Đề tài Phương hưóng và giải pháp cho phát triển hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU

NỘI DUNG 1

 PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ 2

I, Khái niệm 2

II, Phân loại 2

III,Đặc điểm 3

IV, Vai trò 4

 PHẦN 2: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ

I,Thực trạng sản xuất 7

II, Tình hình tiêu thụ 9

1, Trong nước 9

2, Xuất khẩu 9

 III, Đánh giá

1, Thành tựu đạt được 13

2, Hạn chế và nguyên nhân tồn tại 14

 PHẦN 3: PHƯƠNG HƯỚNG

I, Phương hướng 17

II, Giải pháp 18

1, Giải pháp từ phía doanh nghiệp 18

2, Giải pháp từ phía nhà nước 21

KẾT LUẬN

 

doc28 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2293 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hưóng và giải pháp cho phát triển hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đề xã hội. Chính vì thế mà TCMN đang là mối quan tâm của các cấp, các ngành, các địa phương. Tuy nhiên thực trạng phát triển ra sao thì chúng ta cấn tìm hiểu và xem xét để từ đó tìm ra đâu là mặt được đâu là mặt chưa được và cùng đưa ra những phương hướng,giải pháp hợp lý. PHẦN 2: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ I, THỰC TRẠNG SẢN XUẤT 1. Quy mô sản xuất Sản xuất ở các làng nghề vẫn còn nhỏ lẻ, quy mô vốn không nhiều 70% hộ gia đình chỉ có vốn trên dưới 10 triệu đồng. Đối tượng này tập trung chủ yếu tập trung tại các làng nghề sản xuất không đòi hỏi đầu tư nhiều như nghề mây tre đan, thêu ren…Ngược lại cũng có 1 số làng nghề có các hộ gia đình với số vốn đầu tư tương đối lớn, tập trung ở 1 số làng nghề như gốm sứ, đồ gỗ,…và hiện nay thì đang có xu hướng gia tăng các cơ sở sản xuất có quy mô lớn nhưng diễn ra 1 cách chậm chạp. 2. Lao động Hiện nay tại các làng nghề đều sử dụng lao động tại các địa phương tuỳ theo trình đọ phát triển của làng nghề mà lực lượng lao động sẽ vừa làm nông vừa làm nghề thủ công hay chuyển sang hẳn nghề thủ công. Theo thống kê hiên nay cả nước có 1,3 triệu thợ thủ công chuyên nghiệp và khoảng gần 3 triệu người làm thêm nghề thủ công. Trên thực tế vấn đề bất cập đặt ra hiện nay là sản phẩm có chất lượng cao phụ thuộc rất nhiều vào tay nghề người thợ nhưng đội ngũ lao động phổ thông và có tay nghề trung bình lại chiếm con số lớn. Hầu hết thợ này được đào tạo bằng hình thức truyền nghề trong gia đình chỉ có 1 số ít được đào tạo qua trường lớp. Nhận thức được điều này 1 số địa phương đã có sự chú ý tới đào tạo nghề nhưng hiệu quả chưa cao. Như ở Bát Tràng 1 số cá nhân đã đứng ra tổ chức dạy nghề nhưng mới chỉ dừng lại ở việc tạo mẫu. 3. Công nghệ sản xuất Do sự phát triển của khoa học công nghệ nên tại các làng nghề đã có sự đổi mới công nghệ, sử dụng máy móc thiết bị thay thế lao động thủ công ở những công đoạn có thể. Như ở Bát tràng các hộ sản xuất có xu hướng chuyển dần sang dùng lò ga thay thế lò hộp mặc dù chi phí sản xuất cho xây dựng 1 lò ga khoảng 150 triệu đồng > 20-30 triệu đồng khi xây dựng lò than nhưng chi phí sản xuất cuối cùng vẫn rẻ hơn do chi phí lao động và chi phí liên quan khác thấp hơn. Ngoài ra việc sư dụng lò ga còn cải thiện đáng kể tình trạng ô nhiễm môi trường vì đến nay đã có 200 lò nung bằng ga trong tổng 1100 lò đang hoạt động. Tuy nhiên chi phí đầu tư ban đầu quá lớn nên nhiều hộ gia đình không có đủ tiền để mua và chuyến sang sử dụng lò ga. Do đó nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ vay vốn cho các doang nghiệp và các hộ gia đình. 4. Nguyên vật liệu Khối lượng nguyên vật liệu cho các làng nghề sử dụng khá lớn. Tuy nhiên công tác quy hoạch vùng nuôi trồng, khai thác và quản lý nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất chưa được quan tâm thực sự. Việc vung ứng nguyên vật liệu cho sản xuất ở các làng nghề chủ yếu do tư thương đảm nhận. Các cơ sở sản xuất tại các làng nghề đang gặp phải khó khăn lớn về nguyên liệu. Hiện nay hầu hết các cơ sở đều phải đi mua nguyên vật liệu từ bên ngoài chỉ có 1 số ít các cơ sở sản xuất tự cung tự cấp. Như ở làng nghề An Tịnh(Tây Ninh), Thái Mỹ (tpHCM), sử dụng tre trúc trồng quanh nhà để sản xuất. Miền Đông Nam Bộ có 248 cơ sở sản xuất(87%) mua nguyên vật liệu từ bên ngoài 90-100%, 22 cơ sở sản xuất(7,7%) mua từ bên ngoài 80-90%, số lượng cơ sở sản xuất mua bên ngoài dưới 80% chiếm tỷ lệ không đáng kể. Thị trường cung ứng nguyên vật liệu cho các làng nghề chủ yếu do tư thương đảm nhận vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ và thiếu ổn định chưa đảm bảo cho việc phát triển bền vững của làng nghề trong dài hạn. Rõ ràng ở nước ta chưa quy hoạch được vùng nuôi trồng nguyên vật liệu lớn ổn định cho các làng nghề. Vì vậy cơ quan quản lý làng nghề cần sớm có chiến lược quy hoạch vùng trồng nguyên vật liệu lớn ổn định đảm bảo cho sản xuất diễn ra liên tục. 5. Môi trường Vấn đề nhức nhối nhất ở các làng nghề là tình trạng ô nhiễm môi trường sản xuất và môi trường sinh hoạt. Đối với làng nghề Bát Tràng lượng khói bụi từ hàng ngàn lò nung gốm toả ra làm không khí bị nóng và ô nhiễm. Làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ ở Bắc Ninh, Nam Định lại bị ô nhiễm bởi tiếng ồn, bụi của hàng loạt máy cưa xẻ, đục, chạm khảm liên tục, bụi gỗ, chất thải của các loại xe kéo than… Một thực trạng nữa đó là phần lớn các cơ sở sản xuất kinh doanh nghề thủ công truyền thống đặc biệt là hộ kinh doanh đều sử dụng diện tích của chính hộ gia đình mình là nơi sản xuất. Điều này ảnh hưởng rất xấu tới môi trường sống của hộ gia đình. Trong những năm qua hoạt động sản xuất hàng TCMN đã có những bước phát triển nhất định theo hướng áp dụng công nghệ vào 1 số công đoạn sản xuất. Điều đó thể hiện sự chuyên môn hoá bắt đầu xâm nhập vào sản xuất. Tuy nhiên vấn đề còn tồn tại với mặt hàng này là tính chất nhỏ lẻ chủ yếu sản xuất tại các hộ gia đình và việc thiếu nguyên vật liệu, thiếu những nghệ nhân giỏi để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao và hàng loạt các vấn đề khác kéo theo. II, TÌNH HÌNH TIÊU THỤ 1, Thị trường trong nước: Sản phẩm của hàng TCMN rất phong phú và đa dạng. Hiên nay, các sản phẩm của làng nghề đang được tiêu thụ ở cả thị trường trong nước và xuất khẩu( bao gồm cả xuất khẩu tại chỗ). Thị trường trong nước chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu tiêu thụ sản phẩm TCMN.Và thị truờng chính vẫn là ngoại quốc với kim ngạch xuất khẩu ngày 1 tăng đem lại 1 lượng ngoại tệ khá lớn cho nước nhà. 2, Thị trường nước ngoài Bảng 1: xuất khẩu TCMN Việt Nam giai đoạn 2000-2006(đơn vị: 1.000USD) STT sản phẩm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 1 mây,tre, cói,lá, thảm 92.500 103.100 113.200 141.000 171.700 180.200 191.600 2 tốc độ tăng (%) 11,5 9,6 24,5 21,7 4,9 5,7 3 gốm,sứ 108.393 117.082 123.480 135.860 154.600 255.300 274.300 4 tốc độ tăng (%) 8 5,5 10 9 65,1 7,4 5 Sơn mài, mỹ nghệ 36.219 34.043 50.996 59.612 89.673 6 tốc độ tăng (%) -6 50 17 50 7 Thêu 50.463 54.735 52.673 60.615 65.374 8 tốc độ tăng (%) 8 -4 15 8 9 sản phẩm đá và kim loại quý 132.000 164.530 10 tốc độ tăng (%) 24,6 11 Tông giá trị 287.600 308.900 340.400 397.300 515.800 569.000 630.400 12 tốc độ tăng (%) 7,6 10,2 16,7 29,8 12 10,8 Nguồn Niên giám thống kê Bảng 1 cho thấy kim ngạch xuất khẩu 1 số mặt hàng chủ lực của ngành TCMN nói riêng cũng như kim ngạch xuất khẩu nói chung của ngành hàng này từ năm 2000 đến nay đều có những bước tăng trưởng ( ngoại trừ hàng sơn mài mỹ nghệ và thêu là có sự biến động thất thường). Song nếu nhìn vào tốc độ tăng trưởng năm sau so với năm trước thì sự tăng trưởng trên không mang tính ổn định, thậm chí còn có bước tụt lùi rõ rệt. Nguyên nhân là do ngành TCMN Việt Nam chưa xây dựng được 1 chiến lược phát triển thực sự khoa học và phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước. Về cơ cấu: Hàng TCMN xuất khẩu hiện nay tập trung vào 4 nhóm sản phẩm chính là: mây tre, cói lá, và thảm các loại; đồ gốm sứ thêu ren và dệt; sản phẩm từ đá và kim loạ quý. 4 nhóm này đã chiếm hơn 90% kim ngạch xuất khẩu của ngành hàng. Tuy nhiên nhìn vào bảng trên có thể thấy mặt hàng gốm sứ đang được nhận định là có khả năng phát triển nhanh song tốc độ tăng trưỏng chưa thực sự ổn định. Các sản phẩm từ mây tre, cói, lá và thẩm các loại thì đang giảm ngay cả mặt hàng thêu ren và dệt cũng không ổn định và phụ thuộc vào rất nhiều thị trường. Mặt hàng đá và kim loại quý tuy mới hình thành nhưng cũng đã phát triển mạnh trong mấy năm gần đây. Hiện tại hàng TCMN nước ta có mặt ở gần 100 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trưòng có sức mua lớn và ổ định như: Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ.Dẫn đầu kim ngạch xuất khẩu là gốm, sứ mỹ nghệ(100 triêu USD), mây tre đan(70 triệu), đồ gỗ mỹ nghệ (20 triệu USD), thêu ren thổ cẩm(20 triệu),thảm các loại(15 triệu). Nhìn chung thị trường của hàng TCMN đã thay đổi rất nhiều trong vài thập kỷ gần đây. Trước đây hàng TCMN của nước ta được xuất khẩu chủ yếu sang các nước thuộc Liên Xô cũ, Đông Âu và các nước láng giềng Thái Lan, Lào, Camphuchia thị hiện nay được bán ở hầu hết các nước trên thế giới, với 3 thị trường mục tiêu: Thị trường EU Liên minh EU đang là thị trường có tầm quan trọng nhất. Năm 2005 trong những thị trường xuất khẩu chính của hàng TCMN thì có tới 7 nước của EU chiếm 42% tương đương với khoảng 24 triệu USD và gấp 4 lần lượng xuất khẩu sang Nhật hay Hoa kỳ. Sản phẩm đồ gỗ đang thâm nhập rất tốt vào vào thị trường EU - thị trường tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất. Hàng gốm sứ mỹ nghệ cũng là nhóm hàng đang được tiêu thụ mạnh trong thị trường này. Thông qua hội chợ Frankfrut hàng năm tại Đức 1 số doanh nghiệp ta đã thành công trong việc nắm bắt nhu cầu khách hàng, ký được nhiều hợp đồng xuất khẩu hàng gốm, sứ mỹ nghệ. Đặc biệt hàng gốm sứ Việt Nam được nhiều khách hàng ưa chuộng, nhiều thương nhân chuyển từ đặt hàng các nước khác tập trung sang Việt Nam và hứa hẹn đầu tư mở rộng sản xuất tăng sản lượng hàng cung ứng cho thị trường này lên 2-3 lần. Các mặt hàng mây, tre, các sản phẩm bàn ghế trang trí nội thất bằng nguyên liệu song mây, hàng thêu ren cũng được thị trường này ưa chuộng. Việt Nam đã thực hiện xuất khẩu 1 khối lượng đáng kể các mặt hàng mây tre sang Tây Âu; thảm, cói, đệm sang Hà Lan, Tây Ban Nha,Italy; hàng thêu ren sang Pháp, Thụy Sỹ, Áo, Đức. Trong khu vực thị trường này hầu hết các nước đều nhập khẩu hàng TCMN của nước ta, trong đó có 1 số thị trường nhập khẩu với khối lượng tuơng đối lớn.Thực tế cho thấy nhu cầu của thị trường là rất lớn nhưng chúng ta lại không đáp ứng được do các cơ sở sản xuất hiện nay còn nhỏ lẻ, phân tán. Thị trường Mỹ Những năm gần đây Hoa kỳ có nhu cầu nhập khẩu khoảng 1,3 tỷ USD/năm hàng TCMN.Năm 2006 kim ngạch xuất khẩu đạt 76,4 triệu USD. Các đơn hàng nhập khẩu của Mỹ thường rất lớn vì đây là thị trường rất lớn và có chi phí kinh doanh rất đắt nên chỉ có làm ăn lớn mới có thể tồn tại được. Trong khi đó, sản xuất hàng TCMN của Việt Nam còn nhỏ lẻ, manh mún, các cơ sở sản xuất thưòng là các công ty TNHH nhỏ, hợp tác xã chủ yêú là các hộ gia đình nên rất khó khăn trong việc đáp ứng các đơn hàng có số lượng tương đối và thời gian giao hàng nhanh. Ngoài ra sự hợp tác yếu kém giữa các doanh nghiệp cũng là 1 trở ngại đáng kể đối với việc liên kết, sản xuất, chia sẻ các đơn hàng. Hơn nữa hàng TCMN của nước ta mẫu mã chưa phong phú, chưa quan tâm tới nghiên cúư thị trường mà chủ yếu dựa và mẫu mã được đặt trước hoặc mẫu mã truyền thống. Thị trường Nhật Bản Nhật Bản là thị trường gần và có nhu cầu rất lớn về nhiều loại hàng TCMN của nước ta, nếu xét về thị trường từng nước thì Nhật bản là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 sau Pháp. Theo thống kê của tổng cục hải quan Việt Nam năm 2006 Việt Nam xuất khẩu sang Nhật khoảng 70,14 triệu USD trong đó 30,8 triệu USD hàng gốm sứ. Trong các mặt hàng TCMN Việt Nam xuất khẩu vào Nhật thì hàng gốm sứ, đồ gỗ nội thất và mây tre đan là mặt hàng chính, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này chiếm 50-85% kim ngach xuất khẩu TCMN hàng năm của nước ta sang Nhật Bản. Mặc dù có nhiều lợi thế so sánh trong việc xuất khẩu nhưng cũng không ít những khó khăn. Tỷ trọng xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam tại thị trường Nhật Bản nói chung còn nhỏ bé so với tiềm lực thực tế chủ yếu là do chất lượng hàng hoá và khả năng tiếp cạn thị trưòng còn yếu. III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU 1. Những thành tựu đạt được Trong mấy năm vừa qua ngành hàng thủ công mỹ nghệ đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, năm 2006 kim ngạch xuất khẩu đạt 630,4 triệu USD, năm 2007 đạt 750 triệu USD và mục tiêu năm 2010 đạt 1,5 tỷ USD. Ngành công nghiệp “không khói” này có rất nhiều thế mạnh mà nhiều nước trong khối ASEN không có, chính vì vậy mà giá trị ngoại tệ thu đuợc hàng năm từ kim ngạch xuất khẩu là rất lớn chiếm 95-97%. Sự kiên gần đây nhất là việc sát nhập Bộ Công Nghiệp và Bộ Công Thương tạo nên sự gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất và giao thương. Chính điều này sẽ là nền tảng tốt cho phát triển của mặt hàng này. Cùng với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO nên có thêm nhiều cơ hội để giao luư học hỏi và tiếp cận với các thị trường mới. Trong những năm gần đây chúng ta đã tổt chức được nhiều các cuộc hội chợ, triển lãm ở trong và ngoài nước. Bên cạnh đó ở nước ta đã bắt đầu hình thành loại hình du lịch làng nghề (loại hình du lịch văn hoá có chất lượng cao) 2. Hạn chế và nguyên nhân tồn tại Bên cạnh những thành tựu đạt được thì việc sản xuất và tiêu thụ hàng TCMN còn tồn tại 1 số hạn chế. Đây chính là nguyên nhân làm cho tốc độ tăng trưởng mặt hàng này sụt giảm trong mấy năm gần đây và có nguy cơ bị vỡ kế hoạch 2.1 Trước hết là về nguồn nguyên vật liệu, các địa phương khai thác bừa bãi, thiếu quy hoạch đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu dẫn đến tình trạng nguồn: gỗ, tre, giang, mây.. dần cạn kiệt. Hệ qủa là các doanh ngiệp phải nhập khẩu 50% từ Lào, Camphuchia, Indonexia. Giá của các nguyên liệu mât tre tăng tù 7000 đến 1700d/cây chỉ trong vòng 2 năm gần đây. Nhìn chung tình trạng cạn kiệt nguyên vật liệu thô là nguy cơ chung với nhà sản xuất Việt Nam. Trong khi đó các ngành phụ trợ của nước ta hiện nay chưa phát triển, các nhà xuất khẩu phải thường xuyên nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài, vd như: sọi sơn mài PU và chất nhuộm để thực hiện khâu hoàn thiện sản phẩm, vải có chất lượng cho sản xuất hàng thêu ren hầu như phải nhập khẩu hoàn toàn làm cho chi phí nguyên vật liệu chiếm 60% chi phí sản xuất. Sự mất chủ động trong cung ứng nguyên vật liệu làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 2.2 Doanh nghiệp yếu trong thăm dò thị trường Các doanh nghiệp sản xuất hàng TCMN hầu như không xuất khẩu trực tiếp nên không năm được nhu cầu khách hàng. Mặt hàng này đã có mặt ở hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng lại không ổn định cả về số lượng và chất lượng. Đã như doanh nghiệp lại không nhận thức được sự quan trọng của vai trò và việc thiết kế sang tạo mẫu mã sản phẩm. Khi quan sát 10 cơ sở sản xuất tại Đồng Nai thì có tới 8 cơ sở không có khâu thiết kế trong quá trình sản xuất, trong khi mẫu mã là 1 trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng sản phẩm. Thực tế đã cho thấy rất rõ năm 2002, hàng TCMN được người tiêu dùng Nhật Bản rất ưa chuộng nhưng đến nay sức hấp dẫn của mặt hàng này đã giảm nhiều do không có sự thay đổi về mẫu mã. Với người Nhật, yêu cầu của mặt hàng phải thay đổi nhanh sao cho phù hợp với các mùa trong năm. Bởi vậy dòng đời của sản phẩm rất ngắn đòi hỏi cá doanh nghiệp xuất khẩu hàng TCMN phải nhanh nhạy đáp ứng nhu cầu đó. Việt Nam có tiềm năng rất lớn để phát triển hàng TCMN nhưng thành qủa đạt được thì còn quá nhỏ. Một bất cấp đang diễn ra là các doanh nghiệp vẫn sản xuất theo lối truyền thống chưa có sự am hiểu thị trường, thị hiếu tiêu dùng, chưa tạo được théo quen kinh doanh theo lối hiện đại. Đây chính là nguyên nhân của hàng loạt các vụ tranh chấp bản quyền, vi phạm bản quyền mẫu mã thương hiệu. Nhiều doanh nghiệp vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của việc đăng ký bản quyền cho sản phẩm mới và vai trò của việc bảo hộ thương hiệu về mặt pháp lý. Mặt khác thủ tục đăng ký bản quyền cho sản phẩm TCMN còn nhiều điều gây khó khăn cho doanh nghiệp. Để có được bản quyền cho sản phẩm của mình doanh nghiệp phải tốn khá nhiều thời gian vào quá trình đăng ký làm thủ tục và chờ đợi. Luật sở hữu trí tuệ đã có nhưng với cách làm việc như hiện nay đã gián tiếp đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng tranh chấp vi phạm bản quyền, hạn chế sự phát triển của ngành TCMN. 2.3 Nghèo nàn về kiểu dáng và mẫu mã Một bất cập rất lớn đang là vấn đề nan giải của hàng TCMN đó chính là tình trạng ăn cắp, sao chép mẫ mã, bản quyền. Tình trạng này hiện nay diễn ra khá phổ biến trong các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp. Chính kiểu làm ăn này đã dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp tự hại nhau trong kinh doanh xuất klhẩu. Trong mấy năm gần đây mặt hàng gốm sứ liên tục giảm xuống do cạnh tranh không lành mạnh và đánh mất bản quyền trong mẫu thiết kế gốm. Đây là 1 bằng chứng thiết thực cho thấy duy trì lối kinh doanh như hiện nay thì chính các doanh nghiệp lại tự hại nhau. Hiện nay khoảng 90% sản phẩm hàng TCMN xuất khẩu đều được sản xuất theo mẫu thiết kế của nước ngoài đặt hàng. Điều này giải quyết tốt đầu ra cho sản phẩm trong hiện tại nhưng về lâu dài sẽ làm “ thui chột“ các ý tưởng sáng tạo của người nghệ nhân và các thợ nghề mà hiệu quả lại thấp. Một sản phẩm có mẫu mã đẹp, thiết kế kiểu dáng độc đáo có thể đem lại gấp 4 lần giá trị so với mẫu mã thông thường. Hội nhập WTO với sự có mặt của các nhà sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài, nếu ta cứ đua với họ về vốn và công nghệ thì chắc chăn nắm phần thua và khi đó cạnh tranh bằng giá rẻ sẽ không hiệu quả nữa. Đã đến lúc các doanh nghiệp TCMN Việt Nam cần phải vươn lên khai thác lợi thế cạnh tranh bằng trí tuệ và sự sáng tạo. Cũng vì mẫu mã chưa hấp dẫn, sản phẩm chưa có thương hiệu thực sự và do chất lượng kém nên giá “bèo” dẫn đến giá trị xuất khẩu hàng TCMN chưa bao giờ đạt tới 1 tỷ USD, mặc dù Việt Nam có rất nhiều tiềm năng để phát triển ngành này. Tại sao TCMN của nước ta tại thị trường Nhật lại sụt giảm nhanh đến vậy cũng bởi mặt hàng của ta chưa đáp ứng được yêu cầu của ngưòi Nhật, họ luôn quan niệm rằng: “hàng rẻ là chất lượng kém”, họ sẵn sàng trả giá cao cho những sản phẩm chất lượng tốt. 2.4 Bên cạnh đó còn tồn tại hàng loạt các nguyên nhân khác như: Ngành thủ công mỹ nghệ vẫn nằm ngoài chương trình đầu tư khoa học – công nghệ của nhà nước. Phía bên cung(các nhà khoa học, mỹ thuật) rất cần tới các nhà sản xuất để đưa các công trình nghiên cứu thành các sản phẩm thương mại; ngược lại các nhà sản xuất cũng cần tới các nhà khoa học, mỹ thuật đưa các sáng tác, mẫu mã mới cho sản phẩm. Nhưng rồi cả 2 bên vẫn chua gặp được nhau, nhà khoa học thì vẫn thiếu đất dụng võ còn các nhà sản xuất, doanh nghiệp thì vẫn không có mẫu mã mới để cải tạo cho sản phẩm của mình. Trước những khó khăn đang gặp phải thì nhà nước đã không bàng quan nhưng các biện pháp, chính sách nhà nước đưa ra còn thiếu đồng bộ và chưa đầy đủ. Các hiệp hội làng nghề vẫn chưa thực sự là cầu nối hữu hiệu giữa doanh nghiệp và nhà nước. Trước thực trạng đó( tiềm năng thì lớn nhưng thành quả đạt được lại quá nhỏ); nhà nước, doanh nghiệp, các ban ngành, địa phương và các tổ chức hiệp hội làng nghề cần phải có những biện pháp khắc phục những yếu lém đồn thời phát huy những thế mạnh sẵn có. PHẦN 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP I, PHƯƠNG HƯỚNG Trong định hướng phát triển ngành thương mại từ nay tới 2010 nhóm hàng TCMN xuất khẩu chiếm vị trí rất quan trọng. Theo đó mục tiêu đề ra cho kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN năm 2008 đạt 997 triệu USD(tăng 21,5%); năm 2009 đạt 1,214 tỷ USD(tăng 21,7%); năm 2010 đạt 1,5 tỷ USD với cơ cấu nhóm hàng như sau: Nhóm hàng dự kién năm 2010 Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) tỷ trọng Mây, tre, cói, lá 450 30% gốm sứ 660 44% Đá, kim loại quý 390 26% Để thực hiện được mục tiêu trên, ngành hàng TCMN đang từng bước định hướng phát triển trong hoạt động sản xuất kinh doanh: Không ngừng cải tiến, đổi mới mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, có thể xem xét việc mời các khách hàng lớn, khách hàng tiêu biểu và tiềm năng đóng góp ý kiến trong quá trình thiết kế sản phẩm mới và các dịch vụ bán hàng. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, mở được nhiều thị trường mới theo phương pháp đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ thị trường và quan hệ buôn bán. Quan tâm có định hướng chiến lược, chính sách và biện pháp khai thác thị trường có dung lượng lớn, có nhu cầu thường xuyên và phong phú về chủng loại mà Việt Nam có khả năng phát triển. Đồng thời tích cực tìm kiếm thị trương mới như: Trung Đông, Châu Phi, Nam Mỹ.. II. GIẢI PHÁP 1. Giải pháp tù phía doanh nghiệp 1.1 Phát triển nguồn nhân lực trong công ty Ưu tiên phát triển nguồn lực trong công ty. Căn cứ vào đề nghị của các đơn vị, doanh nghiệp sẽ tiến hành xét tuyển công nhân và chuyển về các đơn vị đó làm việc. Các đơn vị đó phải có trách nhiệm đào tạo, hướng dẫn và bố trí công việc cho nhân viên. Doanh nghiệp sẽ tổ chức đào tạo nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cũng như lãnh đạo của các cán bộ, nhân viên sao cho phù hợp với năng lực của rừng người. Bên cạnh đó các doanh nghiệp có thể liên kết với các truờng dạy nghề, các nhà mỹ thuật để bổ sung lượng lao động có tay nghề cao vào trong doanh nghiệp; cũng có thể cử 1 số người sang nước ngoài để học hỏi sau đó về truyền đạt lại cho các thành viên khác. Công việc này do bộ phận nhân sự quyết định tuyển ai, chọn ai và sa thải ai. 1.2 Nghiên cứu, mở rộng thị trường Các doanh nghiệp cần mạnh dạn xâm nhập, nghiên cứu thị trường để tìm kiếm những mặt hành mới có khả năng xuất khẩu cao bằng cách tham gia các hội chợ triển lãm, đi khảo sát thị trường, gặp gỡ trực tiếp các đối tác. Ngoài ra mỗi doanh nghiệp nên hướng tới mở các văn phòng đại diện tại các thảc thị trường có tiềm năng lớn. Doanh nghiệp phải tiếp tục đổi mới hình thức tiếp thị, tăng cường hoạt động: đa dạng hoá sản phẩm, xác lập chính sách giá cả hợp lý và linh hoạt, mở rộng hình thức bán buôn, bán lẻ ở các địa phương, quảng bá sản phẩm, xây dựng thương hiệu sản phẩm, giới thiệu sản phẩm và hình ảnh đặc trưng của làng nghề thông qua các hội trợ triển lãm trong nước và quốc tế về hàng TCMN, xây dựng các trang thông tin, điện tử và từng bước mở rộng hình thức thương mại điện tử bằng cách giao dịch trên sàn giao dịch. Và đăng ký làm thành viên của 1 số trung tâm xúc tién thương mại quốc tế. 1.3 Liên kết các doanh nghiệp sản xuất với các tổ chức khác Các doanh nghiệp chủ động mở rộng quan hệ hợp tác kinh doanh giữa doanh nghiệp sản xuất với doanh nghiệp thương mại, công ty xuất nhập khẩu hàng TCMN trong nước với doanh nghiệp xuất khẩu của nước ngoài hoặc chủ động xuất khẩu trực tiếp theo hợp đồng với nước ngoài theo phưong thức xuất khẩu tại chỗ. Bên cạnh đó có thể phối hợp với các dịch vụ du lich để thu hút khách hàng trong và ngoài nước tới thăm các cơ sảo sản xuất, các hội chợ triển lãm, làm cho số lượng các đơn đặt hàng tăng lên Mỗi doanh nghiệp cần tìm cho mình các nhà cung cấp nguyên liệu ổn định cả về số lượng và chất lượng. Nếu như các doanh nghiệp có quy mô lớn có thể đầu tư vùng nuôi trổng nguyên vật liệu để tránh bị động trong thu mua nguyên liệu. 1.4 Xây dựng thương hiệu Các hộ gia đình, các doanh nghịêp nhỏ, các hợp tác xã có thể liên kết với nhau tạo thành 1 doanh nghiệp có quy mô lớn hơn. Khi đó sẽ khắc phục được tình trạng sản xuất nhỏ lẻ,manh mún và nhât là trong điều kiện hiện nay khi khách hàng của chúng ta là những khách hàng lớn và tầm cỡ như EU,Hoa Kỳ.. Mỗi doanh nghiệp cần có chiến lược xây dựng thương hiệu riêng cho mình để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm vói các đối thủ nước ngoài trên thị trường quốc tế. Muốn có 1 thương hiệu nổi tiếng thì yếu tố trước tiên cần có đó là chất lượng sản phẩm phải thực sự tốt, làm việc có uy tín(đảm bảo giao hàng đúng số lưọng, chất lượng, thời gian, và các yêu cầu khác được đưa ra trong hợp đồng), và phải có 1 chiến lược Marketing thực sự hiệu qủa( nghiên cứu thị trường, nhu cầu khách hàng, và có chiến lược quảng bá sản phẩm rầm rộ trên những thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt động) . Chất lượng sản phẩm hoàn hảo và phong cách làm viêc theo lối tư duy hiện đại là vấn đề then chốt khảng đinh thương hiệu cố thật sự mạng hay không. Vậy cần phải có những giải pháp để nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm như: có chất lượng nguyên vật liệu tổt, quy trình công nghệ hiện đại, đội ngũ lao động lành nghề và những nghệ nhân tài ba giàu óc sáng tạo… 1.5 Xây dựng văn hoá doanh nghiệp Mỗi doanh nghiệp phải ý thức được văn hóa doanh nghiệp chính là nguồn động viên tinh thần của người lao động không ngừng sáng tạo và cũng là mục tiêu vươn tới của mỗi đơn vị. Vì vậy mỗi thành viên phải thể hiện tác phong lề lối, phong cách làm việc nghiêm túc. Khi ngưòi lao động đã ý thức được văn hoá doanh nghiệp thì nhà quản lý sẽ tuyên truyền sâu rộng tới mỗi thành viên để họ nắm rõ mục tiêu chung và từ đó cố gắng làm việc hết mình để thực hiện mục tiêu chung ấy. Tạo ra 1 bầu không khí hài hoà trong doanh nghiệp, thiết lập 1 thành 1 thể thống nhất, tạo sự liên kết giữa các cấp, các phòng ban trong doanh nghiệp. 1.6 Một số giải pháp khác Doanh nghiệp cần nâng cao điều kiện cơ sở vật chất như: nhà xưởng, kho tàng, bến bãi đảm bảo cho việc thu gom, vận chuyển và cất giữ hàng hóa không ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, khắc nghiệt ở Việt Nam.. Kiểm tra hàng hoá trước khi xuất kho đem ra tiêu thị trên thị trường. Cần có mối quan hệ tốt với các cơ quan hữu quan, các ngành liên quan và các tổ chức kinh tế, các trung tâm cung cấp thông tin thị trường nhằm thực hiện tốt công tác sản xuất và kinh doanh. 2. Giải pháp từ phía nhà nước 2.1 Quy hoạch lại ngành sản xuất thủ công mỹ nghệ để phát triển bền vững Thực trạng các cơ sở sản xuất nằm chen lấn giữa các khu vực dân cư tại hầu hết các vùng sản xuất hàng TCMN của cả nước đang là 1 tồn tại gây tác hại rất lớn đến kế hoạch phát triển của ngành vì các cơ sở không thể đầu tư mở rộng theo hướng công nghiệp hoàn chỉnh và áp dụng công nghệ mới vào những nhà xưởng chật hẹp, manh mún. Và rồi kéo theo nó là tác hại làm ô nhiễm môi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37247.doc
Tài liệu liên quan