗi hộ bình quân có 7 thửa, cá biệt có hộ có 30 thửa, mỗi thửa có diện tích 300-1000m2… - Việc quản lý sử dụng đất đai đã và đang nảy sinh nhiều mâu thuẫn: + Thực hiện nghị định 64/CP ngày 27/9/1998 của Chính phủ, đất đai được chia hết một lần cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp có mặt tại thời điểm chia, khi chết không thu hồi, không chia thêm những trường hợp phát sinh mới, chỉ để lại 5% làm đất công ích. Trong khi đó dân số mỗi năm tăng thêm hơn 1 triệu người, cộng với số người không có công ăn việc làm ở thành phố, cán bộ công nhân viên mất sức, về hưu, bộ đội phục viên trở về quê đều cần đất đai để sinh sống và sản xuất thì không còn đất để chia. + Hàng năm Chính phủ cho sử dụng 2 vạn ha đất để làm giao thông, thủy lợi, đất ở, mở mang đô thị, khu công nghiệp và đền bù cho nông dân. Tuy một số được vào làm ở khu công nghiệp, dịch vụ, nhưng nhiều người bị mất đất cũng gặp khó khăn nhất định trong cuộc sống, muốn chuyển nghề, chuyển sang hoạt động công nghiệp dịch vụ nhưng không còn đất nữa. ở Đồng sông Cửu Long đất đã được chia hết cho các hộ, không để lại đất công ích nên rất khó khăn cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển các khu công nghiệp. + Đất đai được coi là sở hữu toàn dân và Nhà nước giao quyền sử dụng cho người sử dụng với các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, góp vốn liên doanh, liên kết sản xuất kinh doanh, đã tạo ra cơ chế và cách thức quản lý đất đai trong bước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Nhưng khi thực hiện các quyền cho hộ gia đình đã tuỳ tiện vượt cả phạm vi pháp luật cho phép. + Quản lý đất đai là vấn đề hệ trọng và rất phức tạp nhưng do luật quy định còn chưa đầy đủ, việc thi hành luật chưa nghiêm, nhất là ở cơ sở nên đã gây ra tình trạng khiếu kiện, tranh chấp, làm mất ổn định xã hội ở mọi nơi. Hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, hối lộ, phạm pháp nảy sinh từ quản lý đất đai có nhiều chiều hướng gia tăng. ii. thực trạng chính sách đất đai ở Việt Nam ở nước ta, quan hệ đất đai có lịch sử biến động lớn, thường xuyên và rất phức tạp. Dưới thời phong kiến, ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước do nhà Vua đại diện quản lý, sở hữu cộng đồng làng xã và sở hữu tư nhân. Dưới thời Pháp thuộc ruộng đất tập trung chủ yếu vào tay địa chủ và thực dân. Cách mạng Tháng tám (1945) thành công, nhà nước tiến hành cải cách ruộng đất, tịch thu, trung thu mua ruộng đất của địa chủ và thực dân cho nông dân, giao quyền làm chủ thực sự ruộng đất về cho nông dân và khi tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp thì ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước và được giao cho hợp tác xã quản lý, sử dụng. Sau nhiều năm cải tạo nông nghiệp theo con đường kém hiệu quả, các chính sách nông nghiệp và chính sách ruộng đất đã có những thay đổi cơ bản theo hướng coi hộ nông dân là đơn vị tự chủ, nông dân được quyền sử dụng và quản lý ruộng đất được hợp tác xã giao khoán. Ngày 8/1/1988 Quốc hội thông qua luật đất đai với các nội dung cơ bản. -Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao ruộng cho các đơn vị và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài có thời hạn hoặc tạm thời. - Cho phép người được giao quyền sử dụng đất đai được chuyển nhượng, bán thành quả lao động và kết quả đầu tư trên đất được giao. -Cấm mua bán đất trái phép. Luật đất đai năm 1988 đã có tác dụng gắn bó người nông dân với ruộng đất giúp họ yên tâm đầu tư vào sản xuất, cải tạo và bảo vệ đất đai được giao. Nhưng luật đất đai năm 1988 đã bộc lộ những hạn chế cơ bản sau: luật mới tập trung điều chỉnh quan hệ ruộng đất trong sản xuất nông nghiệp theo kiểu tự cung tự cấp, mới điều chỉnh quan hệ pháp lý hành chính, chưa chú ý đến quan hệ kinh tế, chưa tạo điều kiện để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lao động mới ở nông thôn, dẫn tới ruộng đất không có giá trị, chỉ cấp phát để sử dụng, do đó mâu thuẫn với thực tế cuộc sống đang chuyển sang sản xuất hàng hoá, dẫn tới hình thành thị trường ngầm về đất đai, mua bán trá hình dưới dạng mua bán thành quả lao động, kết quả đầu tư, nhà cửa trên đất đai mà nhà nước không quản lý nổi, gây ra nhiều sơ hở, tiêu cực, tham nhũng trong việc mua bán, sang nhượng, cấp phát đất đai ngoài sự kiểm soát của nhà nước, gây tổn thất lớn cho ngân sách nhà nước. Nghị quyết 10 của Bộ chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp và hội nghị Trung ương 6 (khoá VI) khẳng định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ đã đưa đến sự thay đổi trong chính sách ruộng đất mà cốt lõi là giao cho các hộ nông dân quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và ổn định thì những bất hợp lý trong luật đất đai năm 1988 càng bộc lộ rõ rệt, gây lên tranh chấp ruộng đất gay gắt và phổ biến. Trước yêu cầu của đổi mới quản lý nhằm chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và sự bất cập của luật đất đai năm1988, năm 1998 Quốc hội đã thông qua luật đất đai sửa đổi. Luật đất đai năm 1998 có nhiều đổi mới cơ bản, đã chú ý đến quan hệ kinh tế và mục tiêu hiệu quả trong sử dụng và quản lý đất đai. Luật đất đai năm 1998 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật. Đất đai phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả; nhà nước giao đất cho các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình sử dụng, ổn định, lâu dài. Các hộ nông dân có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp quyền sử dụng ruộng đất trong thời hạn được giao. Người sử dụng ruộng đất có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng ruộng đất đúng mục đích. Luật đất đai năm 1998 và một số sửa đổi bổ sung năm 2003 đã hướng tới nội dung kinh tế thiết thực, khơi dậy động lực kinh tế trong việc bảo vệ và sử dụng đất đai, gắn bó giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trước hết là đất đai, đồng thời tăng cường vai trò của nhà nước trong việc giám sát, điều tiết vĩ mô đối với đất đai. Trên cơ sở chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và Luật đất đai năm 1998, Chính phủ và các bộ đã có nhiều nghị định và thông tư hướng dẫn sửa đổi các chính sách đất đai nhằm đảm bảo điều chỉnh quan hệ đất đai phù hợp với quyền tự chủ của hộ nông dân trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên luật đất đai năm 1998 và các chính sách đất đai được ban hành vẫn con nhiều vướng mắc, chưa thật phù hợp với điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII đã nêu: "Luật đất đai năm 1998 sau 5 năm thực hiện, bên cạnh những mặt tích cực đã bộc lộ một số điểm chưa thật phù hợp, chưa cụ thể để xử lý những vấn đề mới phát sinh, nhất là trong việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, làm cho quan hệ về đất đai trong xã hội rất phức tạp, không chỉ về mặt kinh tế mà còn ảnh hưởng đến cả ổn định xã hội ". Điều đó được thể hiện các mặt sau đây: Thứ nhất: mới chỉ dừng lại ở quy định chung của luật, nhiều văn bản dưới luật hướng dẫn chậm ban hành, nhất là 5 quyền cụ thể: quyền cho thuê chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế và thế chấp. Thứ hai: quá trình giao đất và cấp đất gắn với cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất triển khai quá chậm, không tạo thành tâm lý và điều kiện để người được giao quyền sử dụng đất an tâm đầu tư thâm canh và sử dụng đất có hiệu quả cũng như thực hiện 5 quyền. Nguyên nhân của tình hình này là: khó khăn về kỹ thuật, nghiệp vụ, thủ tục phiền hà, buông lỏng quản lý đất lâu dài, tồn đọng nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Thứ ba: trên thực tế thị trường bất động sản đã hình thành và vận động rất sôi nổi nhưng nhà nước thiếu cơ chế quản lý phù hợp dẫn đến những tác động không thuận lợi cho sự vận động của thị trường đặc biệt này. Giá đất vẫn do nhà nước và các cấp chính quyền địa phương quy định, có nơi có lúc quá cao hoặc quá thấp không sát với giá thị trường do người mua người bán tự thỏa thuận. Bốn là: tạo nên sự bất công và bất bình đẳng giữa các tổ chức và cá nhân trong việc cấp đất và giao quyền sử dụng đất. Do trước đây đất đai thuộc sở hữu nhà nước, không có giá trị, nhà nước các cấp đều có quyền cấp đất cho các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội một cách tuỳ tiện, thoả mái. Khi chuyển sang kinh tế thị trường, các cơ quan, tổ chức, các doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã mặc dù chức năng, nhiệm vụ đã thay đổi nhưng vẫn giữ đất và tự ý chia chác nội bộ hoặc sử dụng một cách bất hợp pháp. Nhiều quan chức đã có chỗ ở nhưng khi chuyển sang cơ quan mới lại được cấp đất, cấp nhà mà không giao lại chỗ cũ. Nhiều quan chức chỉ bằng quyền uy hoặc bằng nguồn thu bất chính có thể chiếm dụng nhiều mảnh đất béo bở, có nhiều khu đất ở nhiều nơi có giá trị, trong khi đó người bình thường lại rất khó khăn trong việc tìm một nơi ở khiêm tốn. Năm là: quy định mức hạn điền ở Việt Nam là rất cần thiết nhưng mức còn cứng nhắc giữa quy định và trên thực tế còn khác xa nhau. Hiện nay ở Việt Nam là rất cần thiết nhưng mức còn cứng nhắc, giữa quy định và trên thực tế còn khác xa nhau. Hiện nay ở Việt Nam còn trên 10 triệu ha đất trống, đồi núi trọc, gần 11 triệu ha mặt nước chưa được sử dụng. Việc quy định hạn điền còn thấp cho các vùng này không khuyến khích hình thành các trang trại, các doanh nghiệp trong nông nghiệp nông thôn. Bởi vì, mặc dù hiện nay đại bộ phận trang trại đều hình thành từ kinh tế hộ nông dân, quy mô dưới mức hạn điền nhưng cũng đã ra đời các trang trại có quy mô hơn, như ở các tỉnh miền núi phía Bắc có khoảng 8% số trang trại có quy mô trên 30 ha, ở Bình Phước có trang trại 450 ha. ở long an có trang trạie 800 ha trồng xoài và một trang trại 2300 ha trồng mía. Chính quy mô lớn mới tạo được vùng nguyên liệu ổn định và đầy đủ để phát triển các doanh nghiệp chế biến nông sản ở nông thôn. Sáu là: mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai diễn ra hết sức phức tạp cả lý luận và thực tiễn. Trong khi chấp nhận quyền sở hữu đất đai thuộc về nhà nước và nhà nước có quyền giao cho các tổ chức và cá nhân quyền sử dụng nhưng khi đã được giao sử dụng rồi thì rất khó thu hồi. Nhà nước cũng không quản lý việc sử dụng đất đai theo một quy hoạch thống nhất nên việc sử dụng đất đai hết sức manh mún, tuỳ tiện, đặc biệt, đặc biệt đất xây dựng đô thị. Người sử dụng đất lại hiểu và tự biến quyền sử dụng thành quyền sở hữu tuyệt đối, vĩnh viễn thành một tài sản có giá trị nhất cho bản thân mình và cho con cháu mai sau, có quyền mặc cả với nhà nước khi bị thu hồi, gây ảnh hưởng xấu đến việc giải toả để xây dựng các công trình công cộng. Tóm lại, luật đất đai năm 1998 và nhiều chính sách của nhà nước về đất đai và có nhiều đổi mới để đáp ứng yêu cầu chuyển sang nền kinh tế thị trường nhưng vẫn còn vướng mắc, mâu thuẫn và hạn chế cả trong chính sách và trong thực hiện chính sách về đất đai. iii. đánh giá tổng quan 1. Kết quả hoạt động sản xuất nông nghiệp đối với tác động của chính sách ruộng Trong hơn 10 năm đổi mới, cùng với các chính sách khác chính sách đất nông nghiệp đã góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng, vào những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới nói chung. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp đạt mức khá cao, bình quân trong giai đoạn 1986-1995 là 3,7%, giai đoạn 1996-2001 là 4,35% và năm 2002 tăng gần 4,8%. Tổng sản lượng lương thực tăng khoảng 5,6% năm, do vậy đã đưa mức bình quân lương thực từ 280kg/người năm 1987 lên 382kg/người năm 2001. Giá trị nông, lâm, thuỷ sản xuất khẩu tăng 6 lần, từ 542 triệu đô la năm 1987 lên 3,2 tỷ đô la năm 2002, chiếm khoảng 45% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thành tựu nổi bật nhất trong phát triển nông nghiệp là sản xuất lương thực. Việt Nam là nước từ chỗ phải thường xuyên nhập khẩu gạo, từ năm 1989 trở đi đã có gạo xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước. Nếu năm 1987, Việt Nam còn phải nhập khẩu 46,8 vạn tấn lương thực để cứu đói thì năm 1989 đã xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo; năm 2002 xuất 3,7 triệu tấn; năm 2003 tuy chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực và thiên tai, lượng gạo xuất khẩu có thể đạt 4 triệu tấn. Một điều đáng lưu ý nữa là chất lượng xuất khẩu gạo cũng tăng lên đáng kể, từ 3% gạo tốt (5% tấm) năm 1989 lên 60% gạo tốt, do vậy chênh lệch về giá xuất khẩu giữa gạo Việt Nam và Thái Lan được thu hẹp lại tư 40-50 đô la tấn xuống 15-20 đô la/tấn. Việt Nam hiện là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới Ngoài ra, nhờ thực hiện chính sách đất đai và những chính sách khác, nhiều vùng sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn đã được hình thành và phát triển, ví dụ cà phê từ 92.300 ha năm 1987 lên 270.000 ha năm 2002 với sản lượng tăng 20 lần trong cùng thời gian từ 20.000 tấn lên 400.000 tấn, cao su từ 203.000 ha với 51.700 tấn mử năm 2002 tăng lên 329.000 ha và 180.700 tấn mủ năm 2002. Cơ cấu sản xuất có sự chuyển biến tích cực (tuy còn chậm) theo hướng tăng tỷ trọng chăn nuôi và cây công nghiệp (tỷ lệ chăn nuôi-trồng trọtt từ 21%-79% trước năm 1988 đạtt 22,8%-77,2 vào năm 197; cũng trong thời gian này tỷ trọng cây công nghiệp tăng từ 15,4% lên 20%). Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và nông thôn phát triển đáng kể. Đời sống nông dân nhìn chung được cải thiện, số hộ giàu có, làm ăn giỏi tăng từ dưới 10% năm 1987 lên 15-20% vào năm 2001, số hộ nghèo đói ngày càng giảm tuy hiện nay vẫn còn khoảng 20%. 2. Một số hạn chế và nguyên nhân trong quá trình thực hiện chính sách ruộng đất Chính sách và việc thực hiện chính sách đất nông nghiệp đã có nhiều tác dụng tích cực, góp phần không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Tuy nhiên sau một số năm thực hiện và trong bối cảnh tình hình quốc tế, xã hội của đất nước có nhiều thay đổi nhanh chóng thì chính sách đất nông nghiệp và việc thực hiện chính sách này cũng đã bộc lộ một số khuyết điểm, tồn tại thể hiện trên các mặt sau đây. Thứ nhất: chính sách đất nông nghiệp được thể hiện qua luật đất đai năm 1998 và nhiều văn bản pháp pháp quy khác, nhưng luật còn nhiều điểm quy định khác chung chung và chưa tính hết được chiều hướng vận động của nền kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp và nông thôn nói riêng nên chưa đáp ứng được một cách đầy đủ và có hiệu quả cao yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội cũng như nông nghiệp và nông thôn trong thời kỳ mới-công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Có quá nhiều văn bản dưới luật hướng dẫn việc thi hành luật đất đai và nội dung của một số văn bản này chồng chéo hoặc phủ định lẫn nhau, thậm chí nội dung một số văn bản dưới luật trái với những quy định của luật (xem báo Người lao động số ra ngày 2/8/2002). Chính việc này đã tạo ra nhiều khe hở của pháp luật để một số tổ chức và cá nhân lợi dụng làm sai pháp luật. Thứ hai: nhìn một cách tổng quát đất nông nghiệp hiện đang chưa được quản lý một cách tổng quát đất nông nghiệp hiện đang chưa được quản lý một cách thực sự có hiệu quả, việc phân bổ và sử dụng còn nhiều lãng phí, tình trạng mua bán, sang nhượng đất rất phức tạp, nhiều vi phạm về đất nông nghiệp, nhất là ở những vùng ven đô, ven đường giao thông, gây thất thoát lớn cho nhà nước và gây bất ổn định tại một số vùng nông thôn. Tình trạng nông nghiệp bị phân chia manh mún ở các địa phương đã làm phức tạp thêm cho công tác quản lý đất đai và đã có ảnh hưởng không tốt tới kết quả sản xuất nông nghiệp. Hiện tượng vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đao được thể hiện qua 3 bảng dưới đây: Số liệu bảng 3 cho thấy chỉ mới tiến hành thanh tra ở 13,4 số xã, phường quản lý 1,05 triệu ha đất đã có 5,4% diện tích đất đai vi phạm pháp luật; thanh tra 2,2% số tổ chức, cơ quan, đơn vị quản lý 40,783 ha đất đã có 19,3% diện tích đất vi phạm pháp luật; thanh tra 3 tỉnh về đất lâm nghiệp đã có 67,387 ha đất được quản lý và sử dụng trái pháp luật. Với số đơn vị quản lý và sử dụng đất, và số diện tích đất thanh tra còn hạn hẹp như trên nhà nước đã bị thất thoát ngân sách 1.375 tỷ đồng và 317 lạng vàng, trong đó chia ra: -Cấp xã, phường thu tiền đất nhưng không nộp ngân sách là 247 tỷ đồng. - Tự bán đất cho dân lấy tiền sử dụng không nộp ngân sách 243 tỷ đồng -Chính quyền thu thêm ngoài quyết định giao đất nhưng không hạch toán vào ngân sách 575 tỷ đồng. Bảng 3: tình hình vi phạm luật đất đai Đơn vi DT đất đã thanh tra (ha) Doanh thu đất có sai phạm Tổng số Đã thanh tra Ha % 1. Xã, phường 10.030 1.437 1.052.884 57.164 5,4 2. Tỉnh (*) 61 3 - 67.397 3. Tổ chức 130.0000 2.886 40.738 7.867 19,3 Cộng 132.428 Nguồn: Uỷ ban thanh tra nhà nước (*) Thực hiện thanh tra đất lâm nghiệp ở 3 tỉnh Lâm Đồng, Đắc Lắc và Ninh Thuận. Thứ 3: theo quy định của pháp luật hộ gia đình và cá nhân sử dụng đất có 5 quyền (chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp và thừa kế) nhưng nói chung 5 quyền này chưa được cụ thể hoá và thực hiện đầy đủ. Đối với tổ chức sử dụng đất nông nghiệp mới thực hiện được quyền cho thuê lại và góp vốn liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất. Các quyền khác như chuyển nhượng và thế chấp tuy luật có quy định nhưng trình tự, thủ tục, phương pháp tiến hành chưa được quy định cụ thể rõ ràng nên thực tế chưa được thực hiện. Một số tổ chức sử dụng đất nông nghiệp thực hiện chuyển nhượng (bán) quyền sử dụng đất, nhưng đây là việc làm chui. Việc chậm trễ trong quy định cụ thể quyền chuyển nhượng đất đai của các tổ chức gây nên hai hệ quả là nhà nước không thu được gì vào ngân sách từ việc chuyển nhượng (chui) này và chính việc này đã góp phần hạn chế việc hình thành và phát triển thị trường đất đai. Ngoài ra, việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng chưa thực hiện được nhiều cũng làm ảnh hưởng không tốt tới viếcd có hiệu quả đất đai. Theo số liệu của Tổng cục Địa chính, tính đến ngày 30/6/2003 cả nước có 66,3% số xã, phường cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 69,3% số hộ nông dân, đạt 67% đất nông nghiệp. Trên thực tế chỉ khoảng 20%-30% đất lâm nghiệp được giao đã đưa vào sản xuất. Thứ tư: việc thực hiện khung giá đất hiện hành do nhà nước quy định đã bộc lộ một số tồn tại cơ bản như sau: -Khung giá đất do nhà nước quy định chưa phù với thực tiễn. Thực tế cho thấy giá đất giá thay đổi rất phức tạp, nó phụ thuộc vào vị trí của từng mảnh đất và phụ thuộc vào rất nhiều quản lý cung- cầu về đất trong từng giai đoạn. -Dùng một giá đất được xác định ổn định trong một số năm cho nhiều mục tiêu chưa phù hợp. Ví dụ, khi nhà nước dùng giá này để thu tiền sử dụng đất hay tính tiền cho thuê đất thì nhà nước thất thu, ngược lại, khi đền bù thiệt hại về đất thì người được đền bù khó chấp nhận. Thứ năm: tình hình khiếu nại của nhân dân về đất về đất đai có chiều hướng tăng lên và chiếm tỷ trọng khá lớn so với tổng số đơn khiếu nại hành chính. Do nhiều vi phạm về đất đai xẩy ra như cấp đất trái thẩm quyền, sử dụng đất không đúng mục đích, chuyển nhượng đất một cách tuỳ tiện… nên hiện tượng tranh chấp đất đai, khiếu nại về đất đại trở thành vấn đề nóng bỏng ở nhiều địa phương. Nhìn chung, so với vài năm trước đây tình trạng tranh chấp đất đai nói chung, đất nông nghiệp nông nghiệp nói riêng đã có giảm, nhưng vẫn diễn biến phức tạp, có nơi, có lúc xẩy ra gay gắt như đòi lại đất cũ, đòi quyền thừa kế đất, đòi đền bù thiệt hại về đất đai. Trong khi đó, việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân còn nhiều bất cấp, trách nhiệm giải quyết của các cơ quan không rõ ràng, hiệu lực thấp, gây nhiều phiền hà cho nhân dân. Bảng 4: tình hình khiếu của nhân dân liên quan đến đất đai. TT Nội dung khiếu kiện Tổng số (vụ việc) Tỷ lệ % 1 Khiếu nại hành chính 7704 100.000 Liên quan đất đai 3699 48,01 2 Khiếu nại về đất 3699 100

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29554.doc
Tài liệu liên quan