Đề tài Phương hướng và giải pháp thúc đẩy đầu tư phát triển Khu công nghiệp - Khu chế xuất

MỤC LỤC

Chương 1: Lý Thuyết Chung Về Đầu Tư Phát Triển KCN 1

I/Lý Thuyết Chung: 1

1) Đầu tư là một hoạt động kinh tế của đất nước 1

2) Phân loại đầu tư: 1

3) Khu công nghiệp: 3

II/Nội Dung Đầu Tư Phát Triển Khu Công Nghiệp: 3

1) Vai Trò Của Đầu Tư Phát Triển: 3

2) Sự cần thiết trong việc thu hút đầu tư xây dựng các khu công nghiệp 3

III)Những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển khu công nghiệp: 4

a)Vị trí địa lý 4

b)Vị trí kinh tế xã hội: 4

c)Kết cấu hạn tầng: 5

d)Thị trường 5

e)Vốn đầu tư nước ngoài: 5

Chương II: Thực Trạng Đầu Tư Phát Triển Vào Các KCN ở VN 6

I/Đầu tư hạ tầng và sản xuất khu công nghiệp: 6

Bảng giá trị sản lượng và xuất khẩu các doanh nghiệp KCN 7

II/Kết quả và hạn chế trong đầu tư phát triển KCN: 16

1) Những thành tựu đạt được 16

B.1) Hình thành hệ thống các KCN trên cơ sở chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH cả nước; quy hoạch phát triển ngành, địa phương và vùng lãnh thổ. 16

B.2) KCN đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, 17

B.3) KCN đã tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng mới, hiện đại, có giá trị lâu dài không chỉ đối với địa phương có KCN mà còn góp phần hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng trên cả nước. 17

B.4) KCN có tác động tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương theo hướng CNH, HĐH, đa dạng hoá ngành nghề, nâng cao trình độ công nghệ và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, góp phần tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của cả nước, mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế. 18

B.5) Các KCN sử dụng ngày càng hiệu qua cơ sở hạ tầng và đẩy mạnh hợp tác sản xuất, tăng cường mối liên kết ngành trong phát triển kinh tế. 20

B.6) Các KCN đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm, nâng cao dân trí và thực hiện các chính sách xã hội 20

B.7) KCN đã góp phần nhất định vào việc bảo vệ môi trường sinh thái. 21

B.8) Các KCN có tác dụng lan toả tích cực tới trình độ phát triển của các vùng, các ngành, lĩnh vực 21

B.9) Mô hình quản lý - áp dụng cơ chế "một cửa, tại chỗ" đối với KCN 22

2)Những hạn chế trong đầu tư vào khu công nghiệp: 24

a)Thủ tục đầu tư vào khu công nghiệp_khu chế xuất còn rườm rà 24

B)Thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất giảm mạnh: 25

C)Chất lượng quy hoạch còn thấp, thực hiện quy hoạch chưa triệt để. 26

D) tình trạng tự phát trong việc thu hút đầu tư còn diễn ra phổ biến: 27

E) cơ cấu đầu tư còn nhiều bất cập: 28

F)Còn thiếu lao động có trình độ cao.28

G) Quản lý và sử dụng đất còn nhiều hạn chế.30

H)Vấn đề môi trường trong KCN 31

Chương III: Phương Hướng Và Giải Pháp Thúc Đẩy Đầu Tư Phát Triển KCN_KCX 32

A)Tăng cường thu hút thêm vốn đầu tư: 32

1. Đối với thu hút đầu tư nước ngoài 32

2. Đối với thu hút đầu tư trong nước 34

B)Thực hiện quy hoạch đồng bộ,nâng cao chất lượng quy hoạch cũng như quản lý KCN_KCX: 35

C)Điều chỉnh cơ cấu đầu tư vào KCN_KCX: 38

D)Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các KCN_KCX 38

E)Đảm bảo môi trường khu CN: 39

Phụ Lục 42

Tài liệu tham khảo: 50

 

 

doc53 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1700 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và giải pháp thúc đẩy đầu tư phát triển Khu công nghiệp - Khu chế xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g nghiệp trong KCN đều vượt so với tốc độ gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN thời kỳ 1996 - 2000 đạt khoảng 9,5 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 20%/năm. Trong thời kỳ 2001 - 2005, tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN (kể cả trong nước và nước ngoài) đạt khoảng 44,4 tỷ USD, gấp gần 5 lần so với 5 năm trước. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước đã tăng lên đáng kể từ mức khoảng 8% năm 1996 lên 14% năm 2000 và từ mức 17% năm 2001 lên khoảng 28% năm 2005. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp KCN trên thị trường thế giới được nâng cao đáng kể trong thời gian qua. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN thời kỳ 5 năm 1996 - 2000 đạt 6,2 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 18%/năm; trong 5 năm tiếp sau (2001-2005), giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN đạt trên 22,3 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 24%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị xuất khẩu công nghiệp của cả nước. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng lên từ mức khoảng 15% năm 2000 lên gần 20% năm 2005. Tổng giá trị nhập khẩu của các doanh nghiệp KCN thời kỳ 2001-2005 đạt khoảng 27,3 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm và tăng gấp 3,4 lần so với tổng giá trị nhập khẩu trong 5 năm 1996-2000. Các doanh nghiệp KCN bước đầu có đóng góp tích cực vào ngân sách Nhà nước, trong thời kỳ 2001-2005, tổng nộp ngân sách của các doanh nghiệp KCN tăng mạnh và đạt khoảng 2 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 45%/năm và gấp 6 lần so với 5 năm 1996 - 2000. KCN là nơi tiếp nhận công nghệ mới, tập trung những ngành nghề mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Cùng với dòng vốn ĐTNN đầu tư vào các dự án sản suất kinh doanh trong KCN các nhà đầu tư còn đưa vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất với công nghệ tiên tiến, hiện đại. Trong đó, đặc biệt phải kể đến những dự án công nghiệp kỹ thuật cao với 11 doanh nghiệp đều tập trung ở KCN với tổng vốn đầu tư hơn 1 tỷ USD (phần lớn của Nhật Bản) như Công ty TNHH Canon Việt Nam, Mabuchi Motor, Orion Hanel,... Các dự án ĐTNN vào KCN không những góp phần nâng cao hàm lượng công nghệ trong sản phẩm của các doanh nghiệp KCN mà còn mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư từng bước nâng cao vị thế và sức hấp dẫn đầu tư của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế và khu vực. B.5) Các KCN sử dụng ngày càng hiệu qua cơ sở hạ tầng và đẩy mạnh hợp tác sản xuất, tăng cường mối liên kết ngành trong phát triển kinh tế. Cùng với việc gia tăng diện tích thành lập mới và mở rộng hàng năm, trong thời gian qua các địa phương đã thành lập và hoàn thành việc xây dựng cơ sở hạ tầng mỗi năm tăng thêm từ 2 - 5 KCN. Trong kế hoạch 5 năm 2001-2005, có thêm 15 KCN đi vào hoạt động. Hiệu quả sử dụng cơ sở hạ tầng gắn liền với đất của các KCN ngày càng được nâng cao, thể hiện ở các chỉ tiêu: - Trong thời kỳ 2001 - 2005, các KCN đã cho thuê thêm được khoảng 7.000 ha đất công nghiệp, tỷ lệ lấp đầy các KCN đã vận hành được nâng lên hàng năm từ 40% năm 1996 lên 50% năm 2000 và từ 55% năm 2001 lên 72% năm 2005. - Tính đến cuối tháng 12/2005, bình quân 1 ha đất công nghiệp của các KCN đã vận hành thu hút được hơn 2 triệu USD tăng 60% so với năm 2001 (1,2 triệu USD/ha). - Giá trị sản xuất công nghiệp do 1 ha đất công nghiệp tạo ra tăng đều qua các năm từ 0,54 triệu USD/ha lên 0,76 triệu USD/ha; giá trị xuất khẩu bình quân hàng năm trong 5 năm 2001 - 2005 đạt trên 0,33 USD/ha.  Số lao động thực tế sử dụng bình quân một ha đất sản xuất trong KCN được huy động khoảng 80 - 100 người với giá trị sản xuất ra khoảng 30 tỷ đồng/ha/năm. B.6) Các KCN đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm, nâng cao dân trí và thực hiện các chính sách xã hội Phát triển KCN mở ra một không gian kinh tế rộng lớn, một kênh mới rất có tiềm năng để thu hút lao động, giải quyết việc làm cho lao động xã hội. Trong thời kỳ 2001-2005, các KCN đã thu hút thêm được 656.000 lao động trực tiếp, gấp 4 lần so với thời kỳ trước (1991-2000), hiện nay (5/2006), các KCN, đã thu hút được khoảng 864.000 lao động trực tiếp, nếu tính cả số lao động gián tiếp thì số lao động thu hút được còn lớn hơn nhiều (ước tính lượng lao động gián tiếp khoảng 1,5 triệu người). Phát triển KCN đồng nghĩa với hình thành và phát triển mạnh mẽ thị trường lao động, chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ, là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế. Hiện nay, một số KCN đã xây dựng các cơ sở dạy nghề (Trung tâm dạy nghề Việt Nam - Singapore, Trường Kỹ nghệ Thừa Thiên Huế, Trường Cao đẵng kỹ thuật - công nghệ Biên Hoà…). - Doanh nghiệp trong KCN có mô hình tổ chức và quản lý nói chung, tổ chức và quản lý nhân lực nói riêng. Đây là môi trường rất tốt để đào tạo, chuyển giao khoa học quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp của Việt Nam. B.7) KCN đã góp phần nhất định vào việc bảo vệ môi trường sinh thái. KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, do đó có điều kiện tập trung các chất thải do các doanh nghiệp thải ra để xử lý, tránh tình trạng khó kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp do phân tán về địa điểm sản xuất. KCN góp phần thực hiện mục tiêu di dời các cơ sở sản xuất từ nội đô; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường trong việc kiểm soát ô nhiễm và có biện pháp xử lý kịp thời đối với hành vi gây ô nhiễm của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp ngoài KCN.  Thực tế cho thấy một số KCN thực hiện rất tốt và hài hoà mục tiêu thu hút đầu tư với giải quyết vấn đề về môi trường, thực sự là những "công viên công nghiệp", là mẫu hình để các KCN khác tiếp tục triển khai áp dụng, điển hình là KCN Biên Hoà II, KCN Thăng Long. B.8) Các KCN có tác dụng lan toả tích cực tới trình độ phát triển của các vùng, các ngành, lĩnh vực KCN mở rộng mối liên kết ngành và liên kết vùng tập trung xung quanh KCN. Liên kết ngành trong KCN bước đầu đã có những kết quả nhất định thực hiện trong phạm vi nội bộ KCN bởi những ngành nghề bổ trợ lẫn nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư trong KCN đã tạo điều kiện cho các ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp KCN hoặc bản thân các doanh nghiệp trong các KCN có điều kiện tiêu thụ sản phẩm tại các cơ sở kinh doanh xung quanh KCN. Các KCN ra đời đã tạo nên những vùng công nghiệp tập trung, tác động rất tích cực tới việc phát triển các cơ sở nguyên liệu, thúc đẩy phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ công nghiệp, nâng cao giá trị nông sản hàng hóa, nâng cao hiệu quả tổng hợp của các ngành sản xuất. Hiệu qủa này đặc biệt rõ nét ở các KCN thuộc vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, các doanh nghiệp chế biến tại KCN tại Nam Định, Hà Nam, Bắc Giang, Cần Thơ...góp phần tiêu thụ nông sản của các hộ gia đình, cơ sở nông nghiệp ở vùng nông thôn xung quanh, cải thiện một bước đời sống nông dân. KCN góp phần mở rộng thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra tại các vùng lân cận, đặc biệt là những địa phương trình độ công nghiệp phát triển, có sức lan tỏa lớn tại thành phố Hồ Chí Minh tới các tỉnh lân cận, chuyển các địa phương này từ cơ cấu kinh tế thuần nông sang cơ cấu kinh tế công nghiệp hiện đại. Trong thời gian tới, xu hướng lan tỏa từ các KCN, ở các địa phương này sẽ còn mở rộng hơn nữa sang các địa phương khác như Long An, Bình Phước...  Việc phát triển các KCN có tác động rất rõ rệt đến quá trình quy hoạch, đào tạo phát triển nguồn nhân lực cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của địa phương nơi KCN đóng và các địa phương lân cận. Với thế mạnh về công nghệ, thiết bị hiện đại, phương pháp quản lý tiến bộ, các doanh nghiệp này sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt và ổn định, các doanh nghiệp trong KCN đã và đang tác động tích cực tới yếu tố chất lượng sản phẩm của công nghiệp địa phương, góp phần giúp công nghiệp địa phương từ chỗ chỉ phục vụ nhu cầu tại chỗ là chính đã vươn ra thị trường cả nước và xuất khẩu. Đánh giá một cách chung nhất, có thể nói các KCN không chỉ trực tiếp thúc đẩy công nghiệp của địa phương và của vùng có KCN phát triển mạnh mẽ trong 15 năm qua, mà còn có tác động lan toả rộng rãi tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế từng địa phương và cả nước. Đó chính là hạt nhân của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. B.9) Mô hình quản lý - áp dụng cơ chế "một cửa, tại chỗ" đối với KCN Những năm qua, KCN thực sự là nơi thử nghiệm mô hình cơ chế "một cửa, tại chỗ" và đã đạt được những chuyển biến tích cực: - Cùng với việc thành lập các KCN, các Ban quản lý các KCN cũng được thành lập nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước KCN ở địa phương, là đầu mối liên hệ giữa nhà đầu tư với KCN. Hiện nay, 46 Ban quản lý KCN đã được thành lập ở tất cả các địa phương có KCN, trong đó 45 Ban quản lý KCN trực thuộc UBND tỉnh, Ban quản lý KCN Việt Nam - Singapore trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. Thông qua Ban quản lý KCN, nhà đầu tư có điều kiện dễ dàng tiếp cận với các thông tin về KCN, giải quyết các thủ tục đầu tư vào KCN ngay tại địa phương. - Những năm qua, quy chế uỷ quyền trong quản lý các KCN tiếp tục được hoàn thiện, hầu hết các BQL KCN đều được Bộ Kế hoạch và Đầu tư ủy quyền quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư (gồm tiếp nhận hồ sơ, cấp phép và giả quyết các vấn đề phát sinh trong hoạt đồng đầu tư đối với ĐTNN của doanh nghiệp) . Nội dung uỷ quyền phù hợp với trình độ quản lý của các BQL. Hoạt động đầu tư trong phạm vi thẩm quyền được BQL giải quyết nhanh gọn, thuận lợi và về cơ bản nằm trong năng lực quản lý của các BQL. Quá trình uỷ quyền đã đạt được hiệu quả về 2 mặt: vừa giúp nhà đầu tư nước ngoài nhanh chóng và đơn giản hóa việc xin phép đầu tư, đồng thời giúp giảm bớt khối lượng công việc của cơ quan trung ương, tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý, nắm bắt tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN được trực tiếp và sâu sát hơn. Tuy nhiên, đến nay khi nghiên cứu hoàn thiện mô hình quản lý cho thấy cần thiết phải chuyển từ mô hình uỷ quyền sang mô hình phân cấp và tương ứng là mở rộng quy mô phân cấp về vốn của dự án đầu tư, đặc biệt với các dự án không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện, nhằm tạo sự năng động và chịu trách nhiệm của BQL và chính quyền địa phương. - Ngoài việc ủy quyền quản lý hoạt động đầu tư, các bộ, ngành cũng đã ủy quyền cho BQL trong việc xét duyệt kế hoạch nhập khẩu, cấp giấy chứng nhận xuất xử hàng hóa C/O form D, giấy phép lao động... Trong thời gian tới, với việc áp dụng Luật Đầu tư chung, xu hướng phân cấp sẽ tiếp tục được mở rộng. 2)Những hạn chế trong đầu tư vào khu công nghiệp: a)Thủ tục đầu tư vào khu công nghiệp_khu chế xuất còn rườm rà Mặc dù thủ tục đầu tư vào các khu sản xuất tập trung đã được đơn giản hóa, song câu chuyện “hành chính” khi đầu tư vào đây vẫn khiến nhiều doanh nghiệp than trời vì chậm trễ, ách tắc... Tại hội nghị thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế diễn ra ngày 26-3 tại Bắc Ninh, nhiều vấn đề bức xúc cũng như hiến kế đã được đặt ra. Công nhận hiện có tới 30% vốn FDI vào VN chảy thẳng vào các KCN, tuy vậy theo ông Ryoichi Nakagawa - giám đốc điều hành Cơ quan Xúc tiến đầu tư Nhật Bản, dù đã được đơn giản hóa nhưng từ khi được cấp phép tới khi xây dựng nhà máy, nhanh nhất các doanh nghiệp phải mất 2-3 tháng mới xong thủ tục. Đặc biệt các quy định về thuế, xuất nhập khẩu, các quy định về lao động không rõ ràng gần đây vẫn gây thiệt hại trực tiếp cho doanh nghiệp. Chứng minh điều này, ông Nakagawa cho biết suốt từ tháng 6-2007 đến tháng 5-2008, do quy định về thuế giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp trong KCX không rõ, doanh nghiệp phải nộp tới hàng trăm ngàn USD. Phải đợi đến tháng 1-2009 mới có văn bản hướng dẫn lại, nhưng đến nay nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thể xong các thủ tục để được nhận lại tiền của mình... Ngoài ra, sự phiền toái còn thường xảy ra do các cán bộ địa phương. Theo văn bản Văn phòng Kinh tế văn hóa Đài Bắc tại Hà Nội gửi đến hội nghị, những khó khăn mà các doanh nghiệp Đài Loan ở các KCN, KCX tại VN đang phải đối mặt thuộc đủ loại, như: khó mua USD khi cần nhập khẩu máy móc và nguyên vật liệu, giá đất tăng, giải phóng mặt bằng chậm, điện nước bị cắt, quy trình giải quyết thủ tục hành chính quá chậm... Bà Nguyễn Thị Nguyệt Hương, chủ tịch HĐQT Tập đoàn Đầu tư phát triển VN - đơn vị đang đầu tư 10 KCN trên cả nước, cho rằng thủ tục hành chính hiện nay mỗi tỉnh làm một cách. “Chỉ một việc là tách sổ đỏ cho các nhà đầu tư, có tỉnh làm dễ nhưng có tỉnh lại khó. Có nơi chúng tôi xin cấp phép đầu tư chỉ mất 24 giờ, nhưng có nơi mất hơn chục ngày”... B)Thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất giảm mạnh: Thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất giảm mạnh, một phần do bãi bỏ ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp. Chỉ có 30 dự án đầu tư được cấp chứng nhận đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) của Hà Nội từ đầu năm tới nay, với tổng vốn đăng ký khoảng 80 triệu USD và 600 tỷ đồng, bằng 30% so với cùng kỳ năm trước. Thậm chí, trong số này, chỉ có 12 dự án là cấp mới, còn lại là các dự án tăng vốn. Theo ông Nguyễn Xuân Chính, Trưởng ban Quản lý Các KCN, KCX Hà Nội, nguyên nhân cơ bản nhất của sự sụt giảm này là do khủng hoảng tài chính toàn cầu, khiến lưng vốn của nhà đầu tư bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó là việc từ ngày 1/1/2009, Việt Nam bãi bỏ ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (DN) đối với cả DN đầu tư hạ tầng KCN và DN hoạt động trong các KCN. “Các DN đầu tư xây dựng hạ tầng KCN kêu nhiều nhất về vấn đề này. Không thể đánh đồng việc đầu tư xây dựng khu đô thị với việc xây dựng hạ tầng KCN, bởi vì việc đầu tư cho các KCN sẽ liên tục phát sinh lợi nhuận, tăng thu cho ngân sách, khác hẳn với đầu tư một khu chung cư. Ưu đãi cho phát triển các KCN cũng chính là sự đầu tư cho nguồn thu sau này”, ông Chính nói. Trên một khía cạnh khác, ông Chính cũng cho rằng, việc Nghị định 69/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cũng đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc thu hút đầu tư vào các KCN. Việc này, theo ông Chính, khiến nhiều DN đầu tư hạ tầng KCN lừng chừng trong thực hiện dự án. Liên quan tới vấn đề này, trong một cuộc trao đổi gần đây với phóng viên báo chí, ông Hong Sun, Chủ tịch, kiêm Tổng giám đốc Công ty TNHH Xây dựng và Phát triển HS cho rằng, việc các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn đầu tư tại Việt Nam là do tiền thuê đất rẻ hơn, nhưng với các quy định tại Nghị định 69/2009/NĐ-CP, lợi thế này đang mất dần. “Áp dụng các quy định của Nghị định 69/2009/NĐ-CP thì tốt cho nông dân Việt Nam, nhưng với chúng tôi thì không, thậm chí Việt Nam mất đi lợi thế cạnh tranh so với nước khác. Nhiều dự án KCN gặp khó khăn và không biết có triển khai tiếp hay không”, ông Hong Sun nói và cho biết, Công ty của ông có một dự án KCN ở Thường Tín (Hà Nội). Dự án có tổng mức đầu tư khoảng 90 triệu USD, trong đó tiền đề bù giải phóng mặt bằng ban đầu dự kiến tối đa là 18 triệu USD, nhưng bây giờ, vì Thường Tín đã sáp nhập về Hà Nội, nên tiền đền bù đã lên tới 30 triệu USD. Cộng thêm các quy định từ Nghị định 69/2009/NĐ-CP, Công ty HS sẽ phải mất nhiều hơn thế tiền đền bù giải phóng mặt bằng. Và điều đó, tất nhiên sẽ gây khó khăn cho các nhà đầu tư hạ tầng KCN như HS. C)Chất lượng quy hoạch còn thấp, thực hiện quy hoạch chưa triệt để. Thời gian qua, số lượng các khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập tăng lên nhanh chóng; điều đó phản ánh phần nào tiềm năng của các vùng trong việc phát triển sản xuất công nghiệp. Đối chiếu với mục tiêu lâu dài của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì số lượng các khu công nghiệp, khu chế xuất theo quy hoạch hiện nay chưa phải là nhiều. Nhưng điều đáng quan tâm là ở chỗ, việc phân bổ các khu công nghiệp, khu chế xuất giữa các vùng còn bất hợp lý. Chẳng hạn, thành lập quá nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất ở cùng một vùng, trong khi khả năng thu hút đầu tư hạn chế hoặc không phát huy được hiệu quả của vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật và xã hội cho các khu công nghiệp. Điều này vô hình trung hình thành nên các khu công nghiệp, khu chế xuất có chức năng tương tự ở các địa phương, dẫn tới tình trạng cạnh tranh gay gắt, tự phát, chạy đua theo “phong trào”, thu hút đầu tư không phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của vùng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất của cả nước. Tình trạng này làm cho hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp, không khai thác được những lợi thế riêng có của các địa phương trong việc phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất. Hơn nữa, giữa công tác quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch chưa gắn với nhau. Nhiều quy hoạch được duyệt, thậm chí đã đi vào xây dựng kết cấu hạ tầng vẫn bị địa phương thay đổi quy hoạch về diện tích, ranh giới, gây ra sự hoài nghi về tính ổn định của môi trường đầu tư và hiệu lực của các cơ quan quản lý nhà nước. D) tình trạng tự phát trong việc thu hút đầu tư còn diễn ra phổ biến: Trong thời gian qua, để khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, các cấp, các ngành đã không ngừng nghiên cứu, hoàn thiện các chính sách ưu đãi, thủ tục đầu tư thuận tiện, đơn giản hơn so với bên ngoài. Tuy nhiên, hiện tại đang nổi nên một thực tế là các địa phương ra sức ganh đua, cạnh tranh để thu hút các nguồn vốn đầu tư về khu công nghiệp, khu chế xuất ở địa phương mình. Nhiều địa phương đã ban hành những ưu đãi riêng, có tính chất “xé rào” nhằm thu hút đầu tư, chấp nhận dùng ngân sách địa phương để bù lỗ. Điều này làm ảnh hưởng tới ngân sách nhà nước. Thậm chí, ở một số địa phương còn xảy ra tình trạng chèn lấn, “ngáng chân” nhau trong việc thu hút đầu tư, làm giảm hiệu quả của các khu công nghiệp, khu chế xuất, không tận dụng được lợi thế của địa phương và các doanh nghiệp. Trong thời gian tới, vấn đề này cần được xem xét một cách nghiêm túc. Nhà nước có chính sách cân đối các dự án đầu tư giữa các địa phương, vùng, miền. Đồng thời, tập trung ưu đãi, đầu tư lớn cho các địa phương, vùng, miền trọng tâm, trọng điểm về dân cư, địa lý hành chính, tiềm lực nguồn nhân lực và khoa học - công nghệ, về điều kiện tài nguyên - môi trường, giao thông - vận tải, kể cả về an ninh -quốc phòng... Đặc biệt, cần có sự ưu đãi đối với các địa phương, vùng, miền tuy có sự hạn chế về nguồn vốn nhưng có tiềm lực lớn về nguồn nhân lực, đất đai, có điều kiện thuận lợi trong phát triển nông - lâm - ngư nghiệp. Bởi vì, đầu tư phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở những nơi này sẽ tạo nên một nền công nghiệp hỗn hợp và quan trọng hơn, góp phần to lớn vào việc công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn và xóa đói, giảm nghèo. Tóm lại, để khắc phục tình trạng tự phát trong việc thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, chúng ta cần dựa trên nguyên tắc: vừa đầu tư theo kế hoạch thống nhất của Nhà nước, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương trong việc huy động các nguồn vốn tại chỗ; vừa đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, dàn đều, vừa đầu tư theo quy mô rộng lớn nhằm tạo sự phát triển mạnh mẽ, đồng bộ về kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng trên phạm vi cả nước. E) cơ cấu đầu tư còn nhiều bất cập: Trong những năm gần đây, xu hướng đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đang ngày càng tăng. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất cập. Hầu hết các dự án hoạt động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất đều là các dự án công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, tiêu dùng như dệt, sợi, may mặc, da giày... Còn các dự án đầu tư vào những ngành công nghiệp nặng hay những ngành đòi hỏi công nghệ tiên tiến, hiện đại như điện, điện tử, vật liệu mới còn quá ít. Đây là vấn đề rất đáng quan tâm, bởi vì nếu không thu hút và phát triển được những ngành đòi hỏi công nghệ cao thì nước ta khó tránh khỏi tụt hậu và vẫn là thị trường gia công cho nước ngoài. Hơn nữa, cơ cấu nguồn vốn đầu tư cũng đang nổi lên nhiều vấn đề đáng chú ý, đó là: 1 - Trong những năm đầu phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, nguồn vốn đầu tư vào chủ yếu là nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, nhưng trong những năm gần đây, nguồn vốn này đang có xu hướng giảm sút. Quy mô bình quân của một dự án có chiều hướng năm sau thấp hơn năm trước. Thực tế này cho thấy, các khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta vẫn chưa đủ sức hấp dẫn những nhà đầu tư từ các công ty lớn, xuyên quốc gia, nắm những công nghệ gốc, sản xuất những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao. 2 - Mặc dù có trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam, nhưng phần lớn là từ các nước châu Á (chiếm gần 80%), còn những quốc gia châu Âu, Bắc Mỹ - những nước có kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại, hiện có vị trí khá khiêm tốn trong cơ cấu đầu tư vào khu vực này. F)Còn thiếu lao động có trình độ cao. Hiện nay, đang tồn tại một nghịch lý trong việc cung cấp lao động cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển một lực lượng lớn lao động có kỹ thuật, tay nghề cao, có kỷ luật lao động tốt, thế nhưng đa số lực lượng lao động ở các địa phương không đáp ứng được những yêu cầu này. Theo số liệu điều tra, hầu hết lực lượng lao động ở các địa phương có khu công nghiệp, khu chế xuất chưa đáp ứng được trình độ chuyên môn, không quen với môi trường lao động công nghiệp, chưa đáp ứng được những yêu cầu của công nghệ quản lý, sản xuất hiện đại của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Số lao động có trình độ đại học và trên đại học trong các khu công nghiệp, khu chế xuất chỉ chiếm 4,5% tổng số lao động, công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo chiếm 31%, lao động giản đơn chiếm tới 60%. Chính vì vậy, tỷ lệ thất nghiệp của các địa phương có khu công nghiệp, khu chế xuất vẫn ở mức cao, trong khi các doanh nghiệp lại thiếu lao động. Trong thời gian tới, chúng ta cần có chính sách phát triển nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp, khu chế xuất như sau: 1 - Trước mắt, các địa phương và Ban Quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất chủ động, nhanh chóng kết hợp với các bộ, ngành có liên quan để mở các trung tâm đào tạo nghề nhằm trực tiếp đào tạo công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp tại các khu vực này. Về phía các doanh nghiệp, chủ động tiếp cận các cơ sở đào tạo nghề để kết hợp mở các khóa đào tạo nghề cho người lao động trong doanh nghiệp. 2 - Về lâu về dài, các cơ quan quản lý nhà nước cần quy hoạch sắp xếp lại các cơ sở dạy nghề, có cơ chế bồi dưỡng, đào tạo theo nhiều hình thức, phù hợp với nhiều loại đối tượng học nghề để đáp ứng yêu cầu nguồn lao động cho các khu công nghiệp, khu chế xuất. Mặt khác, Nhà nước có kế hoạch hỗ trợ nâng cấp trang thiết bị học tập tại các trung tâm đào tạo nghề gắn với địa bàn các khu công nghiệp, khu chế xuất; đổi mới chương trình giảng dạy và phát triển đội ngũ giảng viên dạy nghề; mở rộng nhiều hình thức dạy nghề theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp. Đồng thời, cũng phải tính đến việc sử dụng nguồn nhân lực có trình độ cao sao cho có hiệu quả như các nhà khoa học, quản lý, các du học sinh đang được đào tạo ở nước ngoài. G) Quản lý và sử dụng đất còn nhiều hạn chế. Trong các khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta hiện nay, việc phát triển hạ tầng kỹ thuật vẫn được tiến hành theo hình thức Nhà nước giao đất cho doanh nghiệp phát triển hạ tầng thuê đất để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hoặc thuê lại đất đã phát triển hạ tầng. Doanh nghiệp muốn đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất thuê lại đất đã xây dựng hạ tầng của doanh nghiệp phát triển hạ tầng. Do đó, giá thuê đất trong khu công nghiệp, khu chế xuất bao gồm giá đất thô cộng với chi phí giải tỏa, chi phí đầu tư phát triển hạ tầng và lợi nhuận của doanh nghiệp. Do không có sự quy định rõ ràng về quyền cho thuê đất thô (của Nhà nước) và quyền cho thuê hạ tầng (của doanh nghiệp phát triển hạ tầng) nên đã dẫn đến hiện tượng một số doanh nghiệp hạ tầng đầu cơ đất. Điều này làm cho Nhà nước không chi phối được giá cho thuê đất, và khi Nhà nước có chính sách thu hút bằng việc miễn, giảm tiền thuê đất thì khó có thể can thiệp một cách trực tiếp và cụ thể. Một vấn đề nữa đáng quan tâm là, việc đền bù giải phóng mặt bằng ở các khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian qua còn nhiều bất cập, hạn chế. Tình trạng này đã làm tốn nhiều thời gian, tiền bạc của nhiều dự án. Không ít dự án phải mất 2 - 3 năm mới đền bù, giải tỏa xong. Điều này đã đẩy chi phí xây dựng tăng lên, dẫn đến giá cho thuê đất tăng cao, làm giảm tính hấp dẫn của khu công nghiệp, khu chế xuất. Để quản lý và sử dụng đất trong các khu công nghiệp, khu chế xuất có hiệu quả, cần tách bạch giữa việc cho thuê đất (quyền của Nhà nước) và phí sử dụng hạ tầng (quyền của doanh nghiệp phát triển hạ tầng). Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng cần có một chế tài pháp lý thích hợp và có sự chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ giữa các chính quyền địa phương với các doanh nghiệp phát triển hạ tầng. Luật Đất đai (năm 2003) quy định việc phân cấp thẩm quyền quản lý, sử dụng đất cho chín

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc110727.doc
Tài liệu liên quan