Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng tài chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư Việt Nam. Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng dần qua các giai đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực 1997. Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD trong giai đoạn 1991-1995 đó tăng lên 12,3 triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn được cấp phép trong giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên, quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa và nhỏ. Qui mô vốn đầu tư trung bình của một dự án tăng lên rất nhanh trong thời gian gần đây, từ mức 14,4 triệu USD/dự án trong 2006 và 2007 đã tăng lên gần 60 triệu USD/dự án trong năm 2008 thể hiện số lượng dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư có vốn đầu tư đăng ký hàng trăm triệu đến trên một tỷ USD tăng nhanh.
81 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1578 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quá trình cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng kinh tế thế giới. Trong đó, tác động mạnh nhất, lớn nhất thuộc lĩnh vực kinh tế đối ngoại như xuất - nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài (ĐTNN)…
Cụ thể, năm 2007, kim ngạch xuất khẩu (KNXK) đạt 48,6 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2006, năm 2008, KNXK đạt gần 63 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Đặc biệt, Việt Nam đã có được uy tín mới, với sức hấp dẫn do vị thế là thành viên WTO mang lại, khiến dòng vốn ĐTNN "chảy" vào rất mạnh, qua con số hơn 60 tỷ USD trong năm 2008. Giới đầu tư quốc tế khẳng định Việt Nam là địa chỉ đầu tư tin cậy, là nơi gửi gắm dòng vốn trung và dài hạn... Chính phủ Nhật Bản, Hàn Quốc đều thể hiện quan điểm, khuyến khích nhà đầu tư thực hiện các dự án ở Việt Nam, đánh giá Việt Nam là địa bàn hấp dẫn hàng đầu ở khu vực châu Á.
Trên thực tế, vốn ĐTNN thực hiện năm 2007 đạt gần 8 tỷ USD, năm 2008 đạt gần 11,5 tỷ USD, đó là một kênh cấp vốn quan trọng, trực tiếp thúc đẩy phát triển KT-XH cũng như xóa đói giảm nghèo, gia tăng quy mô và sức hấp dẫn của nền kinh tế. Việc giải ngân vốn ĐTNN tăng chứng tỏ nhà đầu tư tin tưởng làm ăn lâu dài và quyết tâm đẩy nhanh quá trình triển khai từng dự án cụ thể tại Việt Nam .
Bên cạnh đó, một số hoạt động quan trọng khác, có liên quan tới hoạt động thương mại và đầu tư như du lịch, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải cũng có bước phát triển mạnh so với thời kỳ trước khi gia nhập WTO. Đáng chú ý là hàng loạt khu đô thị, nghỉ dưỡng, khu công nghiệp mang đẳng cấp quốc tế đã và đang hình thành, tạo ra cơ sở cho tiến trình CNH-HĐH trên phạm vi cả nước. Nhiều chuyên gia cho rằng, thông qua hội nhập, các nguồn lực kinh tế được huy động, sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả hơn. Một hiệu ứng tích cực đã diễn ra ngay từ năm 2007 khi tốc độ tăng trưởng GDP lên tới 8,5% và con số này vẫn đạt 6,2% vào năm 2008 trong bối cảnh nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, bất lợi do cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu.
Gia nhập thành viên WTO đã giúp DN trong nước có chỗ đứng ngang bằng với đối tác trên thế giới, cho phép DN rút ngắn khoảng cách phát triển, nhất là tăng khả năng chống đỡ trước những hàng rào thương mại. Đây là thay đổi cơ bản, có giá trị thực tiễn rất lớn, bởi nó dẫn đến hiệu ứng khuyến khích cộng đồng DN tăng cường đầu tư, thay đổi công nghệ nhằm mở rộng quy mô sản xuất, đẩy mạnh XK. Từ đó, nền kinh tế được bổ sung thêm những năng lực sản xuất mới và cải thiện một bước về sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Điều này cũng lý giải vì sao một số tổ chức quốc tế đánh giá, đây là sự thay đổi và tác động rất tích cực mang tên "niềm tin mới". Cũng nhờ "bùng nổ" đầu tư và XK, nên hoạt động hợp tác, giao lưu giữa các tổ chức, DN trong nước với đối tác quốc tế cũng diễn ra khá đa dạng, tạo cơ hội cho sự tiếp nhận công nghệ, kỹ năng quản lý hiện đại, tạo ra lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao theo hướng chuyên nghiệp; từ đó, nền kinh tế được bổ sung những "tài nguyên mềm"...
Tóm lại, việc gia nhập WTO cũng giúp Chính phủ, các nhà hoạch định chính sách kịp thời nhận diện một số tồn tại của nền kinh tế được gọi là những "nút thắt" sau 2 năm cọ xát trong môi trường mới. Đó là sự bất cập, "vênh" về pháp luật, cơ chế của ta so với các quy định của WTO. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, còn nhiều việc phải làm để hoàn thiện khung pháp lý cho phù hợp với cam kết hội nhập và chuẩn mực kinh tế thị trường. Vai trò, ý nghĩa của các luật còn thấp do luôn phải chờ hướng dẫn của các nghị định, thông tư, dẫn đến luật thiếu hiệu lực, chậm đi vào cuộc sống... cản trở sự vận hành của các hoạt động KT-XH. Chất lượng nguồn nhân lực cũng bộc lộ nhiều yếu kém, với sự hụt hẫng về kỹ năng lao động, nhất là thiếu chuyên gia, thợ lành nghề, làm giảm tiến độ triển khai các dự án công nghệ cao của DN ĐTNN. Sự thiếu hụt, yếu kém, của hệ thống kết cấu hạ tầng đã gây ra nỗi lo ngại triền miên của giới đầu tư, thậm chí gây thiệt hại cho họ về chi phí và thời gian, làm đội giá sản phẩm xuất khẩu. Tuy nhiên, đã có những cơ hội để cải thiện tình hình này khi một số dự án hạ tầng quy mô lớn đang trong giai đoạn hoàn thiện nghiên cứu để triển khai như đường sắt, đường bộ cao tốc Bắc-Nam, đường Hà Nội-Thái Nguyên, các dự án nâng cấp và mở rộng sân bay, cảng biển trên phạm vi cả nước…
2.1.3. Tổng quan về môi trường kinh doanh 2008 tại Việt Nam
Cuộc điều tra cảm nhận môi trường kinh doanh năm 2008 nhận được sự hưởng ứng của 254 doanh nghiệp tăng 10% so với 234 doanh nghiệp năm 2007. Trong đó có 77% là doanh nghiệp trong nước và 23% là doanh nghiệp nước ngoài. Mục đích của cuộc điều tra là nhằm hiểu rõ hơn quan điểm, cảm nhận của các doanh nghiệp về môi trường kinh doanh hiện nay, kế hoạch phát triển doanh nghiệp trong vòng 3 năm tới, và xác định những lĩnh vực chủ chốt cần cải cách để cải thiện môi trường kinh doanh ở Việt Nam.
2.1.3.1. Cảm nhận về môi trường kinh doanh hiện tại.
Cảm nhận chung của doanh nghiệp tham gia điều tra, cả trong nước lẫn ngoài nước là môi trường kinh doanh năm 2008 kém thuận lợi hơn so với các năm trước. Các doanh nghiệp cũng bày tỏ những lo ngại về tình hình kinh tế vĩ mô kém ổn định và những dấu hiệu của các tác động tiêu cực đang gây ảnh hưởng cho nền kinh tế. Đánh giá năm 2008 thấp hơn nhiều so với năm 2007 (1.9/4 năm 2008 so với 2.7/4 năm 2007) - cho thấy môi trường kinh doanh 12 tháng qua có rất nhiều thách thức cho các doanh nghiệp.
2.1.3.2. Kỳ vọng về môi trường kinh doanh tương lai.
Mặc dù các doanh nghiệp không đánh giá cao triển vọng môi trường kinh doanh trong năm 2008 này, nhưng cả doanh nghiệp trong và ngoài nước đều lạc quan hơn về môi trường kinh doanh của những năm sắp tới - thể hiện qua mới xếp hạng cao hơn cho năm 2009, và mức xếp hạng của năm 2010 -2011 đã quay trở lại mức lạc quan của năm 2007. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp tin tưởng vào khả năng Việt Nam sẽ vượt qua các thách thức, bình ổn kinh tế vĩ mô, và môi trường kinh doanh sẽ được cải thiện hơn trong thời gian tới.
Biểu 2.1. Đánh giá về môi trường kinh doanh theo năm
Bảng 2.1. Đánh giá về môi trường kinh doanh theo năm
Năm
2007
2008
2009
2010-2011
Chung
2.67
1.89
2.33
2.79
Nước ngoài
5.59
1.87
2.22
2.63
Trong nước
2.7
1.91
2.38
2.84
Nguồn: Báo cáo điều tra cảm nhận môi trường kinh doanh 2008
Kết quả điều tra năm nay cho thấy nhìn chung có sự nhất quán cao trong đánh giá của doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Điều này tương đồng với xu hướng ghi nhận được trong năm 2007, chứng tỏ sân chơi giữa các doanh nghiệp nước ngoài và trong nước ngày càng bình đẳng hơn. Đây chắc chắn là một phần kết quả của việc gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới WTO của Việt Nam thời gian gần đây.
2.1.3.3. Cảm nhận về từng chỉ số riêng biệt của môi trường kinh doanh.
Các doanh nghiệp được yêu cầu đánh giá về 13 chỉ số môi trường kinh doanh ở Việt Nam theo mức độ từ 1 đến 4 trong đó 4 là rất tổt, 3 là tốt, 2 là kém, 1 là rất kém.
Trong tất cả các chỉ số, “Tiếp cận thông tin“ đạt điểm tốt nhất 2,45/4 và “cơ sỏ hạ tầng“ đạt điểm kém nhất 1,94/4.
Những lĩnh vực mà doanh nghiệp đánh giá kém nhất, đồng thời cũng là những lĩnh vực cần phải cải thiện nếu Việt Nam muốn duy trì tính cạnh tranh của mình là:
1. Cơ sở hạ tầng (1,94/4)
2. Bảo vệ sở hữu trí tuệ (IPR) (1,79/4).
3. Hệ thống toà án (2,11/4)
4. Hiệu quả của dịch vụ hành chính (2,14/4)
5. Nguồn cung lao động có tay nghề chuyên môn cao (2,18/4)
Biểu 2.2. Đánh giá các yếu tố trong môi trường kinh doanh 2007
Bảng 2.2. Đánh giá các yếu tố trong môi trường kinh doanh 2007
Chung
Nước ngoài
Trong nước
Cơ sở hạ tầng
1.94
1.77
1.98
Bảo vệ sở hữu trí tuệ.
1.97
1.9
1.99
Hệ thống toà án
2.11
1.82
2.18
Dịch vụ hành chính
2.14
1.92
2.21
Nguồn lao động có tay nghề.
2.18
2.4
2.11
Tiếp cận đất đai
2.23
2.17
2.24
Tiếp cận ngoại hối.
2.3
2.37
2.27
Khung pháp lý.
2.31
2.13
2.37
Hệ thống thuế
2.34
2.27
2.36
Tiếp cận tài chính.
2.35
2.22
2.39
Chi phí hoạt động kinh doanh.
2.38
2.54
2.34
Quản lý kinh tế vĩ mô.
2.4
2.31
2.43
Khả năng cạnh tranh khu vực
2,43
2.58
2.38
Tiếp cận thông tin
2.45
2.26
2.51
Nguồn: Báo cáo điều tra cảm nhận môi trường kinh doanh 2008
2.1.3.4. Những tiến bộ đáng kể trong cải thiện môi trường kinh doanh.
Gần 1 nửa (45%) doanh nghiệp ghi nhận có sự tiến bộ trong thủ tục hành chính và gia nhập thị trường, phản ánh nỗ lực không ngừng của chính phủ trong lĩnh vực này, đặc biệt là việc đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong việc thành lập doanh nghiệp thông qua cơ chế 1 cửa trong khâu đăng kí kinh doanh. Tuy nhiên, những phản hồi về một số lĩnh vực khác như Nguồn cung lao động hay Nộp thuế ít khả quan hơn.
Điều đáng chú ý là 5 lĩnh vực được đánh giá là ít có cải thiện nhất năm 2007 vẫn giữ nguyên trong năm 2008 cho thấy nỗ lực cải cách trong các lĩnh vực này còn chậm và chưa hiệu quả.
Các doanh nghiệp nước ngoài ghi nhận những chuyển biến tích cực trong việc xây dựng một môi trường cạnh tranh bình đẳng hơn và cải tiến hệ thống luật lệ kinh doanh phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Đây chính là kết quả tác động trực tiếp của việc gia nhập WTO mang lại. Có 46,6% các doanh nghiệp nước ngoài cảm nhận được các thay đổi tích cực trong đối xử bình đẳng hơn giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, và 39,6% tham gia điều tra ghi nhận có cải thiện trong lĩnh vực “Tăng cường tuân thủ các qui tắc và thông lệ kinh doanh quốc tế“.
2.2. Ảnh hưởng của quá trình cải thiện môi trường đầu tư tới FDI giai đoạn 1988 - 2008
2.2.1. Tình hình thu hút FDI đăng ký từ 1988 - 2008.
2.2.1.1. Cấp phép đầu tư từ 1988 – 2008.
Bảng 2.3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo giai đoạn 1998-2008
(tỷ USD)
1988-1990
1991-1995
1996-2000
2001-2005
2006-2008
số dự án
214
1409
1402
1234
3873
vốn đăng kí
1.6
18.3
25.5
20.8
97.6
Nguồn: Cục ĐTNN Bộ Kế hoạch và đầu tư
Biểu 2.3. Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo giai đoạn 1988-2008
Biểu 2.4. Vốn đăng kí phân theo giai đoạn 1988-2008
Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nên kết quả thu hút vốn ĐTNN còn ít (214 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 1,6 tỷ USD), ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tế - xã hội đất nước.
Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đó tăng lên (1.409 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước. Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt Nam (có thể coi như là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với 1.781 dự án được cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD. Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư - kinh doanh tại Việt Nam đó bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư - kinh doanh thấp so với một số nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị trường mới, vì vậy, ĐTNN tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới các thành phần kinh tế khác và đóng góp tích cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước. Năm 1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ USD). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 45% so với năm trước.
Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự án có quy mô vốn vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp phép trong những năm trước đó phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông) do tác động của cuộc khung hoảng tài chính trong khu vực.
Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm 2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4.
Trong hai năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO vốn đăng ký liên tục đạt mức kỷ lục kể từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài. Năm 2007, vốn đăng kí liên tục lập kỉ lục mới với 21,3 tỷ USD, tăng 71% so với năm 2006. Riêng năm 2008, vốn đăng kí đã đạt trên 64 tỷ USD, tăng 3 lần so với năm 2007.
Như vậy, chỉ trong 2 năm 2007 và 2008 tổng vốn đăng kí là 85,3 tỷ USD.
Biểu 2.5. Qui mô vốn đăng kí bình quân (triệu USD)
Bảng 2.4. Qui mô vốn bình quân các dự án FDI giai đoạn 1988-2008
(triệu USD)
Giai đoạn
1988-1990
1991-1995
1996-2000
2001-2005
2006-2007
2008
qui mô vốn đầu tư bình quân
7.5
11.6
12.3
8.9
14.4
60
Nguồn: Cục ĐTNN - Bộ kế hoạch và đầu tư
Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng tài chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư Việt Nam. Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng dần qua các giai đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực 1997. Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD trong giai đoạn 1991-1995 đó tăng lên 12,3 triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn được cấp phép trong giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên, quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa và nhỏ. Qui mô vốn đầu tư trung bình của một dự án tăng lên rất nhanh trong thời gian gần đây, từ mức 14,4 triệu USD/dự án trong 2006 và 2007 đã tăng lên gần 60 triệu USD/dự án trong năm 2008 thể hiện số lượng dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư có vốn đầu tư đăng ký hàng trăm triệu đến trên một tỷ USD tăng nhanh.
2.2.1.2. Tình hình tăng vốn đầu tư.
Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất - kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới. Năm 2005 cả nước đã thu hút được 12 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 83% so với năm 2005. Năm 2007, vốn đăng kí tiếp tục lập kỉ lục với 21,3 tỷ USD, tăng 71% so với năm 2006. Riêng năm 2008, vốn đăng kí đã đạt trên 64 tỷ USD, tăng 3 lần so với năm 2007.
Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng doanh nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD trong 5 năm 1991-1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi so với 5 năm trước (4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%.
Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7% trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm.
Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà đầu tư châu Á (59%) nên trong số vốn tăng thêm, vốn mở rộng của các nhà đầu tư châu Á cũng chiếm tỷ trọng cao nhất 66,8% trong giai đoạn 1991-1995, đạt 67% trong giai đoạn 1996-2000, đạt 70,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 72,1% và 80%.
Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995; đạt 68,1% trong thời kỳ 1996-2000 và 71,5% trong giai đoạn 2001- 2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 36,7%; 20,4% ; 21,1% ; 24% và 20%.
Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản - JETRO tại Việt Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư - kinh doanh tại Việt Nam.
2.2.1.3. Cơ cấu vốn FDI giai đoạn 1988 – 2008
* Cơ cấu vốn ĐTNN phân theo ngành nghề:
Bảng 2.5. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988 – 2008
Chuyên ngành
Số dự án
TVĐT
Vốn điều lệ
Công nghiệp – xây dựng
6321
87,799,745,637
29,663,816,911
Nông, lâm nghiệp
976
4,792,791,569
2,290,827,787
Dịch vụ
2531
57,182,184,193
20,059,393,674
Nguồn: cục Đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch và đầu tư
- Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng
Bảng 2.6. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo ngành CN và xây dựng 1988-2008 (tính tới 25/1/2009 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Số dự án
TVĐT
Vốn điều lệ
CN dầu khí
48
14,477,841,815
4,658,841,815
CN nhẹ
2750
15,680,141,811
6,884,439,318
CN nặng
2610
47,164,684,196
14,132,235,521
CN thực phẩm
350
4,199,005,162
1,875,954,424
Xây dựng
563
6,278,072,680
2,112,345,833
Tổng
632
84,799,745,637
29,663,816,911
Nguồn: Cục ĐTNN - Bộ kế hoạch và đầu tư
Biểu 2.6. Dự án FDI phân theo ngành CN và xây dựng
Biểu 2.7. Tổng vốn đầu tư FDI ngành CN và xây dựng
Biểu 2.8. Vốn điều lệ FDI ngành CN và xây dựng
Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã chú trọng thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp – xây dựng. Trong những năm 90 thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích các dự án : (1)sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, (2) sản xuất hàng xuất khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc 80% trở lên), (3) sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước và có tỷ lệ nội địa hoá cao.
Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (ngày 11/01/2007), Việt Nam đã xoá bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Qua các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp - xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thộp, sản xuất hàng dệt may...) vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và công nghệ thông tin (IT) với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới: Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng suất, chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá trị của toàn ngành.
Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện.
- ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ:
Bảng 2.7. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo ngành dịch vụ 1988-2008
(đơn vị USD)
số dự án
TVĐT
Vốn điều lệ
Dịch vụ
1445
3,332,641,410
1,347,865,673
GTVT-Bưu điện
235
6,254,568,683
3,475,235,406
Khách sạn-du lịch
250
15,411,708,335
4,465,834,460
Tài chính-Ngân hàng
68
1,057,777,080
991,354,447
Văn hoá -Y tế-Giáo dục
294
1,758,606,263
642,864,566
XD khu đô thị mới
14
8,224,680,438
2,841,813,939
XD văn phòng căn hộ
189
19,361,686,321
5,735,689,586
XD hạ tầng KCN-KCX
36
1,780,515,658
558,735,597
Tổng
2531
57,182,184,193
20,059,393,674
Nguồn : Cục ĐTNN - Bộ kế hoạch và đầu tư
Biểu 2.9. Tổng số dự án FDI ngành dịch vụ 1988-2008
Biểu 2.10. Tổng vốn đầu tư dự án FDI vào ngành dịch vụ 1988-2008
Biểu 2.11. Vốn điều lệ các dự án FDI ngành dịch vụ 1988-2008
Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài. Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đó có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút ĐTNN, phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu.
Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (50,6%), nhưng đó có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí.v.v.
- ĐTNN trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư nghiệp:
Bảng 2.8. FDI ngành nông – lâm nghiệp 1988-2008 (USD)
Số dự án
TVĐT
Vốn điều lệ
Nông - Lâm - Nghiệp
838
4,322,791,540
2,024,892,567
Thuỷ sản
138
470,000,029
265,935,220
Nguồn : cục ĐTNN - Bộ kế hoạch và đầu tư
Biểu 2.12. Dự án FDI phân theo ngành nông lâm nghiệp 1988-2008
Biểu 2.13. Tổng vốn FDI ngành nông lâm nghiệp 1988-2008
Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm Ngư nghiệp đã được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên đến nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này, nên kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm – Ngư chưa được như mong muốn.
Đến hết năm 2007, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đó thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm 10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ 7,4% so với năm 2006). Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mỡ, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu USD.
Các dự án ĐTNN trong ngành Nông – Lâm – Ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực miền Trung, lượng vốn đầu tư cũn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước.
* Cơ cấu vốn ĐTNN phân theo vùng, lãnh thổ:
Qua 20 thu hút, ĐTNN đó trải rộng khắp cả nước, không còn địa phương “trắng” ĐTNN nhưng tập trung chủ yếu tại các địa bàn có điều kiện cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội thuận lợi, đặc biệt là tại các vùng kinh tế trọng điểm nhưng những năm gần đấy đó có mặt ở tất cả các địa phương trong cả nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế - xã hội chung và các vùng phụ cận.
Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước; trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vựng. Tiếp theo thứ tự là Hải Phòng (268 dự án với tổng vốn đăng ký 2,6 tỷ USD), Vĩnh Phúc (140 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Hải Dương (271 dự án với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD), Hà Tây (74 dự án với tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ USD), Bắc Ninh (106 dự án với tổng vốn đăng ký 0,93 tỷ USD) và Quảng Ninh (94 dự án với tổng vốn đăng ký 0,77 tỷ USD).
Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87 tỷ USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, tp Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước (2.398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký của Vùng. Tiếp theo thứ tự là Đồng Nai (918 dự án với tổng vốn đăng ký 11,6 tỷ USD) chiếm 25,9% vốn đăng ký của Vùng, Bình Dương (1.570 dự án với tổng vốn đăng ký 8,4 tỷ USD) chiếm 18,8% vốn đăng ký của Vùng; Bà Rịa-Vũng Tàu (159 dự án với tổng vốn đăng ký 6,1 tỷ USD) chiếm 13,6% vốn đăng ký của Vựng; Long An (188 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD) chiếm 4,1% vốn đăng ký của Vùng. Điều này, minh chứng cho việc triển khai thực hiện Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ và Chỉ thị 19/2001/CT-TTg ngày 28/8/2001 của Thủ tướng Chính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quá trình cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.doc