Đề tài Quá trình cài đặt internet explore

Phần I

 Lời nói đầu

Phần II

 NỘI DUNG ĐỀ ÁN

Chương I

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA INTERNET

1.lịch sử hình thành của internet

2.những cột mốc lịch sử trên chặng đường phát triển internet

3.một số uỷ ban tổ chức, hiệp hội được thành lập

a. uỷ ban kiến trúc internet

b. hiệp hội internet

c. các giao thức và tiêu chuẩn hoá internet

 

chương II

CÁCH THỨC CÀI ĐẶT INTERNET EXPLORER

I Một số điều cần biết khi làm quen với internet explore

II. Công việc cài đặtư

III. Một số thao tác với IE 4.0

1. nhập địa chỉ

2. đến với trang Web mới

3. trở về trang trước - Đến trang sau

4. Tạm ngừng quá trình truyền tải

5. Trở về trang chủ

6. Làm tươi trang Web

7. Sử dụng Fovorites

8. Sử dụng History

9. Làm việc với các Shortcut

10. Gửi E-mail từ một trang Web trong IE

 

Chương III

THỰC TRẠNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VIỆT NAM

1. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin ở Việt Nam

2. Các chính sách và khung pháp lý

Hướng phát triển công nghệ thông tin ở

doc28 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1463 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quá trình cài đặt internet explore, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng 1-1983 khi bộ quốc phòng mỹ yêu cầu tất cả các máy tính kết nối trên mạng phải dùng TCP/IP (TCP: transmission control protocol bộ giao thức internet, IP: internet protocol giao thức điều khiển truyền tin/giao thức internet). Cùng thời gian này thì cơ quan truyền thông của bộ quốc phòng mỹ tách ARPANET ra thành 2 phần: một phần cho việc nghiên cứu tiếp, phần còn lại cho truyền thông quốc phòng. Phần để nghiên cứu lấy tên như cũ ARPANET, phần cho quốc phòng được gọi là mạng quân sự hay là MILNET. Để khuyến khích các nhà nghiên cứu ở các trường đại học chấp nhận và sử dụng các giao thức mới, ARPA đã tiến hành một số bổ sung, bởi thời kỳ đó phần lớn các khoa máy tính ở các trường đại học đều chạy một phiên bản của hệ điều hành UNIX của trường đại học California,Berkeley Software Distribution ở Hoa Kỳ, nó thường được gọi là Berkeley UNIX hay BSD UNIX. Bằng việc tài trợ cho Bolt Beranek and newman Inc (BBN), bổ sung các giao thức TCP/IP của họ và sử dụng với UNIX đồng thời tài trợ cho Berkeley để thống nhất các giao thức, ARPA có thể chiếm tới hơn 90% các khoa máy tính trong các trường đại học. Phần mền giao thức mới đã có ý nghĩa quan trọng trong thời gian đó và đạt được những kết quả tốt. Sự phân phối phần mềm Berkeley trở nên phổ biến vì nó không chỉ cung cấp các giao thức TCP/IP căn bản mà còn cung cấp cho người sử dụng các ứng dụng chuẩn TCP/IP. Bên cạnh các chương trình tiện ích, Berkeley UNIX còn cung cấp sự trừu tượng ở mức hệ đIều hành được gọi là Socket, nó cho phép các chương trình ứng dụng các giao thức truyền thông như: trong cơ cấu của UNIX cho I/O, Socket có các tuỳ chọn cho một số kiểu của các giao thức mạng. Thành công của công nghệ TCP/IP và internet trong giới tin học đã thúc đẩy các nhóm ngành khác chấp nhận nó. Bởi vậy trong thời điểm đó mạng truyền thông đã trở thành mục tiêu chính và chủ yếu trong các công trình nghiên cứu khoa học. Tổ chức khoa học quốc gia Hoa Kỳ đã có vai trò tích cực trong việc mở rộng TCP/IP và internet. Đầu năm 1985 nó chỉ là chương trình thiết lập sự truy nhập mạng quanh 6 chung tâm máy tính, năm 1986 nó đã được mở rộngvà mạng xương sống diện rộng ra đời gọi là NSFNET (national science foundation ). Tất cả các mạng do NSF tài trợ đều dùng các giao thức TCP/IP và nó là một bộ phận của internet toàn cầu. Trong 7 năm đầu, internet đã phát triển tới hàng trăm mạng thành viên trên khắp nước Mỹ và Châu Âu, đã kết nối khoảng 20,000 máy tính của các trường đại học, chính phủ và các phòng thí nghiệm. Số lượng máy tính được nối mạng và sử dụng internet đã phát triển tới con số quá lớn ngoài sức tưởng tượng. Cuối năm 1987, nó được dự đoán phát triển với tốc độ 15% một tháng. Năm 1994, mạng internet toàn cầu đã có hơn 3 triệu máy tính được nối mạng ở 61 quốc gia. Việc chấp nhận giao thức TCP/IP đã cho internet phát triển không bị giới hạn bởi các dự án được chính phủ tài trợ. Và một số các tập đoàn máy tính lớn chủ chốt cũng như các tập đoàn kinh tế lớn khác đã kết nối với internet như: công ty dầu lửa, ngành công nghiệp ô-tô, các hãng điện tử, các hãng viễn thông.... Các công ty vừa và nhỏ bắt đầu kết nối vào những năm 90. Sự phát triển nhanh chóng đã sinh ra những vấn đề không dự kiến trước được trong dự kiến ban đầu, và thúc đẩy các nhà nghiên cứu tìm ra các kỹ thuật để quản lý mạng rộng hơn, tài nguyên phong phú hơn. Ví dụ như trong thiết kế ban đầu: tên và địa chỉ của các máy tính trên internet được giữ trong một file đơn, và có trên các trạm (site) trên internet. Giữa những năm 80, người ta thấy một trung tâm dữ liệu sẽ không đủ như: các yêu cầu cập nhập file sẽ nhanh chóng vượt quá khả năng của mỗi cá nhân, thậm chí nếu tồn tại một trung tâm chuẩn thì dung lượng của mạng cũng không đủ để cho phép sự phân bổ thường xuyên trên mỗi trạm hoặc truy nhập trực tuyến của mỗi trạm. Những cột mốc lịch sử trên chặng đường phát triển Internet. Năm: 1962 John Licklider, một nhà khoa học tại viện công nghệ Messahusetts đưa ra dự án “Galactic Network” gồm nhiều máy tính được nối với nhau để có thể truy nhập dữ liệu và các chương trình từ bất cứ đâu. Năm: 1968 Các mạng chuyền mạch gói ra đời. Năm: 1969 Khai trương mạng ARPAnet sử dụng Netword Core Protocol với 4 máy chủ. Năm: 1971 Ray Tomlinson của ARPAnet gửi đi bức thông điệp đầu tiên bằng e-mail. Năm: 1977 ARPAnet có 100 máy chủ. Năm: 1979 Usenet được thành lập. Năm: 1983 Xuất hiện thuật ngữ Internet và TCP/IP trở thành giao thức Internet chuẩn. Năm: 1984Các Domain Name Server (DNS) ra đời,Internet có 1.000 máy chủ. Năm: 1987 Internet có 10.000 máy chủ. Năm: 1988 “Sâu Internet” (Internet Worm) gây sự cố cho 6.000 trong tổng số 60.000 máy chủ. Năm:1989 Internet có 100.000 máy chủ. Năm: 1990 Tim Berners-Lee phát triển HTML và World Wide Web, mạng Internet ngưng hoạt động, Internet có hơn 300.000 máy chủ. Archie, cơ chế tìm kiếm Internet đầu tiên được phát triển tại Đại Học McGill ở Mỏnteal. Năm: 1991 Tổ chức khoa học quốc gia Mỹ cho phép các giao dịch của mạng thương mại được quy định trên Internet giúp thương mại điện tử khởi sắc. Năm: 1992 Internet có 1 triệu máy chủ và 50 Web site khắp thế giới. Truyền thông IP được thực hiện lần đầu tiên. Cụm từ “ lướt trên Internet ” xuất hiện lần đầu tiên do Jean Armour Polly sử dụng. Năm: 1993 Mark Andreesen giới thiệu trình duyệt Internet mang tên MóaicX cho các hệ thống chính. Năm: 1994 Internet có hơn 3,2 triệu máy chủ và 3.000 Web Site, HTML2 được công bố. Pizza Hut bán chiếc bánh pizza đầu tiên qua mạng Internet. Năm: 1995 Các giao thức IPv6 được xác định. James Gosling và các lập trình viên của Sun Microsystems giới thiệu Java, CompuServer, AOL và các Prodigy đưa ra khả năng truy cập Internet. Ebay được thành lập, số Web Site trên Internet là 25.000, việc đăng ký tên Domain riêng không còn miễn phí nữa. Năm: 1996 W3 consortium công bố HTML 3.2, xuất hiện các hình thức khởi đầu của XML. Internet coa 10 triệu máy chủ. Dự án Internet2 có tên là Abilene được công bố. Năm: 1997 Internet có 19,5 triệu máy chủ và 1,2 triệu Web Site. Bộ tư lệnh tư pháp Mỹ đệ trình vụ kiện Microsoft về tội vi phạm luật chống độc quyền do công ty này đã dùng Windows 95 để mở rộng trình duyệt Internet Explorer. Năm: 1998 AOL mua Netscape qua chuyển nhượng cổ phần với giá 4,2 tỷ USD. Internet có 36,8 triệu máy chủ và 4,2 triệu trang Web Site, HTML4 ra đời. Năm: 1999 Hãng nghiên cứu thị trường Forrester dự đoán doanh thu bán lẻ trực tuyến sẽ tăng từ 7,8 tỷ USD vào năm 1999 lên 108 tỷ USD vào năm 2003. Virus Melissa xuất hiện làm ảnh hưởng tới công việc kinh doanh của nhiều doanh nghiệp trên thế giới và làm mọi người bừng tỉnh trước nguy cơ virus qua mạng Internet.General Motors quyết tâm thành lập Site bán hàng trực tuyến, dự báo xu hướng hình thành thị trường kinh doanh trên Internet giữa các công ty. Năm: 2000 Các dịch vụ quảng các trên INternet được sủ dụng rộng rãi trên khắp thế giới. Một số những phát minh mới đã ra đời như chữ ký điện tử đã được đưa vào sử dụng. 3. Một số uỷ ban, tổ chức, hiệp hội được thành lập. Trước tình hình mạng internet phát triển ngoài sức tưởng tượng thì cần phải có một số tổ chức đứng ra làm đầu tầu để định hướng sự phát triển cho đúng đắn và phù hợp, tránh trường hợp phát triển tràn lan không theo một khuôn mẫu nào gây khó khăn cho công tác quản lý, thì khi đó một số uỷ ban, một số tổ chức, hiệp hội đã hình thành. a.Uỷ ban kiến trúc internet. Do bộ giao thức TCP/IP được sinh ra không phải từ một nhà sản xuất hay một tổ chức nào. do đó đã nảy sinh ra rất nhiều những băn khoăn trong giới tin học, và hàng loạt những câu hỏi được đặt ra như: “Ai là người định hướng phát triển kỹ thuật và quyết định tiêu chuẩn cho các giao thức”... Trước tình hình đó thì tổ chức IAB ( Internet Architecture Board ) ra đời. Tổ chức này đã tập trung nghiên cứu, phát triển các giao thức TCP/IP cơ bản, hướng dẫn và chỉ đạo đường nối phát triển của internet, quy định các giao thức nào sẽ trở thành một phần của bộ giao thức TCP/IP và một số nguyên tác có tính công khai. Vào giữa năm 1989, công nghệ TCP/IP và internet đều phát triển vượt quá những dự án nghiên cứu ban đầu và trở thành phương tiện hữu dụng giúp hành ngàn người sử dụng có thể giải quyết những công việc hàng ngày của họ. Khi đó tổ chức IAB đã làm một số các công việc sau: Tổ chức IAB được chia thành hai bộ phận chính. Nhóm 1: có nhiệm vụ nghiên cứu kỹ thuật internet IETF (Internet Engineering Task Force). IETF được chia thành 12 vùng và mỗi vùng đều có các giám đốc riêng. chủ tịch IETF và các giám đốc vùng hợp lại thành nhóm Định hướng kỹ thuật internet gọi là IESG (Internet Engineering Steering Group), các cá nhân có trách nhiệm phối hợp với các nhóm làm việc của IETF. Nhóm 2: có nhiệm vụ nghiên cứu internet IRTF ( Internet Research Task Force ). IRTF là một bản sao của IETF.IRTF phối hợp các hoạt động nghiên cứu liên quan tới các giao thức TCP/IP hoặc kiến trúc liên mạng tổng thể. Cũng như IETF thì IRTF cũng có một nhỏ là IRSG ( Internet Research Steering Group ). IRSG sắp xếp sự ưu tiên và phối hợp các hoạt động nghiên cứu. Khác với IETF, IRTF chỉ là một tổ chức nhỏ và ít hoạt động. Mỗi thành viên IRSG làm chủ tịch nhóm nghiên cứu internet. Các nhóm làm việc IRTF không chia vùng. b.Hiệp hội Internet. Hiệp hội ỉnternet là một tổ chức quốc tế có tên gọi là The Internet Society được Hội Địa lý quốc gia Hoa Kỳ thành lập năm 1992. Hiệp hội này được hình thành để khuyến khích mọi người tham gia internet, giúp đỡ mọi người tham gia và sử dụng internet trên khắp thế giới. c.Các giao thức và tiêu chuẩn hoá Internet. Như chúng ta đã biết các mạng truyền dữ liệu có nhiều chuẩn giao thức truyền thông cùng tồn tại . phần nhiều trong số các giao thức đó đã có trước Internet, vì vậy trong số rất nhiều người quan tâm đến Internet đã có một số câu hỏi đặt ra như: “ Tại sao các nhà thieets kế Internet lại sáng tạo ra nhiều giao thức mới trong khi có nhiều tiêu chuẩn quốc tế cùng tồn tại như vậy ? ” câu hỏi rất khó trả lời, nhưng có thể lý giải nó sở qua như: “ dùng các giao thức đang có như tiêu chuẩn, chỉ sáng tạo các chuẩn mới khi các chuẩn đang tồn tại không đáp ứng đủ, và chuẩn bị được thay bằng chuẩn mới khi chúng đã sẵn có và cung cấp chức năng tương đương”. Dẫu cho có nhiều sự xuất hiện trái ngược, bộ giao thức Internet TCP/IP sẽ không bỏ qua hay tránh các chuẩn hiện có, vì nó diễn ra một cách đơn lẻ không có một chuẩn nào đang tồn tại nào có thể thoả mãn cho hệ thôngs truyền thông liên hợp liên mạng cả. ChươngII: cách thức cài đặt internet explorer I. một số điều cần biết khi làm quen với Internet explorer. Bắt đầu từ phiên bản win 95 OSR2, trình duyệt IE (Microsoft Internet explorer) được tích hợp vào win95 như một thành phần thiết yếu của hệ môi trường này. Trong windows 98 thì IE đã được tích hợp trong đó rồi. Để cài đặt trình duyệt Internet explorer bạn cần có máy tính được cài đặt chương trình Windows 95, 97 hoặc Windows 98 Cấu hình máy tính tối thiểu phải là 486-DX, 8 MB, trên 200 MB đĩa cứng. II. công việc cài đặt. Sử dụng bộ đĩa nguồn của Windows 98 hoặc đĩa CD chứa chương trình nguồn IE 4.0. Sau đó: Bước1: Chọn lệnh Run trên Start menu Bước2: Chọn SETUP.EXE từ bộ đĩa nguồn của IE 4.0. Hệ chương trình tự động tìm đúng vị trí để khởi động. Bạn đã hoàn thành công việc cài đặt. III.Một số thao tác với IE 4.0. Nhập địa chỉ cách 1: Gõ URL vào trong address box nằm dưới thanh công cụ rồi ấn Enter.. cách 2: Chọn mục File từ menu Chọn tiếp mục Open. Hộp hội thoại xuất hiện, gõ URL vào Open box rồi ấn Enter. Cách 3: Chọn Run từ menu Start của Windows Gõ URL vào Run rồi ấn Enter. Đến với trang Web mới. Trong trang Web thường có nhiều siêu văn bản, đó là các nơi có các mối liên kết, trỏ tới địa chỉ của các trang Web khác, ta dễ dàng nhận ra vì chúng có mầu sắc, định dạng nổi bật hơn các dòng văn bản khác. Bạn muốn đọc những thông tin trên các siêu văn bản thì bạn chỉ cần: Đưa chuột đến đó, khi đó con trỏ chuột chuyển thành hình ngón tay. Nháy trỏ chuột trái hoặc phải rồi chọn từ menu mục Open Về trang trước-Đến trang sau. Trở về trang trước: Cách1: Nháy trỏ chuột vào nút Back trên thanh công cụ (Toolbar ) Cách 2: Nhấn tổ hợp phím ALT- Cách 3: Chọn từ menu : Go/Back. Đi đến trang sau: cách 1: Nháy trỏ chuột vào nút Forward trên thanh công cụ cách 2: Nhấn tổ hợp phím ALT- cách 3: Chọn từ menu : Go/ Forward. 4. Tạm ngừng quá trình truyền tải a. Trường hợp 1: Trong lúc IE đang thực hiện truyền tải thông tin như: đang tải xuống( download ), tải lên ( upload ), tìm kiếm, nhận một trang Web, một hình ảnh, đoạn phim hay đoạn nhạc... thì bạn có thể ngắt ngang nó bằng cách: Cách 1: Nháy trỏ chuột vào nút Stop trên thanh công cụ Cách 2: Nhấn phím ESC Cách 3: Chọn từ menu View/Stop. b.Trường hợp 2: Trang Web vừa nhận dở dang do bạn ngắt ngang vẫn hiển thị và cho phép bạn sử dụng thông tin đó. Bây giờ, nếu muốn tiếp tục nhận phần còn lại của trang Web thì bạn chỉ cần: cách 1: Nháy trỏ chuột vào nút Refresh trên thanh công cụ cách 2: Nháy trỏ chuột phải vào trang Web rồi chọn Refresh từ menu cách 3: Nhấn phím F5 cách 4: Chọn từ menu: View/ Refresh. 5. Trở về trang chủ( Home/Start page ). Để trở về trang chủ thông thường thì đó là trang đầu tiên của một Web site, bạn có thể: Nháy trỏ chuột vào nút Home trên thanh công cụ Chọn từ menu: Go/Start page. 6. Làm tươi trang Web( Refresh). Để làm tươi trang Web ( nạp lại trang này ), bạn có thể: -Nháy trỏ chuột vào Refresh trên thanh công cụ -Nháy trỏ chuột phải vào trang Web rồi chọn mục Refresh từ menu. -Nhấn phím F5 -Chọn từ menu: View/Refresh. 7. Sử dụng Favorites. Vì WWW có rất nhiều trang Web, do đó các bạn có thể chọn hoặc tìm được những trang mà mình thích nhất. Để ghi nhớ nhanh trang này, bạn dùng Favorites. Để tạo một Favorites cho trang Web hiện hành thì bạn có thể làm các cách sau: Cách 1: Nháy chuột vào nút Favorites trên thanh công cụ rồi chọn mục Add to Favorites Cách 2: Nháy trỏ chuột phải vào trang Web rồi chọn mục Add to Favorites từ menu. Cách 3: Chọn từ menu: Favorites/Add to Favorites Cách 4: Đặt tên cho Favorites này rồi nhấn Enter Để tạo Favorites cho trang Web được chỉ đến bởi một siêu văn bản, bạn hãy nháy trỏ chuột phải vào siêu văn bản này rồi chọn từ menu mục Add to Favorites Khi muốn đến một Favorites nào, bạn chỉ cần nháy trỏ chuột vào nút Favorites trên thanh công cụ rồi nháy trỏ chuột chọn từ danh sách Favorites cần đến. Tổ chức Favorites ( organize Favorites ). Nếu có quá nhiều Favorites đặt trong thư mục sẽ làm bạn khó tìm hoặc rất khó chịu, do vậy mà bạn cần phải tổ chức lại Favorites. Bạn có thể làm bằng cách sau: Nháy trỏ chuột vào nút Favorites trên thanh công cụ, chọn tiếp mục Organize Favorites hoặc từ menu ta chọn: Favorites/Organize Favorites. Khi đó hộp hội thoại xuất hiện cho phép bạn: tạo thư mục (Folder ) mới để chứa các Favorites, dời các Favorites vào các Folder mới tạo lúc này bạn có thể kiểm soát được dễ dàng hơn, bạn có thể xoá bớt các Favorites mà bạn không sử dụng đến hoặc có thể đổi tên các Favorites. 8. Sử dụng Hitory. Đó là danh sách các trang Web mà bạn đã từng sử dụng “ghé thăm”. bạn có thể Chọn menu Go rồi chọn tiếp tên trang Web mà bạn muốn đến, sau mỗi lần làm việc của IE, danh sách này sẽ bị xoá. Chọn từ menu: Go/Open History Folder, nháy kép trỏ chuột vào trang Web cần đến trong danh sách. Nó sẽ cho phép bạn đến một trang Web mà bạn từng “ghé thăm” ở lần làm việc trước đó. 9. Làm việc với các Shortcut. Bạn có thể tạo Shortcut cho URL và đặt chúng vào một Folder hoặc trên màn hình nền (desktop) của Windows để tiện truy xuất. Để tạo một Shortcut bạn có thể làm bằng cách: Nháy trỏ chuột phải vào desktop, chọn từ menu mục New, chọn tiếp mục Shortcut. Gõ URL vào hộp Command Line rồi chọn Next để dặt tên cho Shortcut này. cuối cùng nhấn Finish để hoàn tất. Dùng các thao tác kéo thả hoặc cắt dán để tạo Shortcut từ Favorites hoặc History. Tạo Shortcut cho trang Web hiện hành: nháy trỏ chuột phải vào trang Web rồi chọn từ menu mục Create Shortcut. Tạo Shortcut cho trang Web được chỉ đến bởi một siêu văn bản: nháy trỏ chuột phải vào siêu văn bản rồi chọn mục Copy Shortcut từ menu. Shortcut sẽ được đặt vào Clipboard. * Để mở trang Web từ một Shortcut bạn cá thể làm: Nháy kép trỏ chuột hoặc kéo rẽ và thả “ The Internet” Shortcut trên màn hình nền hoặc kéo rẽ và thả vào cửa sổ IE đang mở Chọn từ danh sách Favorites của IE nếu Shortcut này nằm trong thư mục Favorites. 10. Gửi E-Mail từ một trang Web trong IE. * Kết hợp với Microsoft Exchange, IE có thể giúp chúng ta gửi E-Mail dễ dàng. Thế nhưng, có một điểm bất lợi như: MS-Exchange là một chương trình lớn, nên thời gian nạp ứng dụng này khá lâu. Nhưng ngược lại MS-Exchange là chương trình cung cấp những tính năng về E-Mail vượt trội so với những công cụ E-mail tích hợp trong một số trình duyệt khác. Do đó, nếu chúng ta thường dùng IE để gửi E-Mail thì nên khởi động MS-Exchange trước. Để gởi một E-Mail, bạn có thể: Nháy trỏ chuột vào nút Mail trên thanh công cụ, rồi chọn mục New Message, khi đó của sổ New Message mở ra cho bạn làm việc. Địa chỉ e-mail thường xuất hiện dưới một siêu văn bản trong trang Web, giúp bạn dễ dàng liên lạc và góp ý kiến với người chủ trang Web, bạn có thể: Nháy kép chuột trái vào đó, cửa sổ New Message mở ra với địa chỉ e-mail được điền sẵn , bạn đã có thể làm việc với e-mail và gửi đi bằng cách nháy trỏ chuột trái vào nút Send trên thanh công cụ. Sau đó, bạn muốn trở lại IE bằng cách nháy trỏ chuột trái vào biểu tượng của ứng dụng IE trên thanh tác vụ ( Taskbar ); Khi một địa chỉ e-mail xuất hiện trong trang Web nhưng không phải là một siêu văn bản thì bạn phải: + Gõ vào Address box của IE giao thức mailto: + Chép và dán địa chỉ e-mail từ trang Web vào phần tiếp theo của URL này rồi ấn Enter, khi đó bạn sẽ thấy cửa sổ New Message xuất hiện và đã được điền sẵn địa chỉ e-mail. Chương III thực trạng công nghệ thông tin việt nam Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin ở việt nam. Trong những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20 việt nam còn rất bỡ ngỡ với thuật ngữ “công nghệ thông tin”nói trung và internet nói riêng, thậm trí trong số đó còn có rất nhiều sinh viên trong các trường đại học, người chủ tương lai của đất nước. Bởi vì khi công nghệ thông tin mới ra đời thì người sử dụng còn chưa thực sự tin vào những ứng dụng to lớn của nó, đó cũng thật dễ hiểu bởi vì nó chưa có một cơ sở nào đáng tin cậy để mọi người hiểu và đưa nó vào thực tiễn để áp dụng, chưa có một cơ sở pháp lý để đảm bảo đưa công nghệ thông tin vào áp dụng trong thực tế đồng thời bảo vệ cho nó phát triển, chưa có một kết quả nào để thuyết phục người sử dụng trong việc áp dụng những thành quả của công nghệ thông tin. Nhưng thời gian đã chứng minh cho những thành quả to lớn đó từ phía người sử dụng như: internet đã giúp mọi người gần nhau hơn khi sử dụng một số các tiện ích , phần mềm FAST đã giúp cho các nhân viên kế toán dẽ dàng trong việc lập ra các báo cáo về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh,... đặc biệt là khi mạng internet ra đời thì các thành quả mang lại từ những ứng dụng đó càng có tính thuyết phục người sử dụngvà dần dần thuyết phục được lòng tin của người sử dụng vào công nghệ thông tin như: thư tín đã giảm bớt thời gian cần thiết để hai người từ rất xa có thể liên lạc với nhau thông qua các bức thông điệp, các bức ảnh, các trang Web quảng cáo về hàng hoá và dịch vụ được truyền trên mạng internet để mọi người có thể nắm bắt các thông tin đó chính xác và nhanh chóng, đặc biệt khi kỹ thuật số đã được sử dụng trong thực tế thì các thành quả mà người sử dụng đạt được thật to lớn. Ngày nay khi mà người sử dụng đã dần dần làm quen với các thành quả to lớn mà công nghệ thông tin mang lại thì công nghệ thông tin đã và đang được áp dụng vào thực tế, đặc biệt là các doanh nghiệp đã đưa công nghệ thông tin vào ứng dụng trong lĩnh vực sản xuất, quản lý, ... Và chính phủ nhà nước ta đã đề ra một số các khung pháp lý và một số điều luật để góp phần đưa công nghệ thông tin việt nam lên một tầng cao phát triển mới ngang tầm với các nước phát triển, và nó được thể hiện thông qua: Các chính sách và khung pháp lý Thực trạng về khung pháp lý, chính sách và cơ sở hạ tầng về internet việt nam. Có thể nói ở nước ta mối qua tâm về “internet” đã dần dần “nóng” lên. Bởi vì Việt Nam là thành viên của hai tổ chức APEC và ASEAN, Việt Nam đang tích cực tham gia vào các chương trình hành động chung về internet. Có thể nói môi trường để phát triển internet ở Việt Nam có đủ điều kiện để phát triển bởi vì chúng ta có: nguồn nhân lực rồi rào, năng động, có tính sáng tạo, tư duy tốt đặc biệt là số lượng đông đảo sinh viên đã và đang nghiên cứu về công nghệ thông tin. Ngoài ra nước ta đã tham gia vào tiểu bang điều phối về thương mại điện tử của ASEAN, tham gia soạn thảo và thảo luận các nguyên tắc chung cho thương mại điện tử trong tổ chức ASEAN này. Nhưng chúng ta cũng cần phải nói thêm là: môi trường cho công nghệ thông tin ở Việt Nam chưa hình thành đủ các mặt, các yếu tố cần thiết để công nghệ thông tin phát triển, nhất là về cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội - pháp lý Theo thống kê của Tổng Cục Bưu Điện, máy tính ở nước ta đang ở mức phổ biến gần 5 máy/ 1000 người dân, tỷ lệ đó còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, hơn nữa, phần lớn số máy này đã lạc hậu, hiệu suất sử dụng máy thấp, nhiều máy chỉ được dùng như máy đánh chữ, áp dụng công nghệ thông tin còn hạn chế do chưa thấy hết những ưu việt của nó. Hiện nay ta cũng mới chỉ xây dựng được một số mạng cục bộ, một số mạng diện rộng và một mạng khung toàn quốc VNN. Cuối năm 1997, Việt Nam mới chính thức bước vào khai thác internet, tới năm 1999, cả nước mới có 5 đơn vị cung cấp dịch vụ internet với khoảng 20.000 thuê bao đến tháng 9 năm 2000, số thuê bao lên đến 78.000. Cả nước chỉ có 2 cổng đi quốc tế với băng thông là 16 Mb/s, mỗi cổng một đường vệ tinh, một đường cáp quang, chi phí truy cập còn cao so với thu nhập của người dân và so với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới, nhưng những con số tăng trưởng khả quan đó trở thành cơ sở để chúng ta đặt niềm tin vào sự phát triển của công nghệ thông tin. +Về nhân lực: Đội ngũ cán bộ tin học của chúng ta có khoảng trên 20.000 người, nhưng trong số đó còn một số lượng lớn cán bộ công chức còn chưa quen áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý và kinh doanh. +Về cơ sở hạ tầng Kinh tế - Xã hội: Hệ thống tiêu chuẩn về công nghệ thông tin chưa hính thành, hệ thống thông tin kinh tế quốc gia chưa tương thích với tiêu chuẩn quốc tế, hệ thống mã quốc gia chưa có, chúng ta cũng chưa thống nhất được hệ thống mã thương mại như: mã hàng hoá, mã doanh nghiệp,... chưa hình thành được hệ thống thanh toán điện tử,... Có thể kết luận rằng, thực trạng hạ tầng cơ sở về công nghệ thông tin, kỹ thuật, kinh tế - xã hội của Việt Nam còn yếu và chưa đủ cho sự phát triển của công nghệ thông tin, thêm vào đó, người dân cũng như các cơ quan chính phủ chưa nhận thức đúng đắn, chưa nhất quán về vai trò của công nghệ thông tin trong sự phát triển Kinh tế - Xã hội. Trong bối cảnh chung như vậy, hệ thống pháp lý về công nghệ thông tin của Việt Nam còn hết sức sơ khai, chưa có nền tảng cơ bản cho những hoạt động còn rất mới này. Nhưng vừa qua chúng ta đã xây dựng được một số văn bản luật về: bảo vệ an toàn thông tin trên mạng, luật về bản quyền và một số luật khác, nhưng nhìn chung việc áp dụng luật đó còn rất hạn chế, do ý thức chấp hành của người dân chưa tốt hoặc một số chưa có hiểu biết về nó thậm trí có người hiểu biết về nó nhưng làm ngơ vì một số những lợi ích nho nhỏ cho cá nhân. Một số quan tâm về công nhgệ thông tin của Viêt Nam - Vừa qua chính phủ Việt Nam đã nhận thấy Vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển Kinh tế- Xã hội, hiện đang dần kiện toàn một số khung pháp lý về các văn bản luật cho công nghệ thông tin, đã có một số chính sách ưu đãi dành cho công nghệ thông tin, đã đầu tư một số công trình chô sự phát triển của công nghệ thông tin như: khu công nghệ cao Láng- Hoà lạc,... Thuận lợi trong phát triển công nghệ thông tin việt nam Chính phủ Việt Nam đang coi trọng về ngành công nghiệp mới, công nghiệp: công nghệ thông tin đặc biệt là công nghệ phần mềm. Chúng ta đã đạt được một số thành quả đáng tự hào như: chúng ta đã xuất khẩu một số phần mềm sang một số nước khu vực và một số nước phát triển gồm:Mỹ, anh,... Vừa qua Tổng Thống Mỹ Billker Lintorn đã sang thăm Việt Nam và có ký kết một số văn bản hợp tác và giúp đỡ chính phủ Việt Nam trong lĩnh vực phát triển công nghệ thông tin. Đội ngũ lao động trẻ Việt Nam rất năng động và ham học hỏi, tiếp cận với khoa học công nghệ mới nhanh đặc biệt là có khả năng sáng tạo trong sử dụng và học hỏi những tiến bộ khoa học. Là nước phát triển sau, chúng ta có thể sử dụng một số thành quả của các nước đi trước, rút ngắn thời gian và chi phí dành cho nghiên cứu. 3.Hướng phát triển công nghệ thông tin ở việt nam Do chúng ta đang trong quá trình phát triển kinh tế nên chúng ta gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển công nghệ khoa học nói chung và công nghệ thông tin nói riêng(mạng interet). Do

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docP0168.doc
Tài liệu liên quan