Đề tài Phương pháp xếp hạng doanh nghiệp và ứng dụng vào Việt Nam

Ở Việt Nam hiện nay chỉ có 2 tổ chức chuyên về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp đó là CIC và Việt Nam Solution. CIC là trung tâm do Ngân hàng Nhà nước thành lập vào năm 1999. CIC xây dựng chỉ số xếp hạng tín dụng bằng phương pháp cho điểm. Quy trình phân tích xếp hạng tín dụng tại CIC gồm các bước sau:

Bước 1: Thu thập thông tin

Bước 2: Phân loại doanh nghiệp theo ngành

Bước 3: Phân loại doanh nghiệp theo quy mô

Bước 4: Xây dựng các chỉ tiêu phân tích

Bước 5: Tổng hợp kết quả tính điểm

Bước 6: Đưa ra chỉ số xếp loại

Bước 7: Nhận xét tình hình hoạt động của doanh nghiệp

 

doc73 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3318 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương pháp xếp hạng doanh nghiệp và ứng dụng vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn. Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất cao. Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Như vậy Quyết định 493 đặt ra yêu cầu quản lý nợ, kiểm soát rủi ro cao hơn đối với các TCTD và việc thi hành Quyết định 493 sẽ đánh giá đúng bản chất và chất lượng tín dụng của các TCTD. Những chuẩn mực đặt ra trong quy định này đã hướng tới sự hoà nhập với chuẩn mực thế giới tức là yêu cầu cao hơn. Việc thi hành những quy định mới sẽ đòi hỏi có những thay đổi mới ở các Ngân hàng thương mại và cả Ngân hàng Nhà nước, vì những chi phí phát sinh từ những thay đổi đó sẽ chuyển sang khách hàng vay nên chi phí cho vay sẽ có thể tăng. Các NH cũng sẽ ưu tiên cho việc cho vay có bảo đảm để giảm gánh nặng về dự phòng rủi ro. 1.3.2 Tình hình rủi ro tín dụng ở các NH thương mại Việt Nam Kể từ khi Quyết định 493 ra đời, giới NH cũng e ngại rằng con số biểu thị nợ xấu của họ sẽ bị đẩy lên cao hơn nhiều so với trước đây. Tuy nhiên tỷ lệ nợ xấu của các NH không đáng ngại lắm, theo phát ngôn chính thống từ Ngân hàng Nhà nước tỷ lệ nợ xấu tổng hợp toàn bộ hệ thống NH tính đến cuối năm 2005 là 4,4%. Phải chăng con số này quá đẹp, tuy nhiên Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức kiểm tra và làm việc với 5 NH thương mại quốc doanh. Theo Thống đốc Lê Đức Thuý, “kết quả kiểm tra cũng không xấu”. Bình quân tỷ lệ nợ xấu các NH tự xếp theo chuẩn mới là 6,27%, còn theo kết quả kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước là 7,7%. Với các ngân hàng quốc doanh, nợ xấu theo chuẩn mới hiện ở mức trên dưới 23 ngàn tỷ (tính đến tháng 11/2005). Với khối NH thương mại cổ phần, nợ xấu dường như không phải là vấn đề lớn khi hầu hết các NH đều có một con số khá đẹp, phần lớn đều nằm dưới mức 1%. Một số NH vừa thoát hiểm như Eximbank cũng có tỷ lệ nợ xấu khả quan dưới 4%; với VP Bank, nợ xấu chỉ ở khoảng 0,8-0,9%.... Sang năm 2006, khi kết thúc hầu hết các NH đều đứng trước những con số lợi nhuận ấn tượng. Có thể nói năm 2006 là năm thành công nhất của ngành NH Việt Nam từ trước đến nay. Nhưng có giá trị hơn, có chiều sâu hơn là những chuyển biến tích cực của việc xử lý nợ xấu. Nợ xấu của NH Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đang ở mức khoảng 2,9-3,0% tổng dư nợ, cao hơn tiêu chí phân loại cũ là 0,6%. Và nếu so với mặt bằng chung cách đây khoảng 5 năm thì đó là một tỷ lệ quá lý tưởng (so với 12-13%). Tỷ lệ nợ xấu của các NH quốc doanh còn lại có mức chênh lệch đáng kể: NH Công thương (Incombank) ở vào khoảng 6% tổng dư nợ, NH Đầu tư và phát triển (BIDV) ở khoảng 9% tổng dư nợ. Với NH thương mại cổ phần, tỷ lệ trên còn thấp hơn nhiều. Theo báo cáo của một số NH cổ phần, tỷ lệ nợ xấu chỉ xoay quanh mức 1%. Điều đặc biệt, sau khi thống nhất với bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước đã có công văn quy định một số nhóm nợ mà NH thương mại nhà nước được bán cho Công ty mua nợ, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC). Theo công văn số 7129/NHNN-TD ngày 18/8/2006 của Ngân hàng Nhà nước, các khoản nợ xấu mà NH thương mại nhà nước được bán cho DATC gồm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn. Chương 2: Lý luận về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp 2.1 Tổng quan về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp 2.1.1 Khái niệm về xếp hạng doanh nghiệp Xếp hạng doanh nghiệp là thuật ngữ bắt nguồn từ Tiếng Anh là Credit Ratings trong đó Credit là sự tín nhiệm còn Ratings nghĩa là xếp hạng. Thuật ngữ này lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1909 trong cuốn “Cẩm nang chứng khoán đường sắt” do John Moody phát hành. Trong cuốn sách này ông đã nghiên cứu, phân tích và công bố bảng xếp hạng cho 1500 trái phiếu của 250 công ty theo hệ thống các ký hiệu dễ hiểu, đơn giản được sắp xếp theo thứ tự các chữ cái ABC. Sau khi phát hành cuốn sách, Moondy vẫn tiếp tục nghiên cứu và cho công bố bảng xếp hạng của các doanh nghiệp trong các ngành khác. Một số tiêu chuẩn và những ký hiệu mà Moody đưa ra sau này đã trở thành các chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên trong những năm đầu, việc xếp hạng chỉ mang tính chất ngẫu hứng, lẻ tẻ; trong suốt hơn 50 năm sau khi ra đời hoạt động này cũng chỉ phổ biến ở Mỹ. Hoạt động này chỉ trở nên phổ biến ở các nước phát triển từ những năm 1960 và là một hoạt động rất quan trọng của các TCTD, nhưng ở Việt Nam hoạt động xếp hạng doanh nghiệp chỉ được các TCTD áp dụng từ một vài năm gần đây. Hiện nay chưa có một khái niệm thống nhất về hoạt động này nhưng chúng ta có thể hiểu Xếp hạng doanh nghiệp là sự đánh giá hiện thời về mức độ sẵn sàng và khả năng trả nợ (gốc và lãi) đối với khoản nợ của doanh nghiệp trong suốt thời gian tồn tại khoản nợ đó. Như vậy việc xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện trong mối tương quan giữa hiện tại và quá khứ để từ đó đưa ra những dự đoán về tương lai hay nói cách khác việc xếp hạng doanh nghiệp là kết quả của quá trình phân tích tỉ mỉ và kỹ lưỡng tình hình hoạt động của doanh nghiệp, tư cách khách hàng… tại thời điểm hiện tại và trong quá khứ từ đó dự đoán thứ hạng tín dụng của doanh nghiệp nhằm xác định khả năng thu hồi vốn (gồm cả gốc và lãi) của các TCTD và là cơ sở nền tảng cho việc ra quyết định có cấp tín dụng cho doanh nghiệp hay không và nếu cấp thì ở mức nào là hợp lý. Sự cần thiết của công tác đánh giá xếp hạng doanh nghiệp Ngày nay cùng với quá trình phát triển kinh tế, hệ thống các NH thương mại ngày càng mở rộng để đáp ứng các nhu cầu trong thanh toán tín dụng và các dịch vụ NH khác. Song song với quá trình đó mức độ rủi ro mà NH gặp phải ngày càng lớn do sự ảnh hưởng của biến động kinh tế Thế giới, số lượng khách hàng ngày càng tăng và khó kiểm soát thông tin về họ. Đặc biệt trong hoạt động tín dụng của NH, nó ngày càng chứa đựng nhiều rủi ro và nhiệm vụ vủa NH là hạn chế rủi ro thường gặp phải mà vẫn đảm bảo lợi nhuận cho NH. Khi đưa ra bất kỳ một quyết định cho vay nào, NH cũng phải xem xét đến tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của doanh nghiệp bởi đây sẽ là nhân tố quyết định đến rủi ro và khả năng thu hồi vốn của NH sau này. Tuy nhiên, không phải lúc nào, việc đánh giá này cũng chính xác, nhất là khi thông tin về doanh nghiệp lại bé nhỏ và không đáng tin cậy. Điều này dẫn đến tình trạng: nhiều doanh nghiệp tốt không có nguồn vốn để phát triển trong khi rất nhiều khoản tín dụng đã được cấp cho những doanh nghiệp làm ăn kém, không có khả năng trả nợ, thậm chí có nhiều trường hợp khoản vốn vay còn được sử dụng sai mục đích ban đầu dẫn đến tổn thất rất lớn cho NH. Với tư cách một tổ chức kinh tế độc lập, trong quá trình tiến hành các hoạt động của mình, doanh nghiệp đã làm nảy sinh mối quan hệ ràng buộc với các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Một trong các mối quan hệ đó chính là mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người cho vay trong quá trình tìm kiếm nguồn tài trợ. Đây là mối quan hệ quan trọng, có tính chất quyết định tới nhiều mặt hoạt động của doanh nghiệp bởi đối với bất cứ doanh nghiệp nào, nguồn vốn huy động được sẽ là cơ sở cho các hoạt động khác được tiến hành suôn sẻ và thuận lợi. Có nhiều nguồn tài trợ khác nhau mà doanh nghiệp có thể lựa chọn, trong đó nguồn tài trợ từ các cá nhân cho vay và các TCTD là nguồn tài trợ quan trọng, dồi dào và hiệu quả nếu doanh nghiệp có được kế hoạch cụ thể nhằm khai thác một cách hợp lý. Tuy nhiên do hoạt động cấp tín dụng của các NH đối với doanh nghịêp luôn hàm chứa các rủi ro cho chính người cấp vốn, nên đôi khi việc tìm kiếm nguồn tài trợ này trở nên khó khăn và tương đối phức tạp. Đặc biệt do không có một tiêu chuẩn nào để đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp trong tương lai, việc cấp tín dụng càng khó khăn hơn trong việc xác định lãi suất cho vay. Bởi vậy trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp phải chấp nhận một mức lãi suất cao để có khoản vốn vay. Vấn đề này đã làm nảy sinh một nhu cầu khách quan đối với công tác xếp hạng doanh nghiệp, vì hạng của doanh nghiệp sẽ là cơ sở để đưa ra các quyết định cho vay cũng như thời hạn của khoản tín dụng. Công tác xếp hạng doanh nghiệp khi được thực hiên bài bản và công khai sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn vay một cách dễ dàng, góp phần giảm chi phí vốn và thúc đẩy quá trình mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Không chỉ gây khó khăn trong khả năng khai thác nguồn vốn vay của doanh nghiệp, công tác xếp hạng tín dụng doanh nghiệp nếu không được tiến hành, còn gây cả sự bất công do tiềm năng của doanh nghiệp không được đánh giá đúng. Khi không có công tác xếp hạng doanh nghiệp tức là không có thông tin công khai chính xác đánh giá năng lực của doanh nghiệp, các doanh nghiệp có hiệu quả hoạt động cao sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn và hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong khi đó, lại xuất hiện những doanh nghiệp làm ăn kém hơn song lại có thể nhận được nguồn vốn vay với lãi suất thấp hơn và dễ dàng hơn do người cho vay không có đầy đủ các thông tin xác thực về doanh nghiệp. Điều này đã tạo ra sự mất bình đẳng trong hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp, làm giảm đi khả năng cạnh tranh và hạn chế hiệu quả kinh doanh chung của cả nền kinh tế. Khi công tác xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện, hoạt động cấp tín dụng sẽ được tiến hành dựa trên các kết quả xếp hạng có được, nguồn vốn sẽ được chuyển giao đến doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh cao nhất, những doanh nghiệp tốt sẽ nhận được nguồn vốn rẻ và dễ dàng hơn các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Như vậy sẽ khuyến khích các doanh nghiệp tiếp tục phát triển. Như vậy hoạt động xếp hạng doanh nghiệp là một đòi hỏi cần thiết khách quan, nó không chỉ ảnh hưởng đến bản thân doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế cho vay mà còn tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Thực hiện được công tác xếp hạng doanh nghiệp một cách khoa học bài bản sẽ là cơ sở nâng cao hiệu quả hoạt động cho các doanh nghiệp, giảm thiểu rủi ro và tăng cao thu nhập cho các tổ chức cho vay. Vai trò của xếp hạng doanh nghiệp Xếp hạng doanh nghiệp không những chỉ là công tác rất quan trọng trong hoạt động của NH mà nó còn có vai trò quan trọng với những chủ thể khác trong nền kinh tế. Tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, xếp hạng doanh nghiệp đã được phổ biến từ giữa thế kỷ 20 vì nó có tác động tích cực đến nhiều chủ thể trong nền kinh tế như: NH, các nhà đầu tư, doanh nghiệp, bạn hàng, các nhà quản lý….. Đối với doanh nghiệp Dựa vào kết quả xếp hạng, doanh nghiệp tự đánh giá được một cách tổng quan tình hình kinh doanh của mình, tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu từ đó đề ra những biện pháp, phương hướng trong tương lai nhằm khắc phục những thiếu sót, phát huy những điểm mạnh để hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả hơn. Xếp hạng doanh nghiệp cũng giúp cho doanh nghiệp tiếp xúc được với các TCTD một cách dễ dàng hơn vì doanh nghiệp nào có thứ hạng cao sẽ được các TCTD cho vay với những điều kiện ưu đãi về hạn mức tín dụng, về lãi suất cho vay….. đồng thời nâng uy tín của mình, củng cố và xây dựng thương hiệu, uy tín của doanh nghiệp. Ngược lại doanh nghiệp có thứ hạng thấp thì uy tín trên thị trường giảm và trở nên khó khăn hơn trong việc tiếp cận các nguồn vốn. Do đó xếp hạng doanh nghiệp sẽ là động lực để các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Đối với nhà đầu tư Trước khi đưa ra quyết định đầu tư vào một doanh nghiệp, nhà đầu tư phải nghiên cứu, xem xét tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ và hiện tại, dựa trên các tài liệu thu thập được để từ đó dự đoán được tình hình hoạt động của doanh nghiệp, khả năng thu hồi gốc, lãi trong thời gian tới. Đó cũng chính là công việc của công tác xếp hạng doanh nghiệp, do đó các nhà đầu tư có thể sử dụng kết quả công tác xếp hạng doanh nghiệp mà không phải tốn thời gian đi thu thập, xử lý thông tin để đánh giá doanh nghiệp, không bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Đối với các tổ chức tín dụng Do có mối quan hệ thanh toán, tín dụng đối với các doanh nghiệp các TCTD cũng hết sức quan tâm đến công tác xếp hạng doanh nghiệp bởi kết quả của quá trình này sẽ là cơ sở cho các TCTD đưa ra các quyết định liên quan đến công việc cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp. Các TCTD không thể ra quyết định cho vay khi không nắm rõ thông tin về doanh nghiệp đặc biệt là các thông tin liên quan đến khả năng trả nợ của khách hàng. Xếp hạng tín dụng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của các TCTD trong việc tránh rủi ro và tăng thu nhập của NH. Đối với các cơ quan quản lý Mục tiêu của các cơ quan quản lý là đảm bảo tính ổn định của thị trường. Thông qua công tác xếp hạng doanh nghiệp, các cơ quan đảm nhiệm chức năng quản lý có thể sử dụng các kết quả xếp hạng doanh nghiệp làm tiêu chuẩn để xem xét tình hình lành mạnh và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp dự báo trước xu hướng của thị trường, đồng thời thấy được những sai phạm để kịp thời điều chỉnh và có biện pháp xử lý, giảm thiểu tính bất ổn của thị trường. Điều này giúp ngăn chặn và hạn chế các hậu quả tiêu cực do các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả gây nên và các quyết định sai lầm của các chủ thể liên quan khác. 2.2 Thực trạng xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp ở Việt Nam Phần trên đã cho chúng ta thấy tầm quan trọng của công tác xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp. Và thực tiễn ở trên Thế giới đã kiểm nghiệm điều này, xếp hạng doanh nghiệp là một hoạt động rất phổ biến ở các nước phát triển từ những năm 1960. Chỉ số xếp hạng tín dụng của một số tổ chức xếp hạng tín dụng chuyên nghiệp được công nhận rộng rãi, có ảnh hưởng rất lớn về kinh tế, chính trị như: Moody’s, Standard and poor, Experian, Equifax, Transunion…Riêng tại Việt Nam việc xếp hạng tín dụng chỉ thực sự bắt đàu từ năm 1999. 2.2.1 Kinh nghiệm của Thế giới Các mô hình xếp hạng thường được các tổ chức xếp hạng tín dụng áp dụng gồm: Các mô hình phát hiện Các mô hình phát hiện sử dụng phương pháp chuyên gia và dựa trên những kinh nghiệm đã được đúc kết để có thể tìm ra bản chất của mối quan hệ giữa vỡ nợ và các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Trong xếp hạng tín dụng, những mô hình này sử dụng kinh nghiệm trong trả nợ, cho vay để đưa ra đánh giá về khả năng trả nợ của các doanh nghiệp và người đi vay trong tương lai. Chất lượng của những mô hình này phụ thuộc vào kinh nghiệm chủ quan của các chuyên gia. Không chỉ những nhân tố liên quan tới khả năng trả nợ mà trọng số của các nhân tố này cũng được xác định bằng kinh nghiệm của các chuyên gia. Trong mô hình loại này, các nhân tố được sử dụng không được kiểm chứng thống kê và xét tính tối ưu. Mô hình thống kê Các mô hình thống kê kiểm tra các giả thiết bằng cách sử dụng các thủ tục thống kê trên bộ dữ liệu thực nghiệm. Đối với thủ tục đánh giá tín dụng, điều này liên quan tới việc thiết lập giả thuyết đối với các tiêu chuẩn đánh giá khả năng trả nợ tiềm năng. Những giả thuyết này xem xét những giá trị có thể là cao hơn (hoặc thấp hơn) giá trị trung bình đối với những người vay có khả năng trả nợ so với những người vay không có khả năng trả nợ. Khi khả năng trả nợ của mỗi người vay thể hiện rõ trên bộ số liệu thực nghiệm, những giả thuyết này có thể bị bác bỏ hoặc chấp nhận một cách phù hợp. Các thủ tục thống kê có thể đạt được sự lựa chọn khách quan và đặt trọng số cho những nhân tố có khả năng trả nợ từ những thông tin có sẵn về khả năng có thể trả nợ. Các mô hình thống kê thường sử dụng: mô hình phân tích thống kê nhiều chiều; mô hình hồi quy… Một mô hình thống kê: Mô hình điểm số Z (Z – credit scoring model) Mô hình điểm số “Z” do E.I.Altman hình thành để cho điểm tín dụng đối với các công ty sản xuất của Mỹ. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào: Trị số của các chỉ tiêu tài chính của người vay (Xi). Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ Từ đó, Altman đi đến mô hình cho điểm như sau: Z = 1,2X1 + 1,4X2 +3,3X3 +0,6X4 +1,0X5 Trong đó: X1: tỷ số “vốn lưu động ròng / tổng tài sản” X2: tỷ số “lợi nhuận giữ lại / tổng tài sản” X3: tỷ số “lợi nhuận trước thuế và tiền lãi / tổng tài sản” X4: tỷ số “thị giá cổ phiếu / giá trị ghi sổ của nợ dài hạn” X5: tỷ số “doanh thu / tổng tài sản” Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy, khi trị số Z thấp hoặc là Z < 0 sẽ là căn cứ để xếp hạng khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao. Theo mô hình cho điểm số “Z”, bất cứ công ty nào có điểm số Z thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ cao. Căn cứ vào kết luận này, Ngân hàng sẽ không cấp tín dụng cho khách hàng này cho đến khi cải thiện được điểm số Z lớn hơn 1,81. Ngoài những ưu điểm, thì mô hình điểm số tín dụng có những hạn chế sau: - Mô hình này chỉ cho phép phân biệt khách hàng thành hai nhóm là “vỡ nợ” và “không vỡ nợ”. Trong thực tế, vỡ nợ được phân thành nhiều loại, từ không trả hay chậm trễ trong việc trả lãi tiền vay, đến việc không hoàn trả gốc và lãi tiền vay. Điều này hàm ý, cần có một mô hình cho điểm chính xác hơn, toàn diện hơn theo nhiều thang điểm để phân loại khách hàng thành nhiều nhóm tương ứng với mức độ vỡ nợ khác nhau. Không có lý do rõ ràng, để giải thích sự bất biến về tầm quan trọng của các biến số theo thời gian, dù là trong ngắn hạn. Tương tự như vậy, các biến số (Xi) cũng không phải là bất biến, đặc biệt là khi điều kiện thị trường và kinh doanh thường xuyên thay đổi. Ngoài ra, mô hình cũng giả thiết rằng các biến số Xi là hoàn toàn độc lập không phụ thuộc lẫn nhau. Đã không tính tới một số nhân tố quan trọng khó lượng hoá, nhưng lại ảnh hưởng đáng kể đến mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng. Ví dụ, yếu tố “danh tiếng” của khách hàng, yếu tố “mối quan hệ truyền thống” giữa khách hàng và Ngân hàng. Nhìn chung, các nhân tố này thường không được đề cập trong mô hình ghi điểm tín dụng “Z”. Mặt khác, mô hình cho điểm thường không sử dụng các thông tin đại chúng có sẵn, như giá cả thị trường của các tài sản tài chính. Cơ cấu chấm điểm của các công ty xếp hạng tín nhiệm trên thế giới (trọng số áp dụng cho các yếu tố) như sau: Bảng 2.1: Cơ cấu chấm điểm của các công ty xếp hạng tín nhiệm . Trong đó: 35% - Lịch sử các khoản vay 30% - Số dư nợ hiện tại 15% -Thời gian sử dụng vốn vay 15% -Loại vốn vay 5% - Số lần có nợ quá hạn Chương trình phần mềm chấm điểm FICO score được thực hiện dựa trên nguyên tắc sau: Bảng 2.2: Phần mềm chấm điểm FICO Điểm Tỷ lệ Số điểm 720 -850 5,49% 851$ 700 - 719 5,61% 862$ 675 - 699 6,15% 914$ 620 -674 7,30% 1028$ 560 - 619 8,53% 1157$ 500 - 559 9,29% 1238$ Trong đó: Số điểm tương ứng độ rủi ro tối thiểu: 850 Số điểm tương ứng độ rủi ro cao nhất: 350 Dựa trên số điểm đưa ra, Ngân hàng sẽ áp dụng mức lãi suất tương ứng cho từng loại khách hàng: Bảng 2.3: Bảng cơ cấu điểm của toàn dân Mỹ 2.1.2 Thực trạng tại Việt Nam Ở Việt Nam hiện nay chỉ có 2 tổ chức chuyên về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp đó là CIC và Việt Nam Solution. CIC là trung tâm do Ngân hàng Nhà nước thành lập vào năm 1999. CIC xây dựng chỉ số xếp hạng tín dụng bằng phương pháp cho điểm. Quy trình phân tích xếp hạng tín dụng tại CIC gồm các bước sau: Bước 1: Thu thập thông tin Bước 2: Phân loại doanh nghiệp theo ngành Bước 3: Phân loại doanh nghiệp theo quy mô Bước 4: Xây dựng các chỉ tiêu phân tích Bước 5: Tổng hợp kết quả tính điểm Bước 6: Đưa ra chỉ số xếp loại Bước 7: Nhận xét tình hình hoạt động của doanh nghiệp Hiện nay CIC phân loại doanh nghiệp thành 8 ngành kinh tế như sau: Trồng trọt, chăn nuôi Chế biến các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp Xây dựng Thương mại hàng hoá Dịch vụ Công nghiệp năng lượng (điện, than, dầu khí) Công nghiệp chế tạo Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng Đối với các doanh nghiệp có nhiều lĩnh vực hoạt động kinh doanh khác nhau thì CIC phân loại dựa vào ngành kinh doanh chính. Ngành kinh doanh chính của doanh nghiệp (theo CIC) là hoạt động tạo ra doanh thu lớn nhất cho doanh nghiệp. CIC phân loại doanh nghiệp theo quy mô thành 3 loại: Quy mô lớn Quy mô trung bình Quy mô nhỏ Các tiêu chí để CIC thực hiên việc phân loại doanh nghiệp theo quy mô là: nguồn vốn kinh doanh, số lao động, doanh thu thuần, nộp ngân sách nhà nước. Các chỉ tiêu tài chính được sử dụng để xếp hạng tín dụng là: Khả năng thanh toán ngắn hạn (đơn vị: lần) Khả năng thanh toán ngắn hạn = TSLĐ và đầu tư ngắn hạn Tài sản nợ ngắn hạn `Khả năng thanh toán ngắn hạn cho biết quy mô những khoản phải trả ngắn hạn được bù đắp bởi những tài sản có dự kiến sẽ chuyển đổi thành tiền trong một thời gian ngắn. Chỉ tiêu này dùng để kiểm tra trạng thái vốn lưu động và tính thanh khoản; xem xét mức độ bảo vệ người cho vay trong trường hợp doanh nghiệp vay ngắn hạn để tài trợ vốn lưu động, thể hiện sự an toàn của người cho vay ngắn hạn. Đối với chỉ tiêu này: Khoảng giá trị từ 1 → 4 là chấp nhận được. Nếu khả năng thanh toán ngắn hạn < 1 : dùng vốn ngắn hạn để đầu tư cho tài sản cố định → rủi ro trong thanh toán ngắn hạn. Nếu khả năng thanh toán ngắn hạn > 4: không tốt, có thể vì sử dụng không tốt khoản tiền đi vay, quỹ tiền mặt tồn đọng nhiều… Khả năng thanh toán nhanh (đơn vị: lần) Khả năng thanh toán nhanh = TSLĐ và đầu tư ngắn hạn - Hàng tồn kho bình quân Nợ ngắn hạn Tỷ lệ này cho biết khả năng chuyển đổi các tài sản có của doanh nghiệp thành tiền để đáp ứng yêu cầu thanh toán cấp thiết cho các khoản nợ. Giá trị của tỷ lệ càng cao chứng tỏ độ rủi ro thấp. Tuy nhiên điều này cũng có ý nghĩa rằng hiệu quả quản lý tài sản lưu động chưa tốt vì những tài sản này có tỷ lệ sinh lời thấp đối với doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ nhỏ thì khả năng đáp ứng nghĩa vụ nợ ngắn hạn kém. Giá tri có thể chấp nhận được là 1 → 2. Vòng quay hàng tồn kho (đơn vị: vòng) Vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán Hàng tồn kho bình quân Hệ số này thấp chứng tỏ giá trị của các loại hàng hoá tồn kho quá cao so với doanh thu; số ngày hàng nằm trong kho lâu; hiệu quả quản trị ngân quỹ của doanh nghiệp thấp vì lượng tiền tồn đọng trong hàng hoá quá lâu. Kỳ thu tiền bình quân (đơn vị: ngày) Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu Doanh thu thuần/365ngày Hệ số này cho biết số ngày thu hồi tiền bán hàng bình quân. Giá trị này càng cao chứng tỏ hiệu quả thu hồi nợ của doanh nghiệp càng thấp, khả năng có những khoản nợ khó đòi cao. Giá trị có thể chấp nhận được 30 → 60 ngày. Hiệu quả sử dụng tài sản (đơn vị: lần) Hiệu quả sử dụng tài sản = Doanh thu thuần Tổng tài sản có Hệ số này thể hiện một đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Giá trị này càng cao càng thể hiện hiệu quả hoạt động nhằm tăng thị phần và sức cạnh tranh. Nợ phải trả trên tổng tài sản (đơn vị: %) Nợ phải trả trên tổng tài sản = Nợ phải trả Tổng tài sản có Hệ số này phản ánh cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp. Trên phương diện chủ nợ: tỷ lệ này càng cao thì khả năng thu hồi nợ càng thấp, mức độ phá sản của doanh nghiệp càng cao. Trên phương diện doanh nghiệp: tỷ lệ cao chứng tỏ thành tích vay mượn tốt, nếu doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao hơn tỷ lệ lãi vay thì tỷ lệ cao là tốt. Ngược lại nếu tỷ suất lợi nhuận thấp hơn tỷ lệ lãi vay thì doanh nghiệp sẽ bị lỗ nặng, độ phá sản cao. Nợ phải trả trên nguồn vốn chủ sở hữu (đơn vị: %) Nợ phải trả trên nguồn vốn chủ sở hữu = Nợ phải trả Nguồn vốn chủ sở hữu Hệ số này phản ánh mức độ đảm bảo cho các khoản nợ bằng vốn riêng của doanh nghiệp. Giá trị này càng cao chứng tỏ mức độ rủi ro đối với các chủ nợ lớn. Nợ quá hạn trên tổng dư nợ ngân hàng (đơn vị: %) Nợ quá hạn trên tổng dư nợ ngân hàng = Nợ quá hạn Tổng dư nợ ngân hàng Tỷ số này thể hiện việc hoàn trả vốn vay ngân hàng đúng hạn của doanh nghiệp, đây là chỉ tiêu quan trọng khi xét duyệt cho vay. Tổng lợi tức sau thuế trên doanh thu (đơn vị: %) Tổng lợi tức sau thuế trên doanh thu = Lợi tức sau thuế Doanh thu thuần Tỷ số này phản ánh khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Tỷ số này càng cao và doanh thu của doanh nghiệp lớn thì tiềm năng sinh lời càng lớn. Tổng lợi tức sau thuế trên tài sản (đơn vị: %) Tổng lợi tức sau thuế trên tổng tài sản = Lợi tức sau thuế Tổng tài sản có Chỉ tiêu này dùng để so sánh với chi phí vốn (chi phí sử dụng ngân quỹ của doanh nghiệp). Nếu tỷ lệ này lớn hơn chi phí vốn thì doanh nghiệp kinh doanh có lãi, nếu nhỏ hơn chi phí vốn thì doanh nghiệp bị thua lỗ. Tổng lợi tức sau thuế trên nguồn vốn (đơn vị: %) Tổng lợi tức sau thuế trên nguồn vốn = Tổng lợi tức sau thuế Nguồn vốn chủ sở hữu Hệ số này có ý nghĩa quan trọng đối với chủ sở hữu và tiềm tàng của doanh nghiệp, nó cho biết khả năng thu nhập có thể nhận được khi họ đầu tư vốn vào công ty. Tỷ số này thể hiện sức hấp hẫn của doanh nghiệp đối với các nhà đầu tư tiềm tàng, rất hữu ích khi so sánh với tỷ lệ sinh lời cần thiết trên thị trường (trái phiếu chính phủ). Nếu tỷ lệ này cao hơn tỷ lệ lãi trung bình trên thị trường thì hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cao, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư. Nếu tỷ lệ này bằng tỷ lệ lãi trung bình trên thị trường của doanh nghiệp thì hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ở mức trung bình, có thể chấp nhận được. Nếu nhỏ hơn tỷ lệ lãi trung bình thì doanh nghiệp hoạt động hiệu quả thấp, không tạo được sự hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Các chỉ tiêu phi tài chính được sử dụng gồm: Thời gian hoạt động của

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK3040.DOC
Tài liệu liên quan