MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Chương 1: Cơ sở của vấn đề đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam 3
1.1. Kế hoạch hoá ở các nước trên thế giới 3
1.2. Cơ sở thực tiễn của vấn đề đổi mới công tác KHH ở Việt Nam 4
Chương 2: Quá trình đổi mới kế hoạch hoá ở Việt Nam 6
2.1. Thực trạng đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam 6
2.1.1. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 6
2.1.2. Về công tác quy hoạch phát triển 8
2.1.3. Về công tác kế hoạch phát triển 9
2.2. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam 11
2.2.1. Về những cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc đổi mới công tác kế hoạch hoá 12
2.2.2. Về nội dung phương pháp KHH 12
2.2.3. Về phối hợp và điều hoà kế hoạch 13
2.2.4. Về cơ chế điều hành xã hội 13
2.2.5. Về thông tin và dự báo 14
2.2.6. Về bộ máy tổ chức và cán bộ 14
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong đổi mới công tác KHH trong những năm qua ở Việt Nam 14
2.3.1. Nguyên nhân 14
Chương 3: Định hướng và những giải pháp đổi mới kế hoạch hoá trong những năm tiếp theo 16
3.1. Định hướng đổi mới kế hoạch hoá trong những năm tiếp theo 16
3.1.1. Kế hoạch hoá trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN 16
3.1.2. Kế hoạch hoá trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế 16
3.1.3. Kế hoạch hoá phải đảm bảo mối tương quan hợop lý giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội 17
3.1.4. Kết hợp kế hoạch hoá theo ngành với kế hoạch hoá theo địa phương và vùng lãnh thổ 18
3.1.5. Đổi mới toàn diện hệ thống kế hoạch kinh tế vĩ mô 19
3.2. Một số giải pháp đổi mới kế hoạch hoá kinh tế trong thời gian tiếp theo 20
3.2.1. Đổi mới công tác xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 20
3.2.2. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển 20
3.2.3. Chú trọng kế hoạch hoá định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 21
3.2.4.Hoàn thiện kế hoạch hoá hàng năm 22
3.2.5. Tăng cường công tác nghiên cứu và xây dựng chính sách 24
3.2.6. Xây dựng và phát triển công tác dự báo và phân tích kinh tế 24
3.2.7. Đổi mới hệ thống thu thập, xử lý và sử dụng thông tin 25
3.2.8. Củng cố bộ máy tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ kế hoạch 25
Phần kết luận 27
Tài liệu tham khảo.
30 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng tiếp tục đổi mới công tác KHH ở nước ta trong thời gia tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n thuộc về nguồn vốn ngân sách nhà nước. Xoá bỏ việc giao chỉ tiêu pháp lệnh về sản xuất và chỉ duy từ một số chỉ tiêu về lưu thông vật tư, hàng hoá quan trọng nhằm ổn định cung cầu.
Phần lớn các chỉ tiêu kế hoạch hiện nay là chỉ tiêu giá trị, các chỉ tiêu kế hoạch hiện vật nói chung đã được giảm bớt đáng kể đồng thời duy trì một số cân đối hiện vật thiết yếu. Hệ thống cân đối hiện vật thiết yếu như xăng dầu, lương thực đã tỏ ra là cần thiết cho ổn định kinh tế xã hội, các bảng cân đối giá trị ngày càng được mở rộng và nâng cao.
Ngoài xu hứơng "giá trị hoá ", trọng tâm của các chỉ tiêu kế hoạch đang chuyển dần sang điều tiết kinh tế vĩ mô và các chỉ tiêu xã hội .
2.1.3.3. Đổi mới quy trình lập kế hoạch:
Trong thời gian qua, quy trình lập kế hoạch đã có nhiều thay đổi căn bản. Hình thức giao số kiểm tra đã được thay thế bằng việc cung cấp thông tin cần thiết nhằm hướng các ngành, địa phương và đơn vị cơ sở xây dựng, tổng hợp kế hoạch theo hướng mục tiêu chung của nhà nước. Bên cạnh việc cung cấp những thông tin hướng dẫn, Bộ kế hoạch và đầu tư còn cử các đoàn đến các địa phương để hỗ trợ, giúp đỡ và giải quyết các vướng mắc mà các địa phương gặp phải trong khi xây dựng kế hoạch. Quy trình lập kế hoạch mới đã hạn chế sự áp đặt hành chính chủ quan của cấp trên với cấp dưới, phát huy được tính chủ động sáng tạo của các ngành, các cấp chính quyền địa phương cũng như doanh nghiệp trong việc lập và thực hiện kế hoạch .
Trong khi xây dựng và tổng hợp kế hoạch đã chú ý nhiều hơn đến các kế hoạch KH-CN, GD-ĐT, văn hoá- thông tin, y tế, xã hội, thể dục thể thao, xoá đói giảm nghèo mà trước đây thường bị xem nhẹ và chưa gắn với các kế hoạch phát triển kinh tế. Công tác kế hoạch hoá ở các lĩnh vực này sau một thời gian dài xuống cấp, trì trệ thì nay đã có nhiều thay đổi, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế.
Công tác dự báo, thông tin đã bước đầu được tăng cường, phương pháp tính toán kế hoạch được sửa đổi phù hợp dần với thông lệ quốc tế.
2.1.3.4. Đổi mới phương thức điều hành kế hoạch:
Đổi mới công tác điều hành kế hoạch trong thời gian qua không chỉ được thể hiện ở tính kịp thời, mà còn được thể hiện rõ nét ở việc sử dụng các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô gián tiếp như lãi suất, tỉ giá, thuế suất, định hướng đầu tư của nhà nước Do đó, một mặt sự có thể thiệp trực tiếp của các cơ quan nhà nước vào công việc kinh doanh của các cơ sở kinh tế đã giảm bớt; mặt khác các cơ sở kinh tế đã có nhiều cố gắng trong việc phát huy khả năng tự chủ, xác định những lợi thế cạnh tranh phù hợp với điều kiện thay đổi của thị trường .
Quá trình điều hành kế hoạch hoá (KHH) cũng đã chú ý nhiều hơn đến việc dự báo ngắn hạn, điều chỉnh kịp thời các mục tiêu cũng như các biện pháp kinh tế, sử dụng các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô cũng như sử dụng các cơ chế, chính sách và lực lượng vật chất để đảm bảo các cân đối lớn trong nền kinh tế, định hướng và thúc đẩy thực hiện kế hoạch. Nếu trước đây kế hoạch chủ yếu tập trung vào kinh tế quốc doanh với kế hoạch hoá trực tiếp là chính, thì nay đã bước đầu mở rộng kế hoạch định hướng phát triển toàn bộ nền kinh tế và xã hội, chủ yếu thông qua các KHH gián tiếp.
Công tác điều hành kế hoạch đã có những chuyển biến rõ rệt từng bước đáp ứng yêu cầu đặt ra, các công cụ pháp luật và chính sách kinh tế được phối hợp để tạo ra hành lang cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế chủ động hoạt động và hoạt động một cách có trật tự, đúng pháp luật góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Việc điều hành của chính phủ trong qúa trình thực hiện mục tiêu kế hoạch hàng năm đã có hiệu quả và tác dụng thiết thực, kịp thời xử lý những diễn biến bất thường ở trong nước và quốc tế, góp phần quan trọng cho sự ổn định kinh tế đất nước .
2.2. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam:
Mặc dù việc đổi mới KHH trong thời gian qua có tiến bộ đáng kể nhưng do nhiều lý do, kết quả của đổi mới KHH còn hạn chế, thậm chí cả ở trung ương và địa phương xu hướng giữ lại hoặc trở lại KHH kiểu cũ vẫn còn khá mạnh, ngay trong một bộ phận của nhà nước và một phần dư luận của công chúng không khí bao cấp còn nặng.
Những hạn chế chủ yếu là:
2.2.1. Về những cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc đổi mới công tác KHH:
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, chúng ta chưa xây dựng được một cơ sở lý luận và phương pháp luận về KHH phù hợp với thực tế đổi mới của đất nước, do vậy không khỏi lúng túng khi thiết kế nội dung kế hoạch cũng như phương thức điều hành kế hoạch .
Vai trò của nhà nước với tư cách là người điều tiết vĩ mô nền kinh tế nhiều khi bị nhầm lẫn với vai trò nhà nước là chủ đầu tư đã dẫn tới kết quả đó là nội dung kế hoạch còn nặng về phân bổ đầu tư nhà nước mà chưa coi trọng đúng mức việc vận dụng chính sách để huy động các nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác cũng như nguồn lực từ nước ngoài. Vì thế, KHH chưa bao quát, chưa phát huy hiệu lực đầy đủ đvới tổng thể nền kinh tế .
Công tác kế hoạch chỉ được quan tâm đến nhiều ở cấp trung ương, trong khi bộ máy kế hoạch không đủ khả năng có được hệ thống thông tin giám sát ở mọi cấp từ cơ sở, do vậy việc thực hiện nhiều khi diễn ra sai lệch với ý đồ của kế hoạch .
Mối quan hệ giữa bộ KH&ĐT với các bộ khác chưa được tăng cường và đổi mới kịp thời để đáp ứng yêu cầu đổi mới chung của nền kinh tế .
2.2.2. Về nội dung phương pháp KHH:
Việc xây dựng chiến lược phát triển và kế hoạch 5 năm thường được thực hiện nhằm phục vụ mỗi kỳ đại hội Đảng; Sau đó việc thực hiện triển khai các mục tiêu chiến lược và kế hoạch 5 năm thường bị phân cấp, phân tán và chia cắt theo từng ngành, địa phương, chưa có khâu nối đồng bộ chung. Các cấp các ngành quan tâm nhiều nhất đến chỉ tiêu vốn, các chỉ tiêu khác thường bị coi nhẹ.
Mục tiêu kế hoạch vừa nhiều vừa cao hơn khả năng đảm đương cả về năng lực thực hiện lẫn lực lượng vật chất. Nguồn lực hạn chế của nhà nước bị dàn mỏng ra, quá nhiều mục tiêu mang nặng dấu ấn bao cấp và vì vậy được sử dụng kém hiệu quả.
Nhiều nội dung của kế hoạch, đặc biệt là kế hoạch phát triển theo vùng , lãnh thổ còn chưa tính đến đầy đủ các yếu tố hội nhập, quốc tế hoá, cũng như chưa phân tích kỹ lưỡng đến thị trường tiêu thụ trong nước, ngòai nước và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Phần nghiên cứu và vận dụng cơ chế chính sách còn chưa thật tương xứng, chưa cụ thể hoá được chiến lược, chưa bao quát được các thành phần kinh tế, chưa chú ý đúng mức tới đặc thù của các vùng, địa phương. Nhiều vấn đề trong chính sách vĩ mô còn chưa được xác định rõ và nhất quán, các chính sách đòn bẩy còn nhiều lúng túng. Cách thức thực hiện chính sách vẫn mang nặng tính can thiệp hành chính, áp đặt mà chưa chú trọng đến cơ chế thị trường để thiết kế và thực hiện chính sách.
Và một hạn chế lớn nữa đó là sự tham gia quá ít của cộng đồng vào công tác lập kế hoạch. Do đó chưa phát huy được hết những khả năng vốn có trong dân chúng.
2.2.3. Về phối hợp và điều hoà kế hoạch:
Hệ thống kế hoạch theo ngành, theo địa phương và vùng lãnh thổ vẫn chưa liên kết và phối hợp chặt chẽ với nhau được trở thành hệ thống kế hoạch tổng thể kinh tế quốc dân. Sự phân cấp giữa trung ương và địa phương cũng như phân công giữa các ngành với nhau là chưa rõ ràng dẫn đến hậu quả khi gặp phải diễn biến bất thường thì hầu hết là đều đưa lên chính phủ, vì vậy chính phủ luôn phải xử lý công việc trong thế bị động do đó là không có lợi cho nền kinh tế nói chung.
Sự can thiệp trực tiếp thường xuyên của các cơ quan nhà nước nhiều khi lại làm giảm tính ổn định của các chính sách và gây khó khăn cho các nhà kinh doanh.
Việc xây dựng quy hoạch ở nhiều địa phương đạt chất lượng chưa cao, tính thực tế thể hiện chưa rõ nét. Sự phối hợp giữa trung ương và địa phương trong công tác quy hoạch còn kém đã làm cho nhiều địa phương làm lại quy hoạch mặt bằng của mình.
Nhiều chương trình quốc gia chưa được xây dựng chu đáo, không xác định rõ mục tiêu, đối tượng cụ thể được hưởng lợi; Chưa có cơ chế phù hợp cho việc tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát và đánh giá cụ thể. Số lượng chương trình quá nhiều, chồng chéo cả về đối tượng hưởng lợi và địa bàn thực hiện. Trong khi tính “lồng ghép” của các chương trình chưa cao thì xu hướng “chia đều” đã làm giảm đáng kể hiệu quả của các chương trình.
2.2.4. Về cơ chế điều hành xã hội :
Mọi việc trong công tác xây dựng, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch hầu như nằm trong tay chính phủ và một số cơ quan tổng hợp, vì vậy khả năng điều hành cần được tăng cường thích đáng, nếu không thì tính khả thi một số mục tiêu sẽ bị hạn chế.
Cơ chế điều hành cân đối một số sản phẩm chủ yếu, mà thực chất là cân đối hiện vật đã tỏ ra có giới hạn rõ rệt nhất là trong xuất khẩu và kinh tế đối ngoại.
Tình hình thế giới và khu vực đang và sẽ diễn biến phức tạp hơn nhiều trong thời gian tới đòi hỏi công tác KHH, đặc biệt là khâu điều hành kế hoạch phải linh hoạt hơn, đưa ra các quyết sách kịp thời, phù hợp trên cơ sở những luận cứ khoa học và thực tiễn xác đáng.
2.2.5. Về thông tin và dự báo:
Thực tế đã chứng minh đó là có được thông tin kịp thời và chính xác là một yếu tố quyết định lớn đến thành công.
Tuy vậy nhưng hệ thông thông tin hiện nay của ta còn rất nhiều hạn chế . Đó là:Thứ nhất, các thông tin là không thống nhất. Do mỗi nơi đều có một cơ quan thu thập, xử lý và cung cấp thông tin riêng do đó dẫn tới việc tổng hợp thông tin này gặp nhiều khó khăn.Thứ hai, các thông tin là không đầy đủ. Vì hệ thống biểu mẫu báo cáo còn chưa thay đổi kịp thời và phù hợp với cơ chế mới dẫn tới việc thiếu thông tin. Thứ ba, độ chính xác của các thông tin là chưa cao. Do luồng thông tin được thu thập ở nhiều cấp và mỗi cấp có một cách xử lý riêng nên khi tổng hợp lại đã có sự khác nhau.
Hiện nay, hệ thống thông tin được hình thành từ các thông tin cục bộ nên chưa có sự phối hợp ăn khớp với nhau do đó chưa nắm bắt được các diễn biến trên thị trường trong và ngoài nước. Do cơ sở thông tin còn quá yếu đồng thời cũng chưa tìm được những mô hình phù hợp nên kết quả phân tích và dự báo chưa cao, mức độ tin cậy thấp. Mặc dù công tác phân tích và dự báo đã và đang được nhiều tổ chức quan tâm, song sự phối hợp giữa các tổ chức còn chưa tốt.
2.2.6. Về bộ máy tổ chức và cán bộ:
Nhìn chung là trình độ cán bộ và bộ máy tổ chức vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi của công tác KHH trong tình hình mới. Các phòng kế hoạch huyện cũng như các sở kế hoạch tỉnh ở nhiều nơi vẫn đang gặp lúng túng trong việc xác định chức năng của mình . Kiến thức về công tác kế hoạch trong nền kinh tế thị trường của cán bộ nói chung là chưa đáp ứng được đòi hỏi mới.
Việc chuyển đổi điều hành nền kinh tế theo khiểu mệnh lệnh sang điều hành kiểu gián tiếp là một sự thay đổi rất lớn, đòi hỏi phải sử dụng nhiều phương tiện kỹ thuật và kiến thức mới. Do vậy, lực lượng cán bộ cần được nâng cao hơn cả về số lượng và chất lượng, bộ máy tổ chức cần được sắp xếp lại để có thể tạo ra sự phối hợp hài hoà giữa các ngành các cấp. Bộ máy tổ chức trong ngành kế hoạch chưa đưa ra được một hệ thống đánh giá kết quả công việc của mỗi bộ phận cũng như của mỗi thành viên phù hợp với cơ chế quản lý mới. Cơ chế xử phạt còn có xu hướng bình quân, trách nhiệm chưa rõ ràng.
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong đổi mới công tác KHH trong những năm qua ở Việt Nam:
2.3.1. Nguyên nhân:
Thứ nhất, những sai lầm của cơ chế quản lý sơ cứng cũ đã kéo dài trong nhiều năm, làm đứt mối liên hệ khách quan giữa sản xuất kinh doanh với thị trường.
Bộ máy quản lý vẫn rất cồng kềnh, nhiều tầng, nấc. Đây là “miếng đất ” nảy sinh lối quản lý hành chính quan liêu tham nhũng và là gánh nặng đối với các đơn vị kinh tế cơ sở. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã tích cực thực hiện tinh giảm biên chế gián tiếp, đổi mới bộ máy tổ chức, thực hiện cải cách hành chính nhưng kết quả chưa được là bao.
Thứ hai, Đội ngũ cán bộ lập kế hoạch có trình độ chưa cao và chưa nhạy bén với tình hình thực tế. Đội ngũ cán bộ đông đảo hiện nay ở các cấp , các ngành có nhiều người tới nay không đủ khả năng đổi mới tư duy và phương pháp công tác cho dù có được đào tạo lại. Họ không nhận thấy được sự lạc hậu của mình trong tiến trình đổi mới và xây dựng các kế hoạch mới. Còn một bộ phận khác giữ cương vị quan trọng trong quản lý nhưng do chưa được đào tạo nên kém thích ứng với cơ chế quản lý mới.
Thứ ba, một trong những công cụ quản lý nền kinh tế vĩ mô là xây dựng các kế hoạch định hướng. Nhưng cho tới nay, các kế hoạch ngắn hạn , trung han và dài hạn vạch ra vẫn còn mang nặng tính hiện vật. Một số chỉ tiêu về nguồn lực , nhất là nguồn lực từ bên ngoài còn được xây dựng trên tư duy chủ quan. Việc phân bổ vốn ngân sách và vốn tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản vẫn theo bài bản chia phần, “xin” và “cho”, ham quy mô lớn, ít chú ý đến việc lựa chọn phương án đầu tư, phương án kỹ thuật sao cho có hiệu quả nhất.
Thứ tư, trong xây dựng các chiến lược phát triển KT-XH 10 năm có nội dung bao gồm quá nhiều các chương trình, nhiều khi các chương trình là chồng chéo lên nhau, sự lồng ghép giữa các chương trình còn hạn chế, đối tượng thụ hưởng chưa được xác định cụ thể đã dẫn tới việc thực hiện chiến lược phát triển đạt hiệu quả chưa cao.
Thứ năm, Do nền kinh tế có xuất phát điểm thấp từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến đã dẫn tới cơ chế điều tiết chưa theo kịp tiến trình đổi mới, cùng với những năm dài áp dụng KHH tập trung cao độ, phân phối hiện vật , quan liêu bao cấp nên đã để lại một hậu quả nặng nề đó là về đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành cũng như đội ngũ lao động.
Tóm lại, mặc dù vẫn tồn tại nhiều hạn chế xong những gì chúng ta đã đạt được trong đổi mới công tác KHH về cơ bản được đánh giá là thành công. Bởi kết quả thấy rõ sau những cải cách đó là nước ta đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế và bước đầu đạt được những thành công trong phát triển kinh tế trong thời gian qua.
Chương 3
định hướng và giải pháp đổi mới kế hoạch hoá trong những năm tiếp theo
3.1.Định hướng đổi mới kế hoạch hoá trong những năm tiếp theo
3.1.1.Kế hoạch hoá trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong nền kinh tế đang chuyển đổi ở Việt Nam, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch hoá. Nhà nước một mặt phải xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mặt khác phải hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường, xây dựng và hoàn thiện các công cụ pháp luật, kế hoạch, các thiết chế tài chính, tiền tệ và những phương tiện về vật chất và tổ chức cần thiết cho sự quản lý của mình, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường hoạt động hữu hiệu.
Kế hoạch hoá chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô. Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức kinh doanh. Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô của nhà nước cần xác định mục tiêu, giải thích rõ ý nghĩa của mục tiêu đó đối với sự phát triển trong tương lai, xác định rõ mức độ và cách thức mà khu vực kinh tế nhà nước thực hiện mục tiêu đã định, nêu lên những lợi ích và phát triển dự định đối với khu vực kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác để họ hành động theo định hướng nhà nước mong muốn. Đối với các thành phần kinh tế khác, thì kế hoạch không có tính áp đặt, mà thông qua các biện pháp chính sách thống nhất với lợi ích để khuyến khích họ tự nguyện hành động theo hướng mục tiêu kế hoạch đã đặt ra. Như vậy, muốn các doanh nghiệp ứng xử theo kế hoạch của nhà nước thì kế hoạch hoá và chính sách phải phù hợp với lợi ích của doanh nghiệp.
Như vậy, đổi mới kế hoạch hoá phải ăn khớp với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nói chung, phù hợp với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc sử dụng công cụ kế hoạch hoá phải phù hợp với cơ chế thị trường, phải đảm bảo phân định giữa quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh ở các doanh nghiệp nhà nước. Công tác điều hành kế hoạch phải được thực hiện thông qua những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô là chủ yếu, phối hợp sử dụng những biện pháp gián tiếp và biên pháp trực tiếp.
3.1.2. Kế hoạch hoá trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế
Nhân tố quyết định thành công và hiệu quả của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là khoa học và công nghệ. Tốc độ phát triển công nghệ càng cao, số lượng sản phẩm mới, công nghệ mới ngày càng nhiều đã đặt ra một nhiệm vụ quan trọng cho công tác kế hoạch hoá la phải xây dựng những chính sách chuyển giao công nghệ thuận lợi, tìm ra được hướng “đi tắt, đón đầu” giúp cho nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến.
Kế hoạch hoá phải đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế phù hợp với xu thế hội nhập, toàn cầu hoá đang ngày càng gia tăng đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong thời gian trước mắt, việc hình thành những chính sách kinh tế để ứng phó với cuộc khủng hoảng trong khu vực là một nhiệm vụ cấp bách của công tác kế hoạch hoá.
Cân bằng cán cân thanh toán là một trong bốn mục tiêu quan trọng nhất của chinh sách kinh tế. Quá trình phát triển trong những năm qua đã để lại một số vấn đề cần phải giải quyết ngay như: các khoản nợ nước ngoài, tỷ lệ thâm hụt cán cân vãng lai tương đối cao Tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế của nền kinh tế Việt Nam diễn ra trong bối cảnh khủng hoảng tài chính khu vực đã làm cho những vấn đề khó khăn của kinh tế đối ngoại ngày càng thêm phức tạp. Đó là những thách thức to lớn đối với điều tiết tổng thể nền kinh tế nói chung và đổi mới kế hoạch hoá nói riêng. Nó đòi hỏi phải nhanh chóng hình thành những chính sách khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài theo hướng phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, hỗ trợ cho quá trình hội nhập của nền kinh tế nước ta.
3.1.3. Kế hoạch hoá phải đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Công tác kế hoạch hoá phải đảm bảo sự thống nhất giữa yêu cầu phát triển kinh tế đảm bảo chính sách xã hội theo tinh thần:
- Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở khâu phân bổ hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động.
- Các vấn đề chính sách xã hội đều phải giải quyết theo tinh thần xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên cho mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội.
Trong những năm trước mắt, công tác kế hoạch hoá phải góp phần thiết thực giải quyết một số vấn đề xã hội cấp bách như:
- Tập trung sức tạo việc làm: Phương hướng quan trọng nhất là nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình kinh tế – xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Tiếp tục phân bố lại dân cư trên địa bàn có tính chiến lược về kinh tế , an ninh – quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Giảm đáng kể tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn.
- Thực hiện xóa đói, giảm nghèo: Thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng và phát triển quỹ xoá đói, giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả. Tổ chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn để trong điều kiện thu thập bình quân đầu người còn thấp vẫn tạo được một cuộc sống khá hơn cho nhân dân.
3.1.4. Kết hợp kế hoạch hoá theo ngành với kế hoạch hoá theo địa phương và vùng lãnh thổ
Kế hoạch hoá định hướng phát triển kinh tế – xã hội có một nội dung rất cơ bản là sự thay đổi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kể cả cơ cấu ngành và cơ cấu vùng lãnh thổ. Từ kinh nghiệm phát triển, có thể rút ra một số kết luận sau đây về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Một là, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành công nghiệp nói riêng, là một quá trình tiến hoá tuần tự mang tính nội tai phải trải qua nhiều giai đoạn. Những tác động của kế hoạch hoá chỉ có thể đẩy nhanh hoặc rút ngắn quá trình chuyển dịch cơ cấu, chứ không thể bỏ qua một giai đoạn nào.
Hai là, trong thời kỳ toàn cầu hoá, kế hoạch hoá chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quốc gia chủ yếu vẫn phải căn cứ vào điều kiện, tiềm năng, kỹ năng và lợi thế hiện tại. Với cách nhìn như trên, nhà nước cần đặc biệt lưu ý và ưu tiên hỗ trợ những ngành trọng điểm của nền kinh tế những ngành có tỷ trọng lớn và tốc độ phát triển cao trong GDP, trong tổng số lao động sử dụng và trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Đồng thời cần chú trọng khuyến khích một số ngành công nghệ cao, có sức lan toả lớn và tạo động lực phát triển bền vững trong tương lai.
Nguyên tắc phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng là nguyên tắc chủ đạo trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Đây là nhiệm vụ trước hết của nhà nước trung ương. Nhà nước trung ương thực hiện nhiệm vụ này theo hai cách. Một là, ưu tiên đầu tư của nhà nước cho các vùng kém phát triển. Hai là, dành chính sách ưu đãi ở mức cao hơn đối với khu vực kém phát triển để thu hút đầu tư tư nhân vào đó. Về đầu tư của nhà nước, do nguồn vốn có hạn nên kinh phí thực hiện phát triển vùng trong một giai đoạn cần tập trung vào một hoạch một số ít mục tiêu nhất định.
Việc phân cấp kế hoạch giữa trung ương và địa phương cần được xác định hợp lý và rõ ràng. Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương trước hết do chính quyền địa phương quyết định. Nhà nước trung ương chỉ tập trung thực hiện những mục tiêu có tính hệ thống, cân đối, mà các cấp chính quyền địa phương không thể thực hiện được. Nguyên tắc của việc phân cấp nên là: Việc gì chính quyền cấp dưới, do tính chất của công việc, không thể thực hiện được thì mới chuyển lên trên, thay cho nguyên tắc phân cấp hiện nay trong kế hoạch chủ yếu dựa vào tính chất công việc. Việc phân cấp luôn phải đi kèm với những biện pháp kiểm tra giám sát thích hợp; vì thế việc giao quyền hạn cho các cấp chính quyền địa phương trong kế hoạch hoá, đặc biệt là kế hoạch sử dụng những khoản chi từ ngân sách cấp trên, luôn luôn đi kèm với sự giám sát chặt chẽ hơn, theo nguyên tắc: quyền hạn càng lớn, trách nhiệm càng cao.
3.1.5. Đổi mới toàn diện hệ thống kế hoạch kinh tế vĩ mô:
Để cho kế hoạch hoá thật sự trở thành công cụ cơ bản trong việc định hướng thị trường, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển có hiệu quả và bền vững, thúc đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, công tác kế hoạch hoá phải được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
Trước hết, phải coi trọng công tác dự báo, nhất là dự báo trung hạn và ngắn hạn về kinh tế – xã hội và xu thế phát triển trong và ngoài nước để có cơ sở vững chắc cho việc hoạch định các chiến lược phát triển, cũng như cho công tác điều hành tầm vĩ mô.
Hai là, tiếp tục xây dựng chiến lược 10 năm 2001-2010 và rà soát lại các quy hoạch phát triển tổng thể nền kinh tế, quy hoạch các vùng kinh tế trọng điểm đã được thông qua cho phù hợp với yêu cầu mới, xu thế phát triển và hội nhập kinh tế trong vùng và các nước.
Ba là, tổ chức xây dựng các chương trình , dự án phát triển, có hiệu quả để có thể khai thác, sử dung có hiệu quả nguồn tài nguyên, nhân lực và các lợi thế so sánh của nước ta, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn bên ngoài theo định hướng của kế hoạch.
Bốn là, để thực hiện chức năng chủ yếu của kế hoạch hoá là thúc đẩy sự hình thành cơ cấu hợp lý, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, phải cải tiến nội dung xây dựng kế hoạch hàng năm một cách thiết thực, giảm những khâu trung gian, giữ vững cân đối chủ yếu, nhất là cân đối giá trị, đồng thời từng bước chuyển dần trọng tâm sang kế hoạch hoá phát triển kinh tế – xã hội 5 năm với nội dung bao quát toàn bộ hoạt động của các thành phần kinh tế, xác định hệ thống các mục tiêu kinh tế vĩ mô, các yêu cầu tăng trưởng kinh tế, các cơ cấu và mối quan hệ hợp lý của nền kinh tế.
Năm là, góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và kích thích tất cả các thành phần kinh tế phát triển với mục tiêu dân giàu,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0632.doc