MỤC LỤC
Lời mở đầu
Phần I. Khái quát chung về khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA
1. Quá trình hình thành và phát triển của khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA
2. Mục tiêu chính của AFTA
3. Công cụ thực hiện AFTA (CEPT)
4. Ảnh hưởng của AFTA đến các nước thành viên
Phần II. Những Ảnh hưởng của việc tham gia AFTA đến thương mại Việt Nam
I. Nền kinh tế Việt Nam trước khi tham gia AFTA
II. Những cơ hội và thách thức của nền thương mại Việt Nam khi tham gia AFTA
1. Thách thức
2. Cơ hội
3. Tình hình thực hiện AFTA của Việt Nam cho đến nay
4. Lịch trình cắt giảm thuế tổng thể giai đoạn 2001-2006 thực hiện AFTA của Việt Nam
Phần III. Một số phương hướng và biện pháp phát triển thương mại Việt Nam khi tham gia AFTA
I. Mục tiêu phát triển của Việt Nam trong những năm tới
1. Các mục tiêu trước mắt
2. Các mục tiêu lâu dài
II. Biện pháp phát triển thương mại Việt Nam trong điều kiện tham gia AFTA
1. Xây dựng nền kinh tế mở hướng mạnh về xuất khẩu
2. Xây dựng chính sách bảo hộ sản xuất trong nước một cách hợp lý trong điều kiện tự do hoá thương mại
3. Hoàn thiện chính sách thương mại, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại
4.Tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích các doanh nghiệp tham gia tích cực vào quá trình thực hiện CEPT/AFTA.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1701 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẽ có những ảnh hưởng tích cực trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng điều đó không có nghĩa rằng ảnh hưởng tích cực sẽ như nhau tại tất cả các nước thành viên. Những nước có cơ sở hạ tầng tốt hơn, chất lượng lao động cao hơn và thể chế kinh tế thuận lợi hơn sẽ thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài hơn. Vì thế, cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước thành viên sẽ không kém phần quyết liệt.
4.3. Về khả năng tham gia vào thương mại quốc tế
Như đã nói ở trên, nguyên nhân chính của thành công về kinh tế của các nước ASEAN là chính sách phát triển hướng ra bên ngoài. Vì lý do đó, các nước ASEAN không thể chở thành nước theo chủ nghĩa bảo hộ. Các nước này muốn dùng AFTA để "tăng cường sức mạnh cạnh tranh của ASEAN, như một cứ điểm sản xuất để thâm nhập vào thị trường thế giới" (Ban thư ký của ASEAN, 1993). Cùng với sự tăng lên của chủ nghĩa khu vực, mối đe doạ của sự chia cắt nền kinh tế thế giới là niềm hy vọng rằng AFTA có thể bảo vệ tốt hơn các quyền lơị của ASEAN cũng như khuyếch trương tiếng nói của nó trên các diễn đàn quốc tế. Tóm lại, AFTA sẽ được xem như một công cụ để các nước ASEAN hoà nhập với thế giới. "Tự do thương mại trong AFTA sẽ là sự luyện tập ở cấp độ khu vực trước khi ASEAN tham gia vào hệ thống thương mại đa biên ở cấp độ toàn cầu.
Bảng 2. Tổng thương mại các nước ASEAN (1999-2000)
Đơn vị: USD
Nước
Nhập khẩu
Xuất khẩu
1999
2000
Thay đổi
1999
2000
Thay đổi
Giá trị
%
Giá trị
%
Brunei
2.304,7
2.169,1
(171,5)
(7,3)
1.720,4
1.067,6
(652,7)
(37,9)
Indonesia
48.665,5
62.124
13.458,6
27,7
24.003,3
33.514,8
9.511,5
39,6
Malaysia
84.287,9
1.193,8
13.866,6
16,5
63.677,8
79.647,5
15.696,6
25,1
Myanma
738,0
38.078,2
455,8
61,8
1.883
2.219,4
336,4
17,9
Philippines
35.036,9
138.352,5
3.041,4
8,7
30.742,5
31.387,4
644,9
2,1
Singapore
114.625,1
69.254,1
23.727,3
20,7
110.998
134.680,1
23.682,2
21,3
Thái Lan
56.110,9
14.308
13.143,2
23,4
48.318
61.905,8
13.587,8
28,1
Việt Nam
11.541
423.634,2
2.767
24,0
11.742
15.635
3.893
33,0
Tổng
353.346
70.288,2
19,9
293.085
360.057,6
66.972,6
22,8
Bảng 3. Thương mại nội bộ ASEAN (1999 - 2000)
Nước
Nhập khẩu
Xuất khẩu
1999
2000
Thay đổi
1999
2000
Thay đổi
Giá trị
%
Giá trị
%
Brunei
375,1
639,5
264,4
70,5
895,6
534,4
(361,3)
(40,3)
Indonesia
8.278,3
10.883,7
2.605,4
31,5
4.783,6
6.781,2
1.997,6
41,8
Malaysia
21.885
24.408,6
2.523,6
11,5
12.412,8
15.934,8
3.522
28,4
Myanma
236,8
393,5
156,7
66,2
1.038,6
1.113,3
74,7
7,2
Philippines
4.989,1
5.982,6
993,4
19,9
4.461
4.955,4
494,4
11,1
Singapore
29.269,3
37.784
8.514,6
29,1
26.241
33.291,3
7.050,3
26,9
Thái Lan
9.901,9
15.099,7
5.197,8
52,5
7.987,4
10.475,9
2.488,5
31,2
Việt Nam
2.516,3
2.613
96,7
3,8
3.290,9
4.519,4
1.228,5
37,3
Tổng
77.451,8
97.804,6
20.352,8
26,3
61.110,9
77.605,7
16.494,8
27
Phần 2. những ảnh hưởng của việc tham gia AFTA
đến thương mại Việt Nam
I. Nền kinh tế Việt Nam trước khi tham gia AFTA.
Từ những năm đầu của thập niên 90 sau khi khối SEV giải tán và Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới với chính sách mở cửa và đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước thành viên ASEAN ngày càng được cải thiện và phát triển. Các nước thành viên ASEAN trở thành những bạn hàng quan trọng trong buôn bán ngoại thương của Việt Nam.
Thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN trong mấy năm vừa qua đã phát triển với tốc độ tăng trưởng cao mặc dù mức tăng trưởng trong thời kỳ này còn đột biến và thất thường. Thời kỳ 1991 - 1996, thương mại Việt Nam - ASEAN có mức tăng trưởng bình quân là 26%, chiếm hơn 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam; thời kỳ 1992 - 1994 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore tăng 50% (200 triệu USD), sang các nước ASEAN tăng 67% (630 triệu USD), kim ngạch xuất khẩu sang HongKong giảm 35% (100 triệu USD). Bắt đầu tư năm 1993, HongKong đã giảm mạnh vị trí đầu cung trung chuyển hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam, và phần nào vị trí này đã chuyển sang Singapore.
Trong những năm qua hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN vào thị trường Việt Nam tuy vẫn còn mang tính chất thâm nhập thị trường nhưng có nhiều mặt hàng đã bán rẻ, tạo lập được tập quán tiêu dùng, trước hết phải kể tới xe máy nhập từ Thái Lan, hàng điện, điện tử và điện lạnh nhập từ Singapore, Malaisia, phân bón từ Indonesia...
Trong thương mại với các nước ASEAN, việc xuất khẩu và nhập khẩu thường hay tập trung vào một nhóm các mặt hàng nhất định, chiếm một tỷ trọng rất lớn trong kim ngạch. Chẳng hạn trong năm 1994 chỉ hai mặt hàng là sợi (20 triệu USD) và urê (10 triệu USD) đã chiếm gần 50% kim ngạch nhập khẩu từ Malaysia, cũng trong năm 1994, xe máy nhập thẳng từ Thái Lan là 92 triệu USD trong tổng kim ngạch là 226 triệu USD, chiếm 41%, nếu tính của 91 triệu USD được nhập qua đường Lào thì chiếm khoảng 58% tổng giá trị nhập khẩu từ Thái Lan. Năm 1994 gạo chiếm 34 triệu USD (55%) trong tổng kim ngạch 64 triệu USD xuất khẩu của Việt Nam sang Malaysia.
Mặc dù thương mại Việt Nam và các nước ASEAN đã tăng trưởng với một tốc độ lớn trong thời gian vừa qua, tuy nhiên các mối quan hệ thương mại và giao lưu hàng hoá mới chỉ đang trong quá trình hình thành và đối với rất nhiều các mặt hàng, những mối quan hệ này còn rất mỏng manh và dễ bị phá vỡ.
Khi tham gia thực hiện khu vực mậu dịch tự do ASEAN, đánh giá sự thuận lợi hay khó khăn khi thực hiện và đánh giá các ảnh hưởng không chỉ là tình hình buôn bán ngoại thương của Việt Nam đối với những nước trong khu vực, mà bên cạnh đó và quan trọng hơn rất nhiều, sẽ là các yếu tố cơ bản của nền kinh tế, như cơ sở hạ tầng, các điều kiện về nguồn lực, các yếu tố về chính sách...
II. Những cơ hội và thách thức của nền thương mại Việt Nam khi tham gia AFTA.
1. Thách thức.
Qua phân tích cụ thể những lợi thế so sánh của Việt Nam và các nước, chúng ta có thể thấy được những khó khăn của Việt Nam khi tham gia vào tổ chức liên kết kinh tế khu vực. Trước hết đó là sự khác biệt về thể chế và cơ chế quản lý kinh tế. Nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Các quan hệ thị trường trong nền kinh tế Việt Nam thực sự chưa trưởng thành (cái quán tính của cung cách quan liêu, bao cấp trong quản lý còn nặng nề). Điều này thể hiện mức độ sẵn sàng đón nhận tiến trình AFTA chưa cao xét về mặt cơ chế quản lý.
Quan trọng hơn nữa khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa Việt Nam và các nước ASEAN (về thu nhập bình quân trên đầu người, dự trữ ngoại tệ, tỷ lệ lạm phát, vốn đầu tư, trình độ công nghệ... ) cho thấy sự cách biệt quá lớn bất lợi cho Việt Nam cũng là mối lo ngại cho quá trình hội nhập này. Trình độ công nghệ sản xuất hiện nay ở ta, đặc biệt trong các ngành chủ chốt như công nghiệp chế tạo, chế biến, còn ở mức yếu kém thì liệu có đủ sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường hay chỉ là nơi tiêu thụ hàng hoá của các nước ASEAN thậm chí nhiều doanh nghiệp bị phá sản, thất nghiệp theo đó tăng...
Do cơ cấu ngành hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam và phần lớn các nước ASEAN tương đối giống nhau, vì vậy có thể gây ra sự cạnh tranh nội bộ khu vực trong việc thu hút đầu tư, tìm kiếm thị trường và công nghệ (ở mức độ khác nhau). Ngoài ra cò phải kể đến sự cạnh tranh của cả khối với Trung Quốc trong cả thương mại và đầu tư nước ngoài.
Một trong những khó khăn và có lẽ đây là khó khăn lớn nhất mà Việt Nam sẽ phải đương đầu trong quá trình hội nhập là nhân tố về con người do trình độ, kể cả cán bộ quản lý kinh tế và các doanh nhân còn chưa đáp ứng được với nhu cầu đặt ra của tình hình mới.
Nếu chỉ xét riêng về thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam trong môi trường cạnh tranh thì phần lớn các doanh nghiệp còn rất non trẻ, thiếu vốn kinh doanh cũng như trình độ quản lý, tín nhiệm và bề dày kinh nghiệm. Phần lớn các doanh nghiệp đều mới bước vào thương trường nên có nhiều hạn chế, thể hiện ở các mặt như: kinh doanh trên diện mặt hàng rộng nhưng thiếu chuyên ngành; mạng lưới tiêu thụ còn mong manh; các doanh nghiệp còn chưa quan tâm và ít thành công trong việc xây dựng khối các khách hàng tin cậy và lâu bền; thiếu thông tin và thiếu hiểu biết về thị trường và khách hàng; Thiếu các hoạt động xúc tiến thương mại dưới nhiều hình thức như thông tin thương mại, hỗ trợ triển lãm quảng cáo, tư vấn về thị trường, môi trường đầu tư, tìm đối tác kinh doanh... Ngoài ra, tác động không thuận lợi đến các doanh nghiệp còn có những vấn đề về môi trường vĩ mô thiếu ổn định với một hệ thống các thủ tục hành chính phức tạp và không rõ ràng. Thủ tục lập doanh nghiệp, lập chi nhánh, đại diện, mạng lưới kinh doanh trong tỉnh, ngoài tỉnh, ngoài nước nói chung có tác dụng kìm hãm hơn là khuyến khích kinh doanh.
Tóm lại, có thể thật sự hội nhập được với khu vực, chúng ta phải vượt lên những trì trệ của chính mình, đạt được sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội đi kèm với sự tăng trưởng về kinh tế. Sự tăng trưởng cùng nhịp độ với các nước trong khu vực sẽ là cơ sở đảm bảo về lâu dài để có sự liên kết giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN được bền chặt trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
Bên cạnh những khó khăn rất lớn, chúng ta cũng có những thuận lợi nhất định khi hội nhập với ASEAN. Việt Nam và các nước ASEAN là những nước láng giềng đã có truyền thống giao lưu kinh tế, văn hoá và tương đối hiểu biết lẫn nhau. Bên cạnh đó, đường lối đổi mới của Việt Nam đang tiến tới để hội nhập trong sự thống nhất của khu vực. Liên kết kinh tế giữa Việt Nam và ASEAN là xu thế tất yếu của mỗi nước trong quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu, bởi lẽ nó phù hợp với lợi ích của mỗi quốc gia.
2. Cơ hội.
Tham gia hợp tác kinh tế, thương mại với khu vực, Việt Nam có thể thu được một số cơ hội và thuận lợi sau đây:
Thứ nhất, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN là sự kiện đánh dấu bước phát triển của Việt Nam trong quan hệ quốc tế để hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Có Việt Nam trong ASEAN sẽ góp phần quan trọng tạo ra sự thống nhất mới trong ASEAN, từ đó tạo ra nhiều lợi ích cho Việt Nam và các nước thành viên. Trọng tâm của hợp tác kinh tế trong ASEAN những năm gần đây là hợp tác phát triển thương mại, trong đó cốt lõi là việc hình thành AFTA, thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT, hình thành nên một thị trường thống nhất cho mọi nước thành viên. Việc tham gia vào chương trình này là điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế và thương mại, thúc đẩy nhanh chóng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Khi các nước cắt giảm dần thuế thì hàng hoá Việt Nam sẽ có cơ hội tốt hơn để xâm nhập vào thị trường khu vực và thế giới.
Thứ hai, Việt Nam có điều kiện để mở rộng thị trường ưu đãi của AFTA. Kinh nghiệm các nước trong khối cho thấy rằng, gia nhập ASEAN, Việt Nam có đủ điều kiện để mở rộng thị trường sang các nước trong và ngoài khu vực. Hiện nay, khoảng 30% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là từ các nước thuộc ASEAN. Các mặt hàng được Nhà nước ưu tiên nhập khẩu như máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ cho nhu cầu sản xuất công nghiệp khi tham gia vào AFTA, CEPT thì các mặt hàng này sẽ giảm thuế nhập khẩu tới 5%. Như vậy, khi đó luồng hàng nhập khẩu sẽ được mở rộng nhanh chóng. Hơn nữa, do cơ cấu danh mục hàng hoá tham gia CEPT bao gồm cả nông sản thô và nông sản chế biến nên nếu Việt Nam tăng cường sản xuất hàng nông sản thì sự cắt giảm về thuế sẽ trở thành yếu tố kích thích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất mặt hàng này để xuất khẩu sang ASEAN và các nước ngoài khu vực. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tăng dung lượng cung hàng hoá của mình trên thị trường và tham gia cạnh tranh trên thị trường thế giới .
Thứ ba, tham gia hợp tác kinh tế, thương mại với khu vực, Việt Nam có điều kiện thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu.
Thứ tư, có điều kiện để thu hút được nhiều vốn đầu tư từ những nước thừa vốn và đang có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh sang các ngành có hàm lượng kỹ thuật cao, sử dụng ít nhân công trong khu vực như Singapore, Malaysia, Thái Lan...
Thứ năm, có điều kiện để tiếp thu công nghệ và đào tạo kỹ thuật cao ở các ngành cần nhiều lao động mà các nước đó đang cần chuyển giao. Sử dụng vốn và kỹ thuật cao của các nước trong khu vực để khai thác khoáng sản và xây dựng cơ sở hạ tầng
Thứ sáu, tận dụng ưu thế về lao động rẻ và có hàm lượng chất xám cao để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang các nước trong khu vực.
Thứ bảy, một trong những quy định về sản phẩm được hưởng quy chế Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GPS) của Mỹ là "trị giá nguyên liệu cho phép nhập để sản xuất hàng hoá đó phải dưới 65% toàn bộ giá trị của sản phẩm đó khi vào lãnh thổ hải quan Mỹ" và "giá trị một sản phẩm được chế tạo ở hai hoặc trên hai nước là hội viên của một hiệp hội kinh tế, liên minh thuế quan, khu mậu dịch tự do thì được coi là sản phẩm của một nước". Vì vậy, việc Việt Nam tham gia AFTA sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam vẫn có thể nhập nguyên liệu của các nước ASEAN khác để sản xuất và sản phẩm đó vẫn được GPS.
3. Tình hình thực hiện AFTA của Việt Nam cho đến nay.
Sau khi trở thành thành viên của ASEAN vào cuối năm 1995, Việt Nam cam kết bắt đầu tham gia thực hiện AFTA từ 01/01/1996 và sẽ kết thúc vào 01/01/2006 với mục tiêu cuối cùng là cắt giảm thuế xuất nhập khẩu của tất cả các mặt hàng thực hiện AFTA xuống 0-5%.
Hàng năm Chính phủ Việt Nam đều ban hành Nghị định công bố danh mục thực hiện AFTA cho năm đó. Năm 1997, chính phủ Việt Nam cũng đã phê duyệt Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể thực hiện AFTA giai đoạn 1996 - 2006 của Việt Nam để làm căn cư điều chỉnh cơ cấu trong nước và định hướng cho các doanh nghiệp trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất - kinh doanh phù hợp
Đánh giá tác động của việc gia nhập AFTA của Việt Nam trong 5 năm vừa qua (1996 - 2000) mặc dù chúng ta đã từng bước thực hiện việc cắt giảm thuế quan cho 4200 dòng thuế tuy nhiên vẫn chưa cho thấy có những thay đổi đáng kể đối với thị trường xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam. Tỷ trọng hoạt động thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN hầu như thay đổi rất nhỏ cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu cũng không biến động lớn do những nguyên nhân sau:
Giai đoạn 1996 - 2000 mới bắt đầu đưa vào cắt giảm những mặt hàng mà ta có lợi thế về xuất khẩu hoặc có nhu cầu nhập khẩu mà trong nước chưa có khả năng sản xuất được. Những mặt hàng này có mức thuế xuất nhập khẩu thấp, chủ yếu dưới 20% và phần lớn là những nhóm hàng có mức thuế suất 0-5% do vậy việc thực hiện cắt giảm thuế suất theo AFTA hầu như diễn ra trong thời gian này. Do vậy, chưa thể có những tác động lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Mặt khác, những mặt hàng quan trọng, được bảo hộ cao, chiếm gần 50% kim ngạch thương mại của Việt Nam (như rượu bia, xăng dầu, ô tô xe máy, phân bón, hoá chất...) đang thuộc danh mục loại trừ hoàn toàn (GE) và danh mục loại trừ tạm thời (TEL), không phải thực hiện các nghĩa vụ cắt giảm thuế quan cũng như loại bỏ hàng rào phi thuế quan.
- Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam so với các nước ASEAN có điểm tương đồng khá rõ nét, cụ thể là nếu Việt Nam có lợi thế xuất khẩu các mặt hàng nông sản, nguyên liệu thô và một số sản phẩm công nghiệp nhẹ thì các nước ASEAN cũng có lợi thế này và chính là đối thủ cạnh tranh thị trường xuất khẩu với Việt Nam.
- Thực tế thời gian qua cho thấy ASEAN chưa phải là thị trường xuất khẩu tiềm năng đối với các mặt hàng truyền thống của Việt Nam, mà hội nhập ASEAN chỉ là một bước tập dượt chuẩn bị cho doanh nghiệp bước vào một thị trường rộng lớn hơn.
Bảng 4. Số liệu nhập khẩu của Việt Nam từ các nước ASEAN
Nước
1999
2000
Kim ngạch (USD)
Tăng trưởng (%)
Tỷ trọng (%)
Kim ngạch (USD)
Tăng trưởng (%)
Tỷ trọng (%)
ASEAN
3.288.976.936
-12
100
4.519.376.938
37,4
100
Brunei
4.244
0
Campuchia
12.825.397
-70
1
37.480.637
192,2
0,8
Indonesia
285.240.078
11
9
348.736.843
22,3
7,7
Lào
195.030.573
35
6
111.595.682
-42,8
2,5
Malayxia
308.978.205
24
9
284.913.294
24,6
8,5
Myanma
1.224.849
0
1,4
Philippines
46.137.172
-32
1
63.298.901
37,2
Singapore
1.883.271.915
-18
57
2.760.416.388
46,6
61,1
Thái Lan
556.264.503
-17
17
812.935.193
46,1
18,0
Bảng 5. Các mặt hàng chủ yếu của Việt Nam xuất khẩu sang ASEAN
Nước
1999
2000
Kim ngạch (USD)
Tăng trưởng (%)
Tỷ trọng (%)
Kim ngạch (USD)
Tăng trưởng (%)
Tỷ trọng (%)
ASEAN
2.463.463.175
4,85
100
2.612.950.932
6,07
100
Brunei
539.853
0,02
Campuchia
91.124.963
21,25
3,70
132.722.481
45,65
5,08
Indonesia
421.019.222
33,17
17,09
248.008.414
-41,09
9,49
Lào
164.253.795
124,11
6,67
66.396.913
-59,58
2,54
Malayxia
256.853.800
123,46
10,43
413.478.688
60,98
15,82
Myanma
1.521.014
1,18
0,06
Philippines
393.318.055
0,17
15,97
477.709.281
21,46
18,28
Singapore
822.098.751
-23,89
33,37
885.733.050
7,74
33,90
Thái Lan
312.73.722
5,79
12.69
388.902.105
24,36
14,88
Mặt hàng
Kim ngạch (USD)
Tăng trưởng (%)
Tỷ trọng (%)
Kim ngạch (USD)
Tăng trưởng (%)
Tỷ trọng (%)
Dầu thô
570.878.170
55,77
23,17
927.664.357
62,50
35,50
Gạo
569.558.361
1,30
23,12
230.158.847
-59,59
8,81
LK vitính
393.030.878
15,95
525.642.282
33,74
20,12
Cà phê
96.236.825
-17,33
3,91
58.581.909
39,13
2,24
Hạt tiêu
85.814.885
3,48
57.051.078
-33,52
2,18
Hải Sản
74.447.274
30,28
3,02
74.481.483
0,05
2,85
Dệt may
68.128.898
57,84
2,77
54.758.805
-19,62
2,10
LK điện tử
45.222.995
1,84
521.558.419
1.053,3
19,96
Cao su
38.546.353
164,42
1,56
20.698.177
-46,30
0,79
Giày dép
18.194.001
112,12
0,74
20.673.016
13,63
Rau quả
21.110.204
146,85
0,86
4.717.108
-77,65
0,18
Than đá
17.325.288
106,83
0,70
20.650.583
19,19
0,79
Nguồn: Vụ hợp tác đa biên - Bộ Thương mại
4. Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể giai đoạn 2001 - 2006 để thực hiện AFTA của Việt Nam.
Sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ, đặc biệt là năm 2000, vấn đề thúc đẩy nhanh tự do hoá thương mại trong khu vực là một trong những chủ đề đã được thảo luận tại nhiều cuộc họp ở cấp nguyên thủ quốc gia ASEAN. Các nước thành viên đều cam kết sẽ đẩy nhanh hơn tiến trình cắt giảm thuế quan và bỏ dần các biện pháp phi thuế. Tại Hội nghị hội đồng AFTA lần thứ 13 tổ chức vào tháng 9/1999 tại Singapore thực hiện nghĩa vụ của một nước thành viên, Việt Nam cam kết sẽ công bố Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể đến 2006 để thực hiện AFTA của mình. Để thực hiện cam kết này, Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể thực hiện AFTA giai đoạn 2001 - 2006 của Việt Nam đã được Thủ tướng chính phủ phê chuẩn về mặt nguyên tắc tại công văn số 5408/VPCP-TCQT ngày 11/12/2000 của Văn phòng chính phủ. Đồng thời căn cứ vào lộ trình này Thủ tướng chính phủ đang xem xét để phê chuẩn nghị định ban hành Danh mục cắt giảm thuế quan thực hiện AFTA năm 2001.
Theo lịch trình này từ năm 2001 đến 2006, Việt Nam sẽ thực hiện giảm thuế quan cho 6210 dòng thuế nhập khẩu trong tổng số 6400 dòng thuế hiện hành, cụ thể như sau:
+ Tiếp tục thực hiện cắt giảm thuế cho 4200 dòng thuế đã đưa voà thực hiện CEPT từ năm 2000 trở về trước.
+ Khoảng 1940 dòng thuế còn lại sẽ thực hiện cắt giảm trong 3 năm 2001 - 2003 theo lộ trình như sau:
Năm 2001: khoảng 720 dòng thuế
Năm 2001: khoảng 510 dòng thuế
Năm 2003: khoảng 710 dòng thuế
Việc giảm thuế sẽ được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
+ Toàn bộ các mặt hàng còn lại trong danh mục lại trừ tạm thời (TEL) sẽ phải thực hiện giảm thuế trong 3 năm 2001. 2002 và 2003.
+ Mức thuế xuất nhập khẩu của toàn bộ mặt hàng trong danh mục giảm thuế không được cao hơn 20% kể từ thời điểm 01/01/2001 trở đi
+ Tất cả các biện pháp hạn chế định lượng sẽ phải bỏ ngay khi mặt hàng được chuyển vào cắt giảm để thực hiện AFTA.
Như vậy có nghĩa là đến năm 2006 có khoảng 95 mặt hàng nhập khẩu từ ASEAN vào Việt Nam sẽ chỉ còn ở mức thuế xuất 0-5% và không bị áp dụng các biện pháp phi thuế quan.
- Trên cơ sở Lịch trình tổng thể đã được chính phủ thông qua về mặt nguyên tắc như trên, Bộ Tài chính đã dự thảo nghị định ban hành Danh mục thực hiện AFTA năm 2001 với lộ trình cắt giảm thuế quan của khoảng trên 5000 dòng thuế, trong đó có:
+ Khoảng 64% số dòng thuế đạt thuế suất 0-5%
+ 35% số dòng thuế đạt thuế suất 0%.
Phần III. Một số Phương hướng và biện pháp phát triển thương mại Việt Nam khi tham gia AFTA.
I. Mục tiêu phát triển của Việt Nam trong những năm tới.
1. Các mục tiêu trước mắt
Thứ nhất, đảm bảo thực hiện các cam kết với các nước trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Đây là mục tiêu quan trọng và cấp bách hiện nay trong chính sách thương mại hội nhập của Việt Nam. Trước hết, Việt Nam phải thực hiện cắt giảm thuế quan nhập khẩu ở mức 0-5% theo lịch trình cắt giảm thuế bình thường và lịch trình cắt giảm thuế nhanh sao cho việc cắt giảm thuế được hoàn tất vào năm 2006 theo cam kết chính thức với các nước trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Đồng thời cần chuẩn bị phương án để loại bỏ các hàng rào phi thuế quan theo thoả thuận giữa các nước, cải tổ bộ máy hải quan, thiết lập hệ thống luồng hải quan xanh, xây dựng và áp dụng các mã số về thuế thích hợp, xây dựng bộ máy giám sát việc thực hiện các cam kết với các nước trong AFTA... Việc tham gia vào AFTA cần chú ý hạn chế những yếu kém của nền kinh tế Việt Nam đặc biệt là hạn chế của các ngành công nghiệp chế biến của Việt Nam so với các nước trong AFTA.
Thứ hai, Tích cực chống các hiện tượng buôn bán lậu qua biên giới và gian lận thương mại, xử lý nghiêm minh các vi phạm. Đây là biện pháp để tăng cường quản lý xuất nhập khẩu nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo đảm môi trường kinh doanh đối ngoại có tính pháp lý cao, có mức độ bảo hộ tốt và hình thành nề nếp kinh doanh ổn định, có trật tự, tạo lòng tin đối với các bạn hàng nước ngoài.
2. Các mục tiêu lâu dài.
Một là, phát triển hoạt động thương mại quốc tế nhằm đổi mới cơ cấu kinh tế, gia tăng các ngành sản xuất có hàm lượng khoa học công nghệ và vốn đầu tư cao, khai thác có hiệu quả các nguồn lực phát triển, tăng trưởng kinh tế nhanh, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống người lao động.
Hai là, thực hiện quá trình tự do hoá thương mại từ thấp đến cao theo xu hướng chung của các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc làm này nhằm thực hiện việc giảm thiểu các hàng rào cản trở các hoạt động xuất và nhập khẩu hiện nay.
Ba là, đảm bảo tính nhất quán và tính ổn định của hệ thống luật pháp, chính sách, quy định của các cấp, các ngành đối với các lĩnh vực thương mại phù hợp với các cam kết của khu vực thương mại tự do ASEAN, diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC), tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Bốn là, xây dựng chiến lược thương mại thích hợp với điều kiện hội nhập từ việc xác định thị trường trọng điểm (hiện nay là thị trường khu vực Châu á - Thái Bình Dương), quy hoạch mặt hàng xuất nhập khẩu, thực hiện chính sách đầu tư thích hợp, tổ chức mạng lưới phân phối hàng xuất khẩu hữu hiệu...
Năm là, Sử dụng tổng hợp các công cụ tỷ giá hối đoái, lãi suất, trợ cấp và các biện pháp quản lý hành chính để điều chỉnh hoạt động thương mại theo các mục tiêu đặt ra. Đồng thời, cần chú trọng đến tác động riêng rẽ của từng loại công cụ đến hoạt động xuất nhập khẩu để sử dụng một cách linh hoạt cho thích hợp đối với từng loại quan hệ thương mại trong từng giai đoạn phát triển.
Sáu là, cải tiến mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp trong việc ban hành và thực hiện các văn bản về chính sách thương mại. Điều hoà hợp lý mối quan hệ giữa quản lý vi mô và vĩ mô trong điều tiết các hoạt động thương mại quốc tế. Tránh tình trạng các cơ quan quản lý có thẩm quyền không những không tạo điều kiện thuận lợi mà còn gây ách tắc cho hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.
Bảy là, tăng cường hiệu lực thực hiện của các văn bản pháp luật về thương mại (tăng cường pháp chế thương mại). Xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm các quy phạm pháp luật về quản lý thương mại cả cơ quan quản lý Nhà nước lẫn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Tám là, Bảo đảm cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu để cải thiện cán cân thương mại. Loại bỏ tình trạng nhập khẩu các loại hàng hoá mà trong nước có thể sản xuất được hoặc sản xuất với chất lượng cao hơn. Tích cực thúc đẩy xuất khẩu theo phương châm đa dạng hoá và đa phương hoá thị trường.
Chín là, cải thiện điều kiện thương mại, gia tăng tỷ lệ các hàng xuất khẩu chế biến sâu, nâng tỷ lệ này lên 50%.
II. Biện pháp phát triển thương mại Việt Nam trong điều kiện tham gia AFTA.
1. Xây dựng nền kinh tế mở hướng mạnh về xuất khẩu
Tham gia vào thương mại quốc tế cho phép khả năng sản xuất của một quốc gia lớn hơn nhiều lần nhu cầu của chính quốc gia đó. Vậy để có thể cạnh tranh và cạnh tranh thắng lợi, điều quan trọng là phải làm ra được các sản phẩm mang lợi thế so sánh với các quốc gia khác cùng tham gia hoạt động thương mại quốc tế.
Kinh nghiệm thành công của các nước thành viên ASEAN trong những thập kỷ qua là tạo ra nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh cao để đẩy mạnh hoạt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61716.DOC