LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỢ VÀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC QUẢN LÝ CHỢ 3
I. Chợ và vai trò của chợ trong nền kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay 3
1. Khái niệm, đặc trưng của chợ 3
2. Phân loại chợ trong mạng lưới chợ ở nước ta 5
3. Vai trò của chợ trong nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay 9
II. Một số mô hình tổ chức quản lý chợ ở nước ta 12
1. Tổ chức, quản lý chợ theo mô hình Ban quản lý 12
2. Tổ chức quản lý chợ theo mô hình doanh nghiệp 17
III. Kinh nghiệm tổ chức quản lý chợ ở một số nơi ở nước ta 23
1. Kinh nghiệm tổ chức quản lý chợ ở Thành phố Hồ Chí Minh: tư nhân quản lý chợ 23
2. Kinh nghiệm tổ chức quản lý chợ ở một số tỉnh khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long 26
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN VÀ TỔ CHỨC QUẢN LÝ CHỢ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẦU GIẤY HIỆN NAY 28
I. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của mạng lưới chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy 28
1. Vị trí địa lý 28
2. Về xã hội 28
3. Về kinh tế 31
II. Thực trạng chung về phát triển mạng lưới chợ 33
1. Thực trạng về số lượng và phân bổ mạng lưới chợ 33
2. Thực trạng phân loại chợ 34
3. Thực trạng về quy mô các loại chợ 35
4. Thực trạng về cơ sở vật chất kỹ thuật 37
5. Thực trạng hoạt động kinh doanh của các chợ 38
6. Thực trạng về sinh môi trường, đảm bảo an toàn chợ và văn minh thương mại tại chợ 44
III. Thực trạng mô hình tổ chức quản lý chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy hiện nay 46
1. Các mô hình tổ chức quản lý chợ 46
2. Đánh giá về mô hình BQL chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy trong thời gian qua 53
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP NHẰM CHUYỂN ĐỔI MÔ HÌNH TỔ CHỨC QUẢN LÝ CHỢ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẦU GIẤY GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 62
I. Mục đích, yêu cầu trong chuyển đổi 62
1. Mục đích 62
2. Yêu cầu 62
II. Phương hướng chuyển đổi mô hình 62
1. Đối với chợ thuộc Quận quản lý 62
2. Đối với các chợ thuộc phường quản lý 64
3. Đối với các chợ thành lập mới 65
III. Một số biện pháp nhằm chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy giai đoạn hiện nay 65
1. Về cơ chế, chính sách 66
2. Ban hành quy chế đấu thầu 67
3. Cải tổ bộ máy BQL chợ 68
4. Giải toả các chợ tự phát 69
5. Phân công rõ chức năng, nhiệm vụ của các phòng, ban trong quá trình thực hiện 70
6. Quy định mối quan hệ và phân cấp quản lý 72
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 73
1. Kiến nghị với Nhà nước 73
2. Kiến nghị trên địa bàn Quận 74
Danh mục tài liệu tham khảo 75
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của BQL chợ 13
Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ 19
Bảng 1: Biến động dân số của quận Cầu Giấy (giai đoạn 2000-2005) 29
Bảng 2: Biến động doanh thu bán lẻ quận Cầu Giấy 30
Bảng 3: Biến động thu nhập bình quân một người 31
Bảng 4: Biến động GDP của quận Cầu Giấy giai đoạn 2000 - 2005 32
Bảng 5: Số lượng và phân bổ mạng lưới chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy 33
Bảng 6: Phân loại mạng lưới chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy 34
Bảng 7: Quy mô các loại chợ theo hai tiêu thức diện tích chợ và số người bán 35
Bảng 8: Thực trạng cơ sở vật chất kỹ thuật mạng lưới chợ 37
Biểu đồ 1: Phân bổ cơ cấu hàng hoá tại chợ 39
Bảng 9: Các dịch vụ tại chợ trên địa bàn quận 43
Bảng 10: Số lao động trong các chợ 44
Sơ đồ 3. Sơ đồ BQL chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy 47
Bảng 11: Số lao động làm việc trong các chợ là đơn vị sự nghiệp có thu 54
Bảng 12: Nộp NSNN của các chợ thuộc đơn vị sự nghiệp có thu 55
Bảng 13: Vốn đầu tư xây dựng ban đầu của các chợ trên địa bàn 57
Bảng 14: Kinh phí sửa chữa, cải tạo chợ năm 2005 do quận cấp 58
Bảng 15: Lương bình quân hiện nay của nhân viên trong BQL chợ 59
Bảng 16: Các tụ điểm chợ tự phát trên địa bàn quận 57
80 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1254 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và biện pháp chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy - Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện nước, thiết bị, đồ dùng khoảng 30-33%, chi cho học hành, y tế, vui chơi giải trí từ 22-24%.
Mức sống của người dân trong quận trong những năm qua đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh khu vực thương mại - dịch vụ nói cung và chợ nói riêng. Mức sống dân cư mặc dù tăng lên rất nhanh nhưng nhìn chung vẫn còn thấp, nhất là khu vực nông thôn, công nhân làm việc ở các khu công nghiệp, khu chế xuất chi tiêu chủ yếu là cho hoạt động ăn uống hàng ngày với chất lượng hàng hoá ở mức trung bình. Các kết quả khảo sát về nhu cầu mua sắm trong thời gian qua cho thấy, hàng lương thực, thực phẩm vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn. Điều này cho thấy chợ vẫn đóng vai trò quan trọng đối với đời sống của người dân trong quận.
Tuy nhiên, trong những năm qua cũng đã diễn ra sự phân hoá về mức sống dân cư trên địa bàn. Một bộ phận dân cư có mức sống cao đã được hình thành và quy mô ngày càng lớn, tầng lớp này có những nhu cầu về những loại hàng hoá chất lượng cao từ hàng tiêu dùng đến hàng lương thực, thực phẩm, các loại thực phẩm an toàn Thói quen mua sắm ở các siêu thị, trung tâm thương mại đã xuất hiện ở tầng lớp dân cư có mức thu nhập từ trung bình trở lên. Một xu hướng mua sắm mới đã hình thành và từng bước phát triển trên địa bàn quận. Đó là mua sắm ở các siêu thị, trung tâm thương mại của bộ phận dân cư có thu nhập cao, lan toả đến bộ phận dân cư có thu nhập khá và trung bình.
3. Về kinh tế
Mặc dù quận mới được thành lập, có xuất phát điểm thấp so với các quận khác trong Thành phố nhưng trong những năm qua quận đã đạt được tăng trưởng khá về kinh tế, thể hiện ở bảng số liệu sau:
Bảng 4: Biến động GDP của quận Cầu Giấy giai đoạn 2000-2005
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
Tổng
Trong đó
Khu vực I
Nông nghiêp
Khu vực II
Công nghiệp - Xây dựng
Khu vực III Thương mại - Dịch vụ
2000
1.010.851
13.377
755.268
242.206
2001
1.564.642
8.661
1.262.313
293.668
2002
1.923.656
8.633
1.545.425
369.598
2003
2.589.960
6.858
1.858.961
724.141
2004
2.900.199
1.741
2.037.355
861.023
2005
3.347.601
1.020
2.325.688
1.021.893
Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy
Chú thích: GDP tính theo giá hiện hành
Ta thấy giá trị GDP của Quận tăng lên rất nhanh, chỉ trong vòng 5 năm (từ năm 2000 đến năm 2005) đã tăng lên gấp 3 lần, trong đó GDP của khu vực Nông nghiệp giảm nhanh chóng và đến nay thì chiếm tỷ trọng rất nhỏ, còn khu vực Công nghiệp - Xây dựng tăng gấp khoảng 3 lần, đáng kể nhất là khu vực Thương mại - Dịch vụ tăng gấp khoảng 4 lần.
Sự tăng trưởng kinh tế dẫn đến việc gia tăng khối lượng hàng hoá sản xuất ra, từ đó gia tăng tổng mực hàng hoá bán ra trên thị trường; hàng hoá ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại, lượng hàng hoá về các chợ cũng nhiều hơn, người tiêu dùng có nhiều cơ hội để lựa chọn.
Như vậy, tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn quận.
II. THỰC TRẠNG CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN MẠNG LƯỚI CHỢ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẦU GIẤY
1. Thực trạng về số lượng và phân bổ mạng lưới chợ
Những năm qua, quá trình phát triển kinh tế - xã hội cùng với sự tham gia của các thành phần kinh tế đã làm có nhu cầu ngày càng tăng về việc tổ chức địa điểm trao đổi, mua bán hàng hoá phục vụ sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của dân cư. Ngoài ra, từ ngày thành lập quận cho đến nay, công tác phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn cũng được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành. Vì thế, số lượng chợ tăng lên rất nhanh. Tính đến hết năm 2005, trên địa bàn quận có tất cả 10 chợ đang hoạt động, tăng thêm 7 chợ so với năm 1997. Bảy chợ xây mới sau khi quận thành lập là: chợ Quan Hoa, chợ Xe máy - đồ cũ Dịch Vọng, chợ đêm Nông sản Dịch Vọng, chợ Đồng Xa, chợ Trần Duy Hưng, chợ Hợp Nhất và chợ 337 Dịch Vọng.
Bảng 5: Số lượng và phân bổ mạng lưới chợ trên địa bàn
quận Cầu Giấy (tính đến hết tháng 12/2005)
Chỉ tiêu
Phường
Số chợ
(chợ)
Dân số
(người)
Dân số bình quân
một chợ (người/chợ)
Toàn quận
10
168.834
16.834
Trung Hoà
1
20.108
20.108
Yên Hoà
1
21.093
21.093
Quan Hoa
3
22.634
7.545
Dịch Vọng
3
19.748
6.583
Dịch Vọng Hậu
0
16.609
-
Mai Dịch
1
25.459
25.459
Nghĩa Tân
1
20.490
20.490
Nghĩa Đô
0
22.693
-
Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy
Tuy nhiên, sự phân bổ mạng lưới chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy hiện nay vẫn chưa đồng đều giữa các phường, các khu vực. Có phường có đến 3 chợ như phường Quan Hoa, phường Dịch Vọng, do đó mật độ dân số bình quân của một chợ ở các phường này thấp hơn hẳn các phường khác. Trong đó có những phường chưa có chợ nào (phường Dịch Vọng Hậu, phường nghĩa Đô). Bên cạnh đó sự quy hoạch mạng lưới chợ không theo kịp với sự quy hoạch đô thị nên không đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của dân cư ở đây. Từ đó dẫn đến việc hình thành các tụ điểm chợ xanh, chợ tạm, chợ cóc như chợ hoa tươi trước cổng Khu Tổng cục chính trị (phường Mai Dịch); chợ Bái Ân, chợ K800 (phường Nghĩa Đô); chợ đầu cầu Yên Hoà, chợ Xóm chùa (phường Yên Hoà), chợ Sân vận động Nghĩa Tân (phường Nghĩa Tân)
2. Thực trạng phân loại chợ
Các chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy theo các tiêu chí khác nhau được phân loại như sau:
Bảng 6: Phân loại mạng lưới chợ trên địa bàn
quận Cầu Giấy (tính đến hết tháng 12/2005)
Tiêu chí
phân loại
Tên chợ
Theo
tính chất mua bán
Theo đặc điểm mặt hàng
Theo tính chất và quy mô
xây dựng
Theo số lượng hộ kinh doanh, vị trí và mặt bằng của chợ
Bán buôn
Bán lẻ
Tổng hợp
Chuyên doanh
Kiên cố
Bán kiên cố
Loại 1
Loại 2
Loại 3
Cầu Giấy
x
x
x
x
x
Quan Hoa
x
x
x
x
Nhà Xanh
x
x
x
x
Nghĩa Tân
x
x
x
x
x
Đồng Xa
x
x
x
x
Nông sản DV
x
x
x
x
Xe máy DV
x
x
x
x
337 DV
x
x
x
x
Hợp Nhất
x
x
x
x
Trần Duy Hưng
x
x
x
x
Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy
Chú thích: Nông sản DV: Nông sản Dịch Vọng;
Xe máy DV: Xe máy Dịch Vọng; 337 DV: 337 Dịch Vọng
Như vậy, toàn quận có tất cả 10 chợ đang hoạt động, nhưng không có chợ loại 1 nào, có 3 chợ loại 2, còn lại là các chợ loại 3. Chỉ có duy nhất một chợ Nông sản Dịch Vọng là chợ bán buôn, còn lại các chợ đều là chợ bán lẻ. Có hai chợ chuyên doanh là chợ xe máy cũ Dịch Vọng và chợ Nông sản Dịch Vọng, các chợ còn lại đều là chợ tổng hợp. Không có chợ nào được xây dựng kiên cố hoàn toàn, mà đa số các chợ đều được xây dựng bán kiên cố là chủ yếu hoặc kiên cố lẫn bán kiên cố.
3. Thực trạng về quy mô các loại chợ
Ta phân tích thực trạng quy mô các loại chợ theo 2 tiêu thức diện tích chợ và số người bán. Ta có bảng số liệu sau:
Bảng 7: Quy mô các loại chợ theo hai tiêu thức diện tích chợ
và số người bán (tính đến hết tháng 12/2005)
Tiêu thức
Chợ
Diệc tích (m2)
Số người bán (người)
Tổng
diện tích
Diện tích
xây dựng
Tổng số
người bán
Số người
bán cố định
Toàn quận
35.166
16.102
2730
1830
Cầu Giấy
1685
2300
157
157
Quan Hoa
1200
900
89
69
Nhà Xanh
1755
1470
220
157
Nghĩa Tân
6220
3321
558
476
Đồng Xa
9739
3320
456
456
Nông sản DV
3964
898
700
0
Xe máy DV
5900
2220
195
195
Hợp Nhất
3203
873
170
150
Trần Duy Hưng
1500
800
185
170
Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy
3.1. Quy mô theo tiêu thức diện tích chợ
Với 9 chợ trên địa bàn toàn quận (không kể chợ 337 Dịch Vọng xây dựng năm 2005) có tổng diện tích là 35.166 m2, bình quân mỗi chợ có diện tích là 3907 m2; bình quân diện tích cho mỗi người bán là 12,9 m2/người, trong đó diệc tích xây dựng là 5,9 m2/người.
Ta thấy đa số các chợ mặc dù có tổng diện tích không nhỏ nhưng diện tích được xây dựng còn ít (chiếm chưa đến 50% tổng diện tích), do đó cần thiết phải đầu tư để mở rộng quy mô diện tích chợ được xây dựng, đặc biệt là xây dựng kiên cố, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động kinh doanh buôn bán ở chợ được thoải mái và đầy đủ.
3.2. Quy mô theo tiêu thức người bán
Hiện có 2730 người bán hàng tại các chợ trên địa bàn quận, trong đó số người bán cố định là 1830 người (chiếm 67%) và số người bán không cố định trong đó bao gồm cả những người sản xuất trực tiếp bán sản phẩm tự sản xuất là khoảng 900 người (chiếm 33%).
Tuy nhiên, tỷ lệ số người bán cố định và không cố định này giữa các chợ là không giống nhau, có chợ tỷ lệ này là 100% (chợ Cầu Giấy, chợ Đồng Xa, chợ Xe máy cũ Dịch Vọng), số chợ còn lại tỷ lệ này khoảng 70-90%, riêng chợ Nông sản Dịch Vọng số người bán trong chợ 100% là không cố định, điều này hoàn toàn phù hợp với chức năng của chợ là chợ đầu mối, tập trung lượng hàng nông sản từ các nguồn, các hộ trực tiếp sản xuất để tiếp tục phân phối tới các chợ và các kênh lưu thông khác.
Từ đó ta có thể thấy, hoạt động buôn bán trong chợ chưa có tính chuyên sâu, tức là trong chợ, hình thức tự sản xuất và tự bán thành phẩm vẫn xảy ra tương đối, nó hạn chế sự phát triển của hoạt động thương mại trong chợ, các hoạt động chợ sẽ dẫn tới sự thất thường do phụ thuộc một phần vào lực lượng người bán không cố định này. Mặt khác, số lượng người bán trung bình trong mỗi chợ chỉ khoảng 203 người, như thế quy mô đa số các chợ hiện nay trên địa bàn quận vẫn còn nhỏ. Vì vậy, cần thiết phải phát triển hệ thống chợ trên địa bàn quận, mở rộng hơn nữa cả về diện tích lẫn số người bán.
4. Thực trạng về cơ sở vật chất kỹ thuật
Thực trạng về cơ sở vật chất của mạng lưới chợ trên địa bàn quận thể hiện rằng có bao nhiêu diện tích chợ được xây dựng kiên cố, bán kiên cố hay còn lều lán tạm, được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 8: Thực trạng cơ sở vật chất kỹ thuật của mạng lưới chợ
(tính đến hết tháng 12/2005)
Đơn vị: m2
Chợ
Diện tích kiên cố (tầng, kiểu cách xây dựng)
Diện tích bán
kiên cố (khung thép, mái tôn)
Lều lán tạm
Toàn Quận
301
12.509
1863
Cầu Giấy
207
1.400
900
Quan Hoa
1.200
Nhà Xanh
1.795
Nghĩa Tân
94
2.406
763
Đồng Xa
2.720
Nông sản DV
720
Xe máy DV
800
200
Hợp Nhất
768
Trần Duy Hưng
700
Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy
Ta thấy, hiện tại trung bình chỉ có khoảng 301 m2 (chiếm 2,3%) diện tích các chợ trong toàn quận được xây dựng kiên cố, có tới 85% diện tích xây dựng bán kiên cố; 12,7% số diện tích các chợ vẫn trong tình trạng lều, lán tạm thời.
Một số chợ tuy đã được xây dựng kiên cố, sau một thời gian sử dụng, do không được tu bổ kịp thời, cải tạo chắp vá và thiếu vốn để đầu tư sửa chữa, nâng cấp nên đã xuống cấp, không đáp ứng được yêu cầu kinh doanh, không phát huy hết tiềm năng của chợ và không đảm bảo được yêu cầu văn minh thương nghiệp. Bên cạnh đó, các hạng mục như đường đi lại trong chợ, hệ thống cấp nước, công trình vệ sinh, xử lý nước thải, rác thải chưa được quan tâm đúng mức nên điều kiện vệ sinh nói chung và vệ sinh an toàn thực phẩm nói riêng không được đảm bảo.
Như vậy, có thể thấy, cơ sở vật chất mạng lưới chợ trên địa bàn toàn quận hiện nay vẫn chưa tương xứng với vị trí, vai trò của chợ, chưa đáp ứng được yêu cầu trao đổi hàng hoá của nhân dân. Do đó cần có sự đầu tư thoả đáng để phát triển hơn nữa mạng lưới chợ cả về số lượng và chất lượng.
5. Thực trạng hoạt động kinh doanh của các chợ
5.1. Về hàng hoá kinh doanh tại chợ
Ngoài chợ Nông sản Dịch Vọng, chợ Xe máy cũ Dịch vọng là chợ chuyên doanh, số chợ còn lại đều là chợ kinh doanh tổng hợp, nhưng chủ yếu vẫn là hàng nông sản thực phẩm tươi sống và hàng tiêu dùng hàng ngày, bao gồm các loại hàng hoá cụ thể sau:
Hàng lương thực;
Hàng thực phẩm;
Hoa quả các loại;
Nông sản;
Lâm sản;
Cây con giống;
Hàng tiểu thủ công nghiệp;
Hàng công nghiệp, điện tử.
Trong đó sự phân bổ hàng hoá như sau:
Hàng hoá
Tỷ lệ (%)
Hàng lương thực
9
Hàng thực phẩm
43
Hoa quả các loại
12
Nông sản
7
Lâm sản
2
Cây con giống
3
Hàng tiểu thủ công nghiệp
14
Hàng công nghiệp, điện tử
10
Nguồn: Phòng Thống kê quận Cầu Giấy
Biểu đồ 1: Phân bổ cơ cấu hàng hoá tại chợ
Ta thấy, các mặt hàng chủ yếu được bán trong chợ là hàng tiêu dùng (lương thực, thực phẩm, hoa quả), các mặt hàng trong chợ tỏ ra có lợi thế về chủng loại, đa dạng và phong phú về hình thức, nhãn hiệu Và vì thế, rất tiện lợi cho công việc nội trợ, mua sắm, các hoạt động sinh hoạt cũng như sản xuất nhỏ. Như thế nó đáp ứng tất cả các nhu cầu của khách hàng.
Tuy nhiên, ta thấy được sự hạn chế rất lớn của các loại hàng hoá bán tại chợ hiện nay đó là:
Hàng hoá kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ hiện đang còn rất nhiều trên thị trường, và đặc biệt là trong chợ.
Giá cả hàng hoá trong chợ không theo một quy định nào, gây lên rất nhiều phiền toái cho người tiêu dùng, giá cả giao bán tăng lên nhiều so với giá thực tế cần bán làm cho nhiều người tiêu dùng hoang mang, thiệt thòi.
Việc đo lường các đơn vị hàng hoá ở chợ còn nhiều bất cập, tình trạng gian lận còn khá phổ biến, chưa có đầy đủ các dịch vụ đo lường chính xác ở chợ. Hiện tượng này đang làm ảnh hưởng tới uy tín của các chợ.
Hàng hoá trong chợ chưa được kiểm tra độ an toàn vệ sinh thực phẩm một cách nghiêm chỉnh, trình độ của đội ngũ kiểm tra an toàn thực phẩm còn hạn chế.
5.2. Hiệu quả sử dụng mặt bằng kinh doanh ở các chợ
5.2.1. Thực trạng khai thác mặt bằng kinh doanh ở các chợ
Về khai thác mặt bằng kinh doanh ở các chợ, có thể chia làm 3 loại: loại chợ không khai thác hết mặt bằng kinh doanh; loại chợ khai thác hết mặt bằng kinh doanh; loại chợ khai thác quá mức mặt bằng kinh doanh.
Theo kết quả khảo sát, đến hết năm 2005 đối với toàn bộ mạng lưới chợ trong quận có 23% số chợ không sử dụng hết công suất; 49,3% số chợ sử dụng hết 100% công suất thiết kế và 27,7% số chợ sử dụng quá công suất thiết kế ban đầu. Số liệu trên cho thấy, đa số các chợ khai thác hết công suất hoặc vượt quá công suất thiết kế ban đầu. Một số chợ như chợ Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Nhà Xanh, các khoảng trống xung quanh chợ được bố trí các quầy sạp kinh doanh, gây lên tình trạng quá tải, mất an ninh trật tự, ô nhiễm môi trường. Việc các chợ kinh doanh quá công suất thiết kế thường gắn liền với việc giải toả các chợ tự phát lấn chiếm lòng, lề đường, đồng thời đưa các hộ tiểu thương vào kinh doanh ở các chợ.
Như vậy, vẫn còn nhiều chợ khai thác không hiệu quả mặt bằng kinh doanh. Một số chợ không sử dụng hết mặt bằng kinh doanh trong khi đó một số chợ lại bị quá tải. Trong cùng một chợ, tình trạng vừa thừa, vừa thiếu mặt bằng kinh doanh diễn ra một cách khá phổ biến.
Dưới đây là một số biểu hiện của việc khai thác không hiệu quả mặt bằng kinh doanh:
Đối với chợ có tầng lầu (chợ Cầu Giấy) vẫn chưa khai thác mặt bằng tầng lầu để đưa vào kinh doanh. Diện tích tầng lầu bị bỏ trống là 261 m2.
Đã xảy ra hiện tượng các hộ tiểu thương không kinh doanh trong quầy mà lấn chiếm ra ngoài kinh doanh dẫn đến tình trạng dư thừa mặt bằng trong các quầy nhưng lại quá tải ở các khu vực ngoài khác, nhất là các tuyến đường vào chợ.
Nhiều chợ không sử dụng hết công suất thiết kế ban đầu.
5.2.2. Nguyên nhân dẫn đến việc khai thác không hiệu quả mặt bằng kinh doanh
Việc khai thác mặt bằng kinh doanh ở một số chợ vẫn chưa hiệu quả là do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, một số chợ khai thác quá công suất thiết kế về mặt bằng kinh doanh, có nhiều quầy sạp ở ngay cả lối đi vào chợ. Nhiều hộ kinh doanh trong chợ có xu hướng bỏ cả ra ngoài để kinh doanh, nhất là các loại hàng thực phẩm tươi sống, rau quả Khai thác vượt quá công suất thiết kế còn gây lên tình trạng mất an ninh trật tự, không đảm bảo vệ sinh môi trường, khó khăn trong phòng cháy chữa cháy và làm mất mỹ quan chợ.
Thứ hai, vệ sinh môi trường ở các chợ không được đảm bảo. Việc không đảm bảo vệ sinh môi trường ở các chợ làm cho người đi chợ không muốn vào trong chợ mua hàng mà mua ở ngoài chợ, các sạp ở các tuyến đường vào chợ. Điều này gây lên tình trạng phát sinh các hộ kinh doanh lấn chiếm lòng, lề đường để kinh doanh.
Thứ ba, các hộ kinh doanh trong chợ phải nộp các khoản thuế và chi phí dẫn đến giá thành cùng một mặt hàng của những hộ kinh doanh trong chợ cao hơn những hộ kinh doanh tự phát, lấn chiếm lòng, lề đường. Mặt khác, những mặt hàng kinh doanh của những hộ trong chợ và ngoài chợ là giống nhau cùng với tâm lý của người đi chợ là không muốn gửi xe vào chợ mua hàng mà muốn mua ở lề đường đã gây lên những bất lợi cho những hộ kinh doanh trong chợ. Điều này đặt ra vấn đề phải bảo vệ lợi ích chính đáng của những người kinh doanh trong chợ thông qua việc xoá bỏ triệt để các hộ kinh doanh tự phát, lấn chiếm lòng, lề đường.
Thứ tư, công suất thiết kế không phù hợp. Nhiều chợ được xây dựng có quy mô lớn hơn so với mật độ dân cư trong vùng dẫn đến tình trạng dư thừa công suất.
Thứ năm, hiệu lực quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương nhất là cấp phường còn yếu kém, sự thiếu kiên quyết trong việc giải toả các chợ tự phát, các hộ kinh doanh lấn chiếm lòng, lề đường.
Thứ sáu, sự phát triển của mạng lưới siêu thị, các cửa hàng bán lẻ, sự hình thành mạng lưới chi nhánh, đại lý của các cơ sở sản xuất ở các nơi đã làm giảm lượng hàng hoá bán ra ở các chợ đồng thời giảm sức mua của người dân đối với các hàng hoá tiêu dùng mà giá không có sự chênh lệch so với trong siêu thị.
5.3. Về các loại dịch vụ trong chợ
Hầu hết các chợ đều chưa có đầy đủ các dịch vụ, mới chỉ có một số các dịch vụ tối thiểu cho hoạt động của chợ như dịch vụ vệ sinh, trông giữ xe, bảo vệ đêm, bốc xếp hàng hoá Các dịch vụ hỗ trợ như kho hàng hoá, đo lường, kiểm tra chất lượng hàng hoá, cung cấp thông tin các chợ đều không có. Như vậy có thể thấy các dịch vụ trong mạng lưới chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy vẫn còn thiếu thốn, nghèo nàn, lạc hậu.
Bảng 9: Các dịch vụ tại chợ trên địa bàn quận
(tính đến hết tháng 12/2005)
Tên chợ
Dịch vụ tại chợ
Vệ sinh
Bảo
vệ đêm
Bốc xếp
Trông giữ xe
Kho hàng hoá
Kiểm tra chất lượng hàng hoá
Cầu Giấy
x
x
-
x
-
-
Quan Hoa
x
x
-
-
-
-
Nhà Xanh
x
x
-
-
-
-
Nghĩa Tân
x
x
-
x
-
-
Đồng Xa
x
x
-
x
-
-
Nông sản DV
x
x
-
x
-
-
Xe máy DV
x
x
-
x
-
-
Hợp Nhất
x
x
-
x
-
-
Trần Duy Hưng
x
x
-
x
-
-
Nguồn: Phòng kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy
Chú thích: x (có); - (không có)
5.4. Về việc thực hiện vai trò của chợ
Hiện nay, chợ trên địa bàn vẫn đang là nơi phân phối hàng tiêu dùng, hàng lương thực, thực phẩm chủ yếu, nó cung ứng khoảng 50% lượng hàng hoá này cho toàn bộ dân cư trong địa bàn, còn lại 50% là qua hệ thống phân phối khác như cửa hàng bán lẻ, siêu thị, trung tâm thương mại.
Về đóng góp NSNN, trung bình các chợ đã đóng góp khoảng 3 tỷ đồng mỗi năm. Tuy nhiên, sự phân bổ của nguồn thu ngân sách là không đồng đều nhau giữa các chợ, điều này hoàn toàn phù hợp với quy mô và thực trạng phát triển của mỗi chợ.
Về vấn đề giải quyết việc làm, ta có số liệu về số lượng lao động làm việc tại chợ như sau:
Bảng 10: Số lao động trong các chợ (tính đến hết tháng 12/2005)
Đơn vị: người
Tên chợ
Số người bán
hàng tại chợ
Số người lao động quản lý tại chợ
Tổng số
Toàn Quận
2730
148
2878
Cầu Giấy
157
15
172
Quan Hoa
89
07
96
Nhà Xanh
220
11
169
Nghĩa Tân
558
26
584
Đồng Xa
456
29
485
Nông sản DV
700
18
718
Xe máy DV
195
26
221
Hợp Nhất
170
06
186
Trần Duy Hưng
185
10
195
Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy
Từ bảng số liệu trên ta thấy, chợ đã giải quyết việc làm cho gần 3 nghìn người trong đó có cả người buôn bán và người lao động quản lý. Đó là chưa kể đến số lượng lao động làm thuê cho các chủ sạp, các tổ dịch vụ, công nhân bốc xếp Có thể thấy rằng, chợ đã giải quyết một cách rất có hiệu quả việc làm cho một số lượng lớn lao động tại các địa phương, cả khu vực thành thị và nông thôn. Tuy nhiên chúng ta còn có thể nâng cao số lượng lao động này hơn nữa vì còn có một số chợ chưa được quy hoạch cụ thể và một số chợ chưa sử dụng hết công suất. Và vì thế cần phát triển tốt mạng lưới chợ trên địa bàn nhằm tận dụng triệt để những lợi ích, những tiềm năng về người (giải quyết việc làm) và vật chất (ngân sách) mà chợ mang lại cho chúng ta.
6. Thực trạng vệ sinh môi trường, đảm bảo an toàn chợ và văn minh thương mại tại chợ
6.1. Thực trạng vệ sinh môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm
6.1.1. Về vệ sinh môi trường
Trong những năm qua, các cấp quản lý đã có nhiều cố gắng trong việc giải quyết vấn đề vệ sinh môi trường ở các chợ. Hầu hết các chợ đều được quận đầu tư nâng cấp, sửa chữa quầy sạp, nạo vét cống rãnh, tổ chức việc thu gom, vận chuyển rác.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hộ chưa có ý thức trong việc thực hiện công tác này, các chất thải của các sạp hàng vẫn được thải trực tiếp trong chợ, gây ô nhiễm chợ như các hàng mổ gia cầm, hàng bán cá mổ sẵn, nó tác động trực tiếp đến môi trường trong chợ cũng như khu vực xung quanh chợ. Hệ thống xử lý nước ở một số chợ chưa tốt, không đảm bảo có thể gây ứ đọng nước thải, ngập lụt trong mùa mưa gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường và cảnh quan đô thị.
6.1.2. Về vệ sinh an toàn thực phẩm
Tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được ngành chức năng quan tâm, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở đến các tiểu thương thực hiện đúng quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm. Trong toàn quận, 100% các hộ kinh doanh ngành hàng ăn uống trong các chợ được cấp giấy chứng nhận cơ sở đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Các hộ kinh doanh đồ ăn chín 100% đều có tủ quầy theo mẫu quy định. Thực phẩm tươi sống đều qua công tác kiểm dịch động vật. Mỗi chợ đều có trên dưới 10 quầy bán rau sạch.
6.2. Thực trạng về an toàn phòng cháy chữa cháy ở các chợ
Trong thời gian qua, BQL các chợ và các cơ quan chức năng đã có nhiều cố gắng trong công tác phòng cháy chữa cháy. Hàng năm UBND quận cấp kinh phí cho việc bảo dưỡng, duy tu, mua sắm phương tiện phòng chống cháy nổ. Nhiều biện pháp được áp dụng như như nhắc nhở các hộ kinh doanh đề cao cảnh giác, trang bị thiết bị chữa cháy, kiểm tra thường xuyên hệ thống điện, làm vệ sinh phòng cháy, trang bị hệ thống báo cháy, hệ thống cầu dao Những biện pháp trên đã góp phần quan trọng vào việc đảm bảo an toàn cho các chợ.
Tuy nhiên, công tác phòng cháy, chữa cháy ở các chợ vẫn còn tồn tại một số vấn đề như: nhiều chợ chưa có đội phòng cháy, chữa cháy, chưa đảm bảo về thoát nạn, việc sử dụng thành thạo các loại phương tiện phòng và chống cháy còn yếu, chưa thành thạo
II. THỰC TRẠNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC QUẢN LÝ CHỢ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẦU GIẤY HIỆN NAY
1. Các mô hình tổ chức quản lý chợ
Trong thời gian qua, công tác tổ chức và quản lý chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy chịu sự điều chỉnh của những văn bản sau:
Quyết định số 3569/QĐ-UB ngày 16/09/1997 của UBND Thành phố Hà Nội.
Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 về phát triển và quản lý chợ.
Thông tư số 06/2003/TT-BTM ngày 15/08/2003 của Bộ Thương mại hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Ban quản lý chợ.
Toàn Quận hiện có 10 chợ đang hoạt động, trong đó có 3 chợ loại 2 (chợ Cầu Giấy, chợ Nghĩa Tân, chợ Đồng Xa) và 7 chợ còn lại đều là chợ loại 3.
Có 3 BQL chợ do quận quản lý, mỗi BQL chợ quản lý 2 chợ: BQL Cầu Giấy quản lý thêm chợ Quan Hoa, BQL chợ Nghĩa Tân quản lý thêm chợ Nhà Xanh, BQL chợ Đồng Xa quản lý thêm chợ Nông sản Dịch Vọng.
Có 4 chợ do các HTX kinh doanh khai thác và quản lý:
Chợ Trần Duy Hưng do HTX Dịch vụ nông nghiệp Trung Hoà kinh doanh khai thác và quản lý.
Chợ Hợp Nhất do HTX Dịch vụ nông nghiệp Hợp Nhất kinh doanh khai thác và quản lý.
Chợ Xe máy - đồ cũ Dịch Vọng và chợ 337 Dịch Vọng do HTX Dịch vụ nông nghiệp Dịch Vọng kinh doanh khai thác và quản lý.
Như vậy, có 2 mô hình tổ chức quản lý chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy hiện nay đó là:
Mô hình BQL quản lý chợ.
Mô hình HTX quản lý chợ.
1.1. Mô hình BQL chợ
Trên địa bàn quận hiện nay có 6 chợ do BQL quản lý. Các chợ này đều do quận đầu tư xây dựng hoặc hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng. UBND Quận căn cứ vào tính chất, đặc điểm và quy mô của các chợ này đã lập ra 3 BQL và giao cho mỗi BQL quản lý 2 chợ, thể hiện trong sơ đồ dưới đây:
Sơ đồ 3: Sơ đồ BQL chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy
UBND quận Cầu Giấy
BQL chợ
Cầu Giấy
BQL chợ
Nghĩa Tân
BQL chợ
Đồng Xa
Chợ
Cầu Giấy
Chợ
Quan Hoa
Chợ
Nghĩa Tân
Chợ
Nhà Xanh
Chợ
Đồng Xa
Chợ
NSDV
Chú thích: "NSVD": "Nông sản Dịch Vọng"
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của các BQL này do UBND quận Cầu Giấy quy định, cụ thể như sau:
Về chức năng:
Các BQL trên là đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc quận quản lý, tự trang trải các chi phí hoạt động thường xuyên.
BQL thực hiện chức năng quản lý các hoạt động của chợ và tổ chức kinh doanh các dịch vụ tại trong phạm vi chợ được giao quản lý.
Về nhiệm vụ, quyền hạn:
Các BQL có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
Trình UBND quận Cầu Giấy quyết định:
Phê duyệt Phương án sử dụng điểm kinh doanh và bố trí, sắp xếp các ngành nghề kinh doanh tại chợ.
Quy định cụ thể việc việc sử dụng, thuê thời hạn thuê với các biện pháp quản lý điểm kinh doanh tại chợ.
Phê duyệt Nội quy chợ.
Phê duyệt Phương án đảm bảo phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự và an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ.
Phê duyệt kế hoạch sửa chữa lớn, nâng cấp cơ sở vật chất và phát triển các hoạt động của chợ khi có nhu cầu.
Quyết đinh việc tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật để lựa chọn thương nhân sử dụng hoặc thuê điểm kinh doanh tại chợ theo phương án đã duyệt.
Ký hợp đồng với thương nhân sử dụng hoặc thuê điểm kinh doanh tại chợ theo p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5309.doc