Sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ, đặc biệt là năm 2000, vấn đề thúc đẩy nhanh tự do hoá thương mại trong khu vực là một trong những chủ đề được thảo luận tại nhiều cuộc họp ở cấp nguyên thủ quốc gia ASEAN. Các nước thành viên đều cam kết sẽ đẩy nhanh hơn tiến trình cắt giảm thuế quan và bỏ dần các biện pháp phi thuế. Tại Hội nghị hội đồng AFTA lần thứ 13 tổ chức vào tháng 9/1999 tại Singapore thực hiện nghĩa vụ của một nước thành viên, Việt Nam cam kết sẽ công bố lịch trình cắt giám thuế quan tổng thể đến 2006 để thực hiện AFTA của mình. Để thực hiện cam kết này, lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể thực hiện AFTA giai đoạn 2001 - 2006 của Việt Nam đã được Thủ tướng chính phủ phê chuẩn về mặt nguyên tắc tại công văn số 5408/VPCP-TCQT ngày 11/12.2000 của văn phòng chính phủ. Đồng thời căn cứ vào lộ trình này Thủ tướng chính phủ đang xem xét để phê chuẩn nghị định ban hành danh mục cắt giảm thuế quan thực hiện AFTA năm 2001.
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1800 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phương hướng và biện pháp phát triển thương mại Việt Nam khi tham gia AFTA, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng mang tính toàn cầu. Không như trước đây khoa học công nghệ chỉ phát sinh ở những nước kinh tế phát triển mà ngày nay nó đang kéo vào quĩ đạo của mình toàn bộ phần còn lại của thế giới.
Vậy có thể thầy toàn cầu hoá là qui luật phát triển khách quan của nền kinh tế thế giới. Nơi bắt nguồn từ quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất dưới tác động mạnh mẽ của Cách mạng - Khoa học - Kỹ thuật và công nghệ. Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu. Nó là một tiến trình lịch sử chứ không phải là một sự phổ cập tức thì, là bối cảnh chứ không phải là một giải pháp. Vì thế mỗi nước tuỳ hoàn cảnh cụ thể của mình mà tham gia vào toàn cầu hoá để tận dụng được những cơ hội, tránh rủi ro.
II- Khu vực hoá và các cấp độ hội nhập.
1. Khu vực hoá.
Xét về qui mô khu vực hoá diễn ra hẹp hơn quốc tế hoá về phạm vi. Khu vực hoá xét theo kinh tế thể hiện sự phân công, liên kết sản xuất kinh doanh giữa các nước trong khu vực, xoá dần chế độ bảo hộ… để đối phó với sự cạnh tranh và xu hướng bảo hộ của các khu vực khác, nâng cao vị trí của khu vực cũng như từng nước trên trường quốc tế. Thiết lập các vùng kinh tế liên quốc gia để khai thác lợi thế từng nước và toàn khu vực.
Đồng thời khu vực hoá cũng đang là một xu thế mạnh mẽ và diễn ra vô cùng sôi động giữa nhiều cụm quốc gia: Châu Âu có EU (Liên minh Châu Âu) Châu Mỹ có NAFTA (vùng tự do thương mại Bắc Mỹ) Châu á - Thái Bình Dương), ASEAN (Hiệp hội các nước Đông á)… Xu hướng này xuất phát từ sự phát triển không đồng đều giữa các nước khu vực nói chung và giữa các quốc gia nói riêng. Một lý do khác là giữa các quốc gia trong khu vực thường có những đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội… tương đối giống nhau, thuận lợi cho việc hợp tác phát triển hơn.
Hiện nay đồng thời xu hướng toàn cầu hoá là sự phát triển mạnh mẽ của xu hướng khu vực hoá. Thế giới luôn diễn ra những biến đổi nhanh chóng và mau lệ. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, khoa học - công nghệ với xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng mạnh mẽ. Từ lẽ đó không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển được trong sự co cụm, khép kín đối với kinh tế bên ngoài mà phải có liên kết kinh tế.
2. Các cấp độ hội nhập thương mại khu vực.
2.1. Khu vực mậu dịch ưu đãi (Custom Priviledge):
Là hình thức liên kết trong đó các quốc gia thành viên thống nhất áp dụng các mức thuế quan ưu đãi trong quan hệ buôn bán với nhau. Ví dụ GATT.
2.2. Khu vực mậu dịch tự do (Free trade area):
Là hình thức liên kết trong đó các quốc gia thành viên xoá bỏ hoàn toàn các trở ngại trong quan hệ thương mại với nhau, trong khi đó từng quốc gia vẫn áp dụng chính sách thuế quan riêng đối với các nước không thuộc khu vực mậu dịch tự do đó. Ví dụ AFTA.
2.3. Liên minh thuế quan:
Đây là một liên minh quốc tế với nội dung bãi miễn thuế quan và những hạn chết về mậu dịch khác giữa các nước thành viên. Tuy nhiên, có điểm khác nhau với khu vực mậu dịch tự do là đối với minh thuế quan người ta thiết lập một biểu thuế quan chung của các nước thành viên đối với phần còn lại của thế giới.
2.4. Thị trường chung (Common Market):
Đây là một liên minh quốc tế áp dụng c ác biện pháp tương tự như liên minh thuế quan trong việc trao đổi thương mại nhưng nó đi xa thêm một bước là cho phép di chuyển ở cả tư bản lao động tự do giữa các nước thành viên với nhau và từ đó tạo điều kiện cho sự hình thành thị trường thống nhất theo nghĩa rộng.
2.5. Liên minh kinh tế (Economic Union):
Đây là một liên minh quốc tế với một bước phát triển cao hơn về sự di chuyển hàng hoá, dịch vụ, sức lao động và tư bản một cách tự do giữa các nước thành viên, đồng thời có biểu thuế quan chung với các nước không phải là thành viên. Liên minh kinh tế thực hiện thống nhất và hài hoà các chính sách kinh tế - tài chính - tiền tệ giữa các thành viên, bởi vậy đây là hình thức phát triển cao nhất của liên kết kinh tế quốc dân cho đến giai đoạn hiện nay.
Chương II - Khái quát về khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - AFTA
1. Quá trình hình thành và phát triển của khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA.
ASEAN (Asscociation of Southeast Asian Nation), hiệp hội các quốc gia Đông Nam được thành lập từ năm 1967 với mục đích hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị, khoa học, xã hội. Đến nay, ASEAN đã phát triển lớn mạnh với 10 thành Brunei, Indonesia, Malaysia, Phillipin, Singapore, Thái Lan, Việt Nam, Campuchia, Lào và Mianmar. Tuy vậy là một khu vực kinh tế phát triển vào loại năng động nhất thế giới, vấn đề hợp tác kinh tế trong khu vực lại được ra đời khá muộn, năm 1992, 25 năm sau khi thành lập ASEAN.
Từ năm 1967, vấn đề hợp tác kinh tế ASEAN đã được chú trọng với kế hoạch hợp tác kinh tế mà lĩnh vựcưu tiên là cung ứng và sản xuất các hàng hoá cơ bản, các xí nghiệp công nghiệp lớn, các thoả thuận thương mại ưu đãi và các quan hệ kinh tế đối ngoại. Tuy đã có nhiều nỗ lực để thúc đẩy hợp tác kinh tế trong ASEAN nhưng kết quả của những nỗ lực đó không đạt được các mục tiêu mong đợi. Chỉ đến năm 1992, khi các nước thành viên ASEAN ký kết một hiệp định về khu vực mậu dịch tự do AFTA hợp tác kinh tế giữa các nước ASEAN mới thực sự được đưa lên một tầm mức mới.
2. Mục tiêu chính của AFTA.
Việc thành lập AFTA năm 1992 là một mốc quan trọng trong lịch sử tự do hoá thương mại nội bộ ASEAN, đánh dấu sự phát triển về chất lượng hợp tác thương mại: một tổ chức hợp tác kinh tế khu vực. AFTA được đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau:
Tự do hoá thương mại ASEAN bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan.
Thu hút các nhà đầu tư nước ngaòi vào khu vực bằng việc đưa ra một khối thị trường thống nhất.
Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là việc phát triển của các thoả thuận thương mại khu vực (Regional trade arrangement - RTA) trên thế giới.
3. Thách thức.
Qua phân tích cụ thể những lợi thế so sánh của Việt Nam và các nước, chúng ta có thể thấy được những khó khăn của Việt Nam khi tham gia vào tổ chức liên kết kinh tế khu vực. Trước hết đó là sự khác biệt về thể chế và cơ chế quản lý kinh tế. Nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Các quan hệ thị trường trong nền kinh tế Việt Nam thực sự chưa trưởng thành (cái quán tính của cung cách quan liêu, bao cấp trong quản lý còn nặng nền): Điều này thể hiện mức độ sẵn sàng đón nhận tiến trình AFTA chưa cao xét về mặt cơ chế quản lý.
Quan trọng hơn nữa khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa Việt Nam và các nước ASEAN (về thu nhập bình quân trên đầu người, dự trữ ngoại tệ, tỷ lệ lạm phát, vốn đầu tư, trình độ công nghệ…) cho thấy sự cách biệt quá lớn bất lợi cho Việt Nam cũng là mối lo ngại cho quá trình hội nhập này. Trình độ công nghệ sản xuất hiện nay ở nước ta, đặc biệt trong các ngành chủ chốt như công nghiệp chế tạo, chế biến, còn ở mức yếu kém thì liệu có đủ sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường hay chỉ là nơi tiêu thụ hàng hoá của các nước ASEAN thậm chí nhiều doanh nghiệp bị phá sản, thất nghiệp theo đó tăng….
Do cơ cấu ngành hàng xuất khẩu gạo của Việt Nam và phần lớn các nước ASEAN tương đối giống nhau, vì vậy có thể gây ra sự cạnh tranh nội bộ khu vực trong việc thu hút đầu tư, tìm kiếm thị trường và công nghệ (ở mức độ khác nhau). Ngoài ra còn phải kể đến sự cạnh tranh của cả khối với Trung Quốc trong cả thương mại và đầu tư nước ngoài.
Một trong những khó khăn và có lẽ đây là khó khăn lớn nhất mà Việt Nam sẽ phải đương đầu trong quá trình hội nhập là nhân tố về con người do trình độ, kể cả cán bộ quản lý kinh tế và các doanh nhân còn chưa đáp ứng được với nhu cầu đặt ra của tình hình mới.
Nếu chỉ xét riêng về thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam trong môi trường cạnh tranh thì phần lớn các doanh nghiệp còn rất non trẻ, thiếu vốn kinh doanh cũng như trình độ quản lý, tín nhiệm và bề dày kinh nghiệm.
Ngoài ra, tác động không thuận lợi đến các doanh nghiệp còn có những vấn đề về môi trường vĩ mô thiếu ổn định với một hệ thống các thủ tục hành chính phức tạp và không rõ ràng. Thủ tục lập doanh nghiệp, lập chi nhánh, đại diện, mạng lưới kinh doanh trong tỉnh, ngoài tỉnh, ngoài nước nói chung có tác dụng kìm hãm hơn là khuyến khích kinh doanh.
Tóm lại, có thể thật sự hội nhập được với khu vực, chúng ta phải vượt lên những trì trệ của chính mình, đạt được sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội đi kèm với sự tăng trưởng về kinh tế. Sự tăng trưởng cùng nhịp độ với các nước trong khu vực sẽ là cơ sở đảm bảo về lâu dài để có sự liên kết giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN được bền chặt trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
Bên cạnh những khó khăn lớn nhất, chúng ta cũng có những thuận lợi nhất định khi hội nhập với ASEAN. Việt Nam và các nước ASEAN là những nước láng giềng đã có truyền thống giao lưu kinh tế, văn hoá và tương đối hiểu biết lẫn nhau. Bên cạnh đó, đường lối đổi mới của Việt Nam đang tiến tới để hội nhập trong sự thống nhất của khu vực. Liên kết kinh tế giữa Việt Nam và ASEAN là xu thế tất yếu của mỗi nước trong quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu, bởi lẽ nó phù hợp với lợi ích của mỗi quốc gia.
4. Cơ hội.
Tham gia hợp tác kinh tế, thương mại với khu vực, Việt Nam có thể thu được một số cơ hội và thuận lợi sau đây:
Thứ nhất, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN là sự kiện đánh dấu bước phát triển của Việt Nam trong quan hệ quốc tế để hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Việc tham gia vào chương trình này là điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế và thương mại, thúc đẩy nhanh chóng quá trình công nghiệp, hiện đại hoá đất nước. Khi các nước cắt giảm dần thuế thì hàng hoá Việt Nam sẽ có cơ hội tốt hơn để xâm nhập vào thị trường khu vực và thế giới.
Thứ hai, Việt Nam có điều kiện để mở rộng thị trường ưu đãi của AFTA. Kinh nghiệm các nước trong khối cho thấy rằng, gia nhập ASEAN, Việt Nam có đủ điều kiện để mở rộng thị trường sang các nước trong và ngoài khu vực. Hiện nay, khoảng 30% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là từ các nước thuộc ASEAN. Các mặt hàng được Nhà nước ưu tiên nhập khẩu như máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ cho nhu cầu sản xuất công nghiệp khi tham gia vào AFTA, CEPT thì các mặt hàng này sẽ giảm thuế nhập khẩu tới 5%. Như vậy, khi đó luồng hàng nhập khẩu sẽ được mở rộng nhanh chóng. Hơn nữa, do cơ cấu danh mục hàng hoá tham gia CEPT bao gồm cả nông sản thô và nông sản chế biến nên nếu Việt Nam tăng cường sản xuất hàng nông sản thì sự cắt giảm về thuế sẽ trở thành yếu tố kích thích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất mặt hàng này để xuất khẩu sang ASEAN và các nước ngoài khu vực. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tăng dung lượng cung hàng hoá của mình trên thị trường và tham gia cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Thứ ba, tham gia hợp tác kinh tế, thương mại với khu vực, Việt Nam có điều kiện thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu.
Thứ tư, có điều kiện để thu hút được nhiều vốn đầu tư từ những nước thừa vốn và đang có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh sang các ngành có hàm lượng kỹ thuật cao, sử dụng ít nhân công trong khu vực như Singapore, Malaysia, Thái Lan….
Thứ năm, có điều kiện để tiếp thu công nghệ và đào tạo kỹ thuật cao ở các ngành cần nhiều lao động mà các nước đó đang cần chuyển giao. Sử dụng vốn và kỹ thuật cao của các nước trong khu vực để khai thác khoáng sản và xây dựng cơ sở hạ tầng.
Thứ sáu, tận dụng ưu thế về lao động rẻ và có hàm lượng chất xám cao để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang các nước trong khu vực.
Thứ bảy, một trong những qui định về sản phẩm được hưởng qui chế. Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cấp (GPS) của Mỹ là "trị giá nguyên liệu cho phép nhập để sản xuất hàng hoá đó là dưới 65% toàn bộ giá trị của sản phẩm đó khi vào lãnh thổ hải quan Mỹ" và "giá trị một sản phẩm được chế tạo ở hai hoặc trên hai nước là hội viên của một hiệp hội kinh tế, liên minh thuế quan, khu mậu dịch tự do thì được coi là sản phẩm của một nước". Vì vậy, việc Việt Nam tham gia AFTA sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam vẫn có thể nhập nguyên liệu của các nước ASEAN khác để sản xuất và sản phẩm đó vẫn được GPS.
5. Tình hình thực hiện AFTA của Việt Nam cho đến nay.
Sau khi trở thành thành viên của ASEAN vào cuối năm 1995, Việt Nam cam kết bắt đầu tham gia thực hiện AFTA từ 01/01/1996 và sẽ kết thúc vào 01/01/2006 với mục tiêu cuối cùng là cắt giảm thuế xuất nhập khẩu của tất cả các mặt hàng thực hiện AFTA xuống 0-5%.
Đánh giá tác động của việc gia nhập AFTA của Việt Nam trong 5 năm vừa qua ( 1996 - 2000) mặc dù chúng ta đã từng bước thực hiện việc cắt giảm thuế quan cho 4.200 đồng thuế tuy nhiên vẫn chưa cho thấy có những thay đổi đáng kể đối với thị trường xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam. Tỷ trọng hoạt động thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN hầu như thay đổi rất nhỏ cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu cũng không biến động lớn do những nguyên nhân sau:
Giai đoạn 1996 - 2000 mới bắt đầu đưa vào cắt giảm những mặt hàng mà ta có lợi thế về xuất khẩu hoặc có nhu cầu nhập khẩu mà trong nước chưa có khả năng sản xuất được. Những mặt hàng này có mức thuế xuất nhập khẩu thấp, chủ yếu dưới 20% và phần lớn là những nhóm hàng có mức thuế suất 0-5% do vậy việc thực hiện cắt giảm thuế suất theo AFTA hầu như diễn ra trong thời gian này. Do vậy, chưa thể có những tác động lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Mặt khác, những mặt hàng quan trọng, được bảo hộ cao, chiếm gần 50% kim ngạch thương mại của Việt Nam (như rượu, bia, xăng dầu, ô tô, xe máy, phân bón, hoá chất…) đang thuộc danh mục loại trừ hoàn toàn (GE) và danh mục loại trừ tạm thời (TEL) không phải thực hiện các nghĩa vụ cắt giảm thuế quan cũng như loại bỏ hàng rào phi thuế quan.
- Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam so với các nước ASEAN có điểm tương đồng khá rõ nét, cụ thể là nếu Việt Nam có lợi thế xuất khẩu các mặt hàng nông sản, nguyên liệu thô và một số sản phẩm công nghiệp nhẹ thì các nước ASEAN cũng có lợi thế này chính là đối thủ cạnh tranh thị trường xuất khẩu với Việt Nam.
- Thực tế thời gian qua cho thấy ASEAN chưa phải là thị trường xuất khẩu tiềm năng đối với các mặt hàng truyền thống của Việt Nam, mà hội nhập ASEAN chỉ là một bước tập dượt chuẩn bị cho doanh nghiệp bước vào một thị trường rộng lớn hơn.
6. Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể giai đoạn 2001 - 2006 để thực hiện AFTA của Việt Nam.
Sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ, đặc biệt là năm 2000, vấn đề thúc đẩy nhanh tự do hoá thương mại trong khu vực là một trong những chủ đề được thảo luận tại nhiều cuộc họp ở cấp nguyên thủ quốc gia ASEAN. Các nước thành viên đều cam kết sẽ đẩy nhanh hơn tiến trình cắt giảm thuế quan và bỏ dần các biện pháp phi thuế. Tại Hội nghị hội đồng AFTA lần thứ 13 tổ chức vào tháng 9/1999 tại Singapore thực hiện nghĩa vụ của một nước thành viên, Việt Nam cam kết sẽ công bố lịch trình cắt giám thuế quan tổng thể đến 2006 để thực hiện AFTA của mình. Để thực hiện cam kết này, lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể thực hiện AFTA giai đoạn 2001 - 2006 của Việt Nam đã được Thủ tướng chính phủ phê chuẩn về mặt nguyên tắc tại công văn số 5408/VPCP-TCQT ngày 11/12.2000 của văn phòng chính phủ. Đồng thời căn cứ vào lộ trình này Thủ tướng chính phủ đang xem xét để phê chuẩn nghị định ban hành danh mục cắt giảm thuế quan thực hiện AFTA năm 2001.
Theo lịch trình này từ năm 2001 đến 2006, Việt Nam sẽ thực hiện giảm thuế quan cho 6.210 dòng thuế nhập khẩu trong tổng số 6.400 dòng thuế hiện hành, cụ thể như sau:
+ Tiếp tục thực hiện cắt giảm thuế cho 4.200 dòng thuế đã đưa vào thực hiện CEPT từ năm 2000 trở về trước.
+ Khoảng 1940 dòng thuế còn lại sẽ thực hiện cắt giảm trong 3 năm 2001 - 2003 theo lộ trình như sau:
- Năm 2001: khoảng 720 dòng thuế
- Năm 2002: khoảng 510 dòng thuế
- Năm 2003: khoảng 710 dòng thuế.
Việc giảm thuế sẽ được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
+ Toàn bộ các mặt hàng còn lại trong danh mục lại trừ tạm thời (TEL) sẽ phải thực hiện giảm thuế trong 3 năm 2001 - 2002 và 2003.
+ Mức thuế xuất nhập khẩu của toàn bộ mặt hàng trong danh mục giảm thuế không được cao hơn 20% kể từ thời điểm 01/01/2001 trở đi.
+ Tất cả các biện pháp hạn chế định lượng sẽ phải bỏ ngay khi mặt hàng được chuyển vào cắt giảm để thực hiện AFTA.
Như vậy có nghĩa là đến năm 2006 có khoản 95 mặt hàng nhập khẩu từ ASEAN vào Việt Nam sẽ chỉ còn ở mức thuế 0-5% và không bị áp dụng các biện pháp phi thuế quan.
- Trên cơ sở lịch trình tổng thể đã được chính phủ thông qua về mặt nguyên tắc như trên, Bộ Tài chính đã dự thảo nghị định ban hành danh mục thực hiện AFTA năm 2001 với lộ trình cắt giảm thuế quan của khoảng trên 5000 dòng thuế, trong đó có:
+ Khoảng 65% số dòng thuế đạt suất 0-5%
+ 35% số dòng thuế đạt thuế suất 0%.
II- Phương hướng và biện pháp phát triển thương mại Việt Nam khi tham gia AFTA
1. Xây dựng nền kinh tế mở hướng mạnh về xuất khẩu.
Tham gia vào thương mại quốc tế cho phép khả năng sản xuất của một quốc gia lớn hơn nhiều lần nhu cầu của chính quốc gia đó. Vậy để có thể cạnh tranh và cạnh tranh thắng lợi, điều quan trọng là phải làm ra được các sản phẩm mang lợi thế so sánh với các quốc gia khác cùng tham gia hoạt động thương mại quốc tế.
Kinh nghiệm thành công của các nước thành viên ASEAN trong những thập kỷ qua là tạo ra nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh cao để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Phần lớn các nước trong khu vực đã trải qua thời kỳ xuất khẩu ra thị trường quốc tế các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng lao động cao và sử dụng nhiều tài nguyên của quốc gia, nay chuyển sang xuất khẩu nhiều mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao. Hiện nay, ở một số ngành còn sử dụng nhiều lao động, tính cạnh tranh giảm sút rõ rệt do chi phí tiền lương cao.
Trước mắt, Việt Nam còn cần phải tập trung vào các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động và dựa vào việc sử dụng nguồn tài nguyên phong phú của mình coi đó là lợi thế so sánh tương đối của nước ta trong thời gian hiện tại. Đồng thời trên cơ sở thu hút vốn, công nghệ và trình độ quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài, chúng ta cần đón đầu và tiếp cận một số ngành có hàm lượng công nghệ cao, sử dụng nhiều vốn với lao động lành nghề để làm ra những sản phẩm mang tính cạnh tranh cao trong buôn bán quốc tế sau này. Đó là các ngành: chế biến lương thực thực phẩm, dệt may, da giày, khai thác và chế biến dầu khí, luyện kim, cán thép, xi măng… xuất khẩu các sản phẩm lượng thực thực phẩm qua chế biến vừa tạo ra lợi nhuận và kim ngạch cao vừa tránh được hàng rào bảo hộ của các nước thành viên đối với hàng nông sản chưa qua chế biến. Tuy nhiên, cần phải lưu ý đến khía cạnh bảo vệ môi trường sinh thái, tránh xuất khẩu bằng mọi giá làm cạn kiệt nguồn tài nguyên của đất nước.
2. Xây dựng chính sách bảo hộ sản xuất trong nước một cách hợp lý trong điều kiện tự do hoá thương mại.
Các nhà sản xuất Việt Nam vẫn quen dựa vào chính sách bảo hộ được áp dụng trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Nghĩa là bảo hộ thông qua việc cấm hoặc hạn chế nhập khẩu, hoặc nâng cao thuế nhập khẩu lên rất cao.
Do vậy một vấn đề đặt ra cho Việt Nam khi tham gia AFTA, cần phải xây dựng một chính sách bảo hộ đúng đắn sao cho vừa đáp ứng được yêu cầu của CEPT/AFTA đặt ra vừa bảo đảm cho các ngành sản xuất trong nước thích nghi quen dần với môi trường kinh doanh không có sự bảo hộ theo kiểu cũ trước đây.
Muốn vậy cần tập trung giải quyết các nội dung sau:
- Cần xác định một cách cụ thể yêu cầu, mức độ, thời gian bảo hộ cho từng ngành sản xuất phù hợp với chiến lược ưu tiên phát triển đã hoạch định. Quan điểm chung là chỉ bảo hộ đối với những ngành có lợi thế cạnh tranh (lợi thế trước mắt và lợi thế tiềm năng).
- Trên cơ sở xác định hướng phát triển cho từng ngành, xây dựng tiến trình cắt giảm thuế quan đối với các sản phẩm nằm trong danh mục loại trừ tạm thời theo hướng sao cho sản phẩm cần được bảo hộ sẽ được đưa vào giảm sau, yêu cầu bảo hộ càng cao thì đưa vào cắt giảm càng muộn để có thời gian củng cố và phát triển sản xuất.
- Kết hợp giữa tiến trình cắt giảm thuế với tiến trình loại bỏ hàng rào phi thuế quan, đa dạng hoá các chính sách phi thuế quan để bảo họ hợp lý và phù hợp với thông lệ quốc tế.
3. Hoàn thiện chính sách thương mại, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại.
Cùng với chính sách thuế, chính sách thương mại là một trong những công cụ chr yếu để điều chỉnh mức độ, phạm vi hội nhập nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế khu vực theo yêu cầu của CEPT/AFTA. Chính sách thương mại phải trở thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách chung của Nhà nước nhằm động viên các tiềm lực kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu, đồng thời là lá chăn để bảo hộ hợp lý các nhà sản xuất nội địa. Do vậy, chính sách thương mại của Việt Nam sắp tới cần hoàn thiện theo hướng sau:
* Tạo thuận lợi cho các chủthể tham gia hoạt động xuất khẩu.
Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế được tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Bãi bỏ tối đa các qui định về thủ tục hành chính gây trở ngại cho tổ chức tham gia xuất khẩu, như hạn chế cấp giấy phép xuất khẩu trực tiếp, chế độ cơ quan chủ quản, hạn ngạch và kế hoạch xuất khẩu định hướng (từ hạn ngạch mà các nước thoả thuận với Việt Nam)…
* Xây dựng chính sách chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu.
Trên cơ sở phân tích lợi thế so sánh trước mắt và lâu dài (lợi thế tiềm năng) xác định danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ lực phù hợp với từng thời kỳ. Theo mục tiêu đề ra, sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu sẽ theo hướng giảm nhanh xuất khẩu hàng hoá ở dạng nguyên liệu thô và bán sản phẩm, tăng nhanh số lượng các mặt hàng chế biến sâu, tinh trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu; cùng với tăng kim ngạch các mặt hàng xuất khẩu truyền thống và tìm kiếm và tăng tỷ trọng mặt hàng mới theo kịp với yêu cầu tiêudùng hiện đại của thị trường thế giới.
* Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu.
Để đẩy mạnh xuất khẩu cần phải nghiên cứu thị trường, thăm dò và thâm nhập thị trường mới, mặt hàng mới, mở rộng quan hệ bạn hàng…. Muốn vậy, cần phải tổ chức lại các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Hoạt động này trước đây được tiến hành thiếu thống nhất, nhiều tổ chức tham gia nhưng mang nặng tính chất dịch vụ thu tiền, hiệu quả hoạt động chưa cao. Cần phải nhận thức xúc tiến thương mại là một trong những chức năng quản lý Nhà nước quan trọng nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Do vậy, cần có đầu tư đúng mức và có thể chế mới cho hoạt động này.
Trên thực tế, tham gia vào hiệp hội SEAN, thực hiện CEPT/AFTA đã hai năm nay nhưng Việt Nam hiểu biết về các thành viên khác chưa nhiều, các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu thông tin về cơ chế vận hành của CEPT/AFTA cũng như đặc điểm thị trường từng nước. Do đó, trên thực tế Việt Nam chưa có một kế hoạch cụ thể trong quan hệ thương mại với các thành viên ASEAN. Sự yếu kém này phải được khắc phục thông qua việc tổ chức lại hoạt động xúc tiến thương mại.
4. Tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích các doanh nghiệp tham gia tích cực vào quá trình thực hiện CEPT/AFTA.
Doanh nghiệp là những chủ thể có vai trò quan trọng thực hiện những cam kết của Nhà nước trong khuôn khổ CEPT/AFTA. Do đó, cần có các biện pháp thích hợp cho khu vực kinh tế quốc dân và khu vực tư nhân. Cụ thể là:
- Đối với các xí nghiệp quốc doanh, cần thiết phải tiến hành cách theo hướng hiệu suất hoá, chẳng hạn thông qua việc thực hiện cổ phần hoá một cách thích hợp, có thể áp dụng một số biện pháp hỗ trợ về vốn, tín dụng của Nhà nước. Tuy nhiên, cần khẳng định rõ đầu tư Nhà nước chỉ tập trung vào những xí nghiệp có thể tồn tại được sau khi không có hàng rào bảo hộ.
- Đối với các xí nghiệp tư nhân, có thể áp dụng một số hình thức hỗ trợ về tín dụng khuyến khích đầu tư cá nhân vào một số ngành công nghiệp phù hợp với qui mô sản xuất nhỏ và dễ phát huy lợi thế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay như công nghiệp chế biến, công nghiệp lắp ráp điện tử, công nghiệp sản xuất phụ trợ…
Tiếp đó, chúng ta nên áp dụng một số các hình thức hỗ trợ ít nhiều mang tính chất kỹ thuật hơn là chính sách của Nhà nước nhằm bảo vệ cho các doanh nghiệp trong nước, cụ thể là:
- Ngăn ngừa cạnh tranh không lành mạnh, ngược đãi với hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam.
- Hỗ trợ đúng mức các doanh nghiệp Việt Nam thông qua một số biện pháp thích hợp như tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại dưới nhiều hình thức, dùng các công cụ tài trợ gián tiếp như tổ chức hệ thống thông tin, hỗ trợ tuyên truyền quảng cáo, can thiệp, giải quyết những vấn đề phát sinh xâm phạm quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp trên trường quốc tế.
- Tạo thuận lợi về môi trường và thủ tục để doanh nghiệp khai thác được các lợi thế có được của quá trình hội nhập.
- Đặc biệt, chính sách đầu tư thông qua đào tạo cần được coi là trọng điểm nhất để tạo được lợi thế chiến lược trong phát triển. Ngoài các hỗ trợ chính thức bằng đầu tư nguồn lực từ ngân sách các cấp, đã có một số nước rất thành công trong việc thể chế hoá nghĩa vụ đào tạo của các doanh nghiệp, qua đó huy động nguồn lực cho đào tạo.
Kết luận
Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành xu thế không thể đảo ngược của nền kinh tế thế giới hiện đại và tự do hoá thươn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35210.doc