Công ty cổ phần bao bì Hoàng Thạch có số vốn pháp định ít nhất trong ba công ty đã CPH, vào khoảng 7 tỷ đồng. Công ty cổ phần bao bì Bỉm Sơn có số vốn pháp định khoảng 20 tỷ đồng. Còn Công ty cổ phần vận tải Hà Tiên có số vốn pháp định là 48 tỷ đồng. Cả ba công ty này đều bán hết cổ phần trong thời gian ngắn. Chậm nhất là Công ty cổ phần bao bì Bỉm Sơn bán trong 10 ngày. Nhanh nhất là công ty cổ phần vận tải Hà Tiên chỉ trong vòng 9 giờ đồng hồ là bán xong.
49 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1578 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
,những kết quả cụ thể .
Về tổ chức thực hiện :
Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 111/1998/QĐ - TTg ngày 29/06/1998 thành lập Ban đổi mới quản lý DN TW do một Phó Thủ tướng làm trưởng ban, đồng chí Nguyễn Minh Thông làm phó ban thường trực. Một số phó trưởng ban chuyên trách và các uỷ viên kiêm nhiệm là cấp Thứ trưởng của các Bộ, cơ quan có liên quan để giúp Thủ tướng Chính phủ tập trung nhiệm vụ đổi mới quản lý DN thuộc các thành phần kinh tế, sắp xếp và cổ phần hoá DN nhà nước vào một đầu mối ở các bộ, địa phương. Tổng công ty 91 cũng thành lập Ban đổi mới quản lý DN trực thuộc bộ, địa phương, tổng công ty 91.
Ban đổi mới quản lý DN TW đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ tổng hợp tổ chức hai cuộc tập huấn cho khoảng 1100 cán bộ thuộc các Bộ, địa phương và các DN nhà nước cổ phần hoá năm 1998 tại hai miền từ Thừa Thiên - Huế trở ra tại Hà Nội, từ Đà Nẵng trở vào tại TP Hồ Chí Minh. Hai cuộc tập huấn đã đạt được yêu cầu là quán triệt một cách sâu sắc nghị định số 44/1998/NĐ - C P ngày 29/06/1998 của Chính phủ và các thông tư hướng dẫn của các Bộ, của Ban đổi mới quản lý DN TW đến tất cả các đối tượng đang tiến hành cổ phần hoá. Nhiều vấn đề vướng mắc đã được giải đáp ngay tại cuộc tập huấn. Sau tập huấn của các Ban đổi mới quản lý DN của các Bộ, địa phương, Tổng công ty nói chung đã khẩn trương triển khai thực hiện kế hoạch về cổ phần hoá DN nhà nước thuộc phạm vi và trách nhiệm của mình.
b) Tiến trình cổ phần hoá và nhữnh kết quả bước đầu .
+ Giai đoạn thí điểm (1992 - 1995 ):
Trong giai đoạn này Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ ) đã ban hành Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 về thí điểm chuyển một số DN nhà nước thành công ty cổ phần và Chỉ thị số 84 về việc xúc tiến thực hành thí điểm cổ phần hoá DN nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các DN nhà nước . Sau 4 năm thực hiện, triển khai quyết định số 202/CT và Chỉ thị số 84 của Thủ tướng Chính phủ (1992 - 1996) đã chuyển được 5 DN nhà nước thành công ty cổ phần là :
Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ giao thông vận tải (năm 1993)
Công ty cơ điện lạnh thuộc Uỷ ban nhân dân TP Hồ Chí Minh (1993 )
Xí nghiệp giày Hiệp An thuộc Bộ công nghiệp (1994 )
Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu thuộc Uỷ ban Nhân dân tỉnh Long An (1995)
Xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn (1995)
Trong số 5 DN nói trên thì có 4 DN thuộc địa bàn TP Hồ Chí Minh và 1 DN thuộc địa bàn tỉnh Long An.
Chương trình cổ phần hoá của Đảng, Chính phủ và Quốc hội đã đề ra và được thực hiện thí điểm từ 1992 đến 1996: Hoàn thành cổ phần hoá 5 DN (bình quân 1 năm 1 DN). Thời kỳ thí điểm được đánh giá là hết sức chậm chạp, tuy nhiên đã rút ra những bài học quí giá cho thời kỳ thực hiện tiếp theo.
+ Giai đoạn hai từ cuối năm 1996 đến tháng 6/1998 :
Trên cơ sở đánh giá các ưu điểm và tồn tại trong giai đoạn triển khai thí điểm cổ phần hoá DN nhà nước , Chính phủ đã ban hành Nghị định (NĐ) số 28/ CP ngày 7/5/1996 về chuyển một số DN nhà nước thành công ty cổ phần . Nghị định đã xác định rõ mục tiêu , đối tượng thực hiện cổ phần hoá , quy định cụ thể nguyên tắc xác định giá trị DN , chế độ ưu đãi cho người lao động trong DN nhà nước và tổ chức bộ máy giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác cổ phần hoá DN nhà nước . Đồng thời giao nhiệm vụ cho các Bộ , các địa phương hướng dẫn và tổ chức thực hiện.
Mặc dù có Nghị định của Chính phủ ban hành chấm dứt thời kỳ thí điểm để chuyển sang thời kỳ mở rộng nhưng tiến độ cổ phần hoá chỉ được nhích lên chút ít: 2 năm kể từ 5/1996 - 6/1998 cũng chỉ thực hiện thêm được 25 DN, đưa tổng số các DNNN đã cổ phần hoá đến hết tháng 6/1998 lên 30 DN. Tiến độ cổ phần hoá thời kỳ thực hiện NĐ 28/CP cũng được đánh giá là chậm và chưa đều khắp ở các bộ, ngành, địa phương.
+ Giai đoạn ba , từ tháng 6/1998 đến nay.
Tháng 6 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định 44/1998 nhằm giải quyết những vướng mắc và đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá . Trong NĐ 44/1998, lần đầu tiên Chính phủ công bố một danh mục đầy đủ các loại hình DNNN:-
- Loại DNNN cần tiếp tục đầu tư vốn 100%, đây là số cá biệt chủ yếu tập trung ở những DN thuộc khu vực liên quan đến an ninh-quốc phòng; sản xuất hoá chất độc hại, DN công ích có qui mô lớn để góp phần dẫn dắt nền KT phát triển.
- Loại DNNN cần cổ phần hoá nhưng Nhà nước nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt. Loại DN này thường là quan trọng có vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Ví dụ như: dịch vụ khai thác bưu chính viễn thông; vận tải đường sắt, đường hàng không, hàng hải viễn dương...
- Loại thứ 3 là các DNNN còn lại đều cổ phần hoá và da dạng hoá sở hữu mà Nhà nước không cần nắm phần vốn nào trong các DN này.
Như vậy các DNNN nhìn vào danh mục có thể biết mình thuộc loại DN nào để tự định đoạt bước đi của DN. Ai đó còn quá nặng nề về tầm quan trọng của DN mình thì căn cứ bảng phần loại này để tự sắp xếp để nếu như cấp trên có chỉ đạo cổ phần hoá cũng có thể sớm tổ chức thực hiện cho có kết quả.
Nghị định44/CP đã khắc được nhiều hạn chế của nghị định28/CP. Sự thay đổi của nó thể hiện trên những điểm sau:
+ Mở rộng chủ thể được phép mua cổ phần:
Điều 3-NĐ 44/CP qui định: “Các tổ chức kinh tế, xã hội, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài định cư tại Việt Nam đều có quyền mua cổ phần ở các doanh nghiệp cổ phần hoá”.
Như vậy, việc qui định người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam có quyền mua cổ phiếu là một điểm mới so với NĐ 28/CP. Đây là một qui định phù hợp với tình hình thực tại. Mấy năm trở lại đây những người Việt Nam ở nước ngoài đang có xu hướng đầu tư về trong nước, hơn nữa cơ chế mở cửa của nhà nước cũng thu hút nhiều người nước ngoài đến định cư tại Việt Nam. Đây là một nguồn đầu tư lớn mà ta cần phải khai thác. Nghị định 44/CP đã qui định vấn đề này, nó góp phần làm cho khả năng cổ phần hoá được mở rộng.
+ Hình thức cổ phần hoá:
Nghị định 44/CP đã qui định thêm một hình thức đó là: “Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần” (Khoản 4 - điều 7). Nghĩa là ở hình thức này nhà nước không tham gia cổ phần ở công ty cổ phần. Đây là một sự thay đổi rất táo bạo, một nhận thức mới của nhà nước ta.
+ Quyền được mua cổ phiếu cũng được qui định một cách cụ thể hơn, rõ ràng hơn.
+ Việc sử dụng tiền bán cổ phiếu thuộc sở hữu nhà nước được qui định tại điều 9. Qui định này đã phần nào làm cho mục tiêu của việc cổ phần hoá được thực thi trên thực tế, tạo tâm lý yên tâm cho người lao động khi doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá.
+ Những ưu đãi đối với người lao động thay đổi.
Điều 11 - NĐ 28/CP qui định: “Người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá được nhà nước cấp một số cổ phiếu tuỳ theo thâm niên công tác và chất lượng công tác của từng người. Và trị giá cổ phiếu cấp cho mỗi người không quá 6 tháng lương cấp bậc, chức vụ theo thang bảng lương nhà nước ban hành”. Còn điều 14-NĐ 44/CP lại qui định: “Nhà nước bán với giá ưu đãi cho người lao động tuỳ theo năm công tác của từng người. Một năm làm việc cho nhà nước được mua tối đa 10 cổ phần với mức giảm giá30% so với các đối tượng khác. Tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không quá 20% giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có vốn tự tích luỹ từ 40% giá trị doanh nghiệp trở lên thì tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không quá 30% giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp”. Qui định này có phần thực tế hơn, công bằng hơn.
+ Việc tổ chức thực hiện cũng được qui định một cách rộng rãi hơn, chi tiết hơn. Thẩm quyền của các Tổng công ty được xác lập. Thành lập các Tổng công ty với quy mô lớn, hoạt động rộng khắp cũng là một trong những giải pháp để thay đổi bộ mặt doanh nghiệp nhà nước. Qui định thẩm quyền của Tổng công ty nhà nước trong việc lựa chọn và quyết định doanh nghiệp cổ phần hoá, quyết định giá trị doanh nghiệp đã làm cho việc cổ phần hoá được xúc tiến một cách nhanh chóng hơn.
+ Thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cũng được rút ngắn một cách rõ rệt từ 15 ngày qui định trong khoản 2 điều 16 nghị định 28/CP còn 7 ngày (Khoản 2 điều 16 nghị định 44/CP).
Như vậy, từ NĐ 28/CP đến NĐ 44/CP là cả một sự thay đổi lớn, ảnh hưởng mạnh mẽ đến kết quả của công tác cổ phần hoá. Do NĐ 44 giải quyết kịp thời một số vướng mắc so với NĐ 28/CP trước đó nên sau khi ban hành đã làm tiến độ cổ phần hoá của cả nước đã tăng lên vượt bậc: 6 tháng cuối 1998 cổ phần hoá được 90 DN, bằng 3 lần của số DN đã được cổ phần hoá trong toàn bộ thời gian trước đó. Đưa số DNNN đã cổ phần hoá xong hết năm 1998 lên 120 DN.
*/ Năm 1999, Chính phủ giao kế hoạch cho các bộ, ngành, địa phương và tổng công ty 91 thực hiện cổ phần hoá 400 DN Nhà nước.
Từ ngày 26/3 đến ngày 19/3/1999 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành hàng loạt quyết định phê duyệt danh sách doanh nghiệp Nhà nước thuộc 14 bộ, tổng công ty, địa phương tiến hành cổ phần hóa cho đến hết năm 1999 gồm 191 DN, trong đó có 30 DN chuyển từ năm 1998 sang. Số lượng cụ thể như sau:
Thuộc Bộ thương mại (đợt 1) có 19 DN, trong đó 4 chuyển từ 1998 sang;
Thuộc Tổng công ty bưu chính viễn thông VN có 6 DN, trong đó 3 chuyển từ 1998 sang;
Tổng công ty dầu khí VN có 6 DN, trong đó 2 chuyển từ 1998 sang;
Tổng công ty cà phê VN có 10 DN, trong đó 4 chuyển từ 1998 sang;
Tổng công ty xi măng VN có 3 DN;
Bộ giao thông vận tải có 15 DN;
Bộ xây dựng có 19 DN, trong đó 1 chuyển từ 1998 sang;
Tổng công ty hàng không VN có 1 DN;
Tổng công ty lương thực miền Bắc có 6 DN, trong đó 1 chuyển từ 1998 sang;
Tổng công ty dệt may VN có 11 DN;
Tổng công ty điện lực VN có 9 DN, trong đó 2 chuyển từ 1998 sang;
Tổng công ty hóa chất VN có 3 DN;
Tp.HCM có 43 DN, trong đó 13 chuyển từ 1998 sang;
Tp. Hà Nội có 40 DN;
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là hai địa phương có số DN Nhà nước thực hiện tốt nhất theo kế hoạch giao (trên 40 DN), đứng thứ nhất và thứ nhì của cả nước. Ngoài ra, một số bộ, địa phương và tổng công ty 91 có số lượng kế hoạch cổ phần hoá nhiều là: Bộ thương mại, Xây dựng, Công nghiệp, Giao thông vận tải; các tỉnh, thành phố: Nam Định, Thanh Hoá, Hải Phòng, Đồng Nai; các tổng công ty 91: Dệt may, Cà phê.
Tổng số DN đã thực hiện cổ phần hoá trong năm 1999 là 250 , đưa tổng số các DN đã cổ phần xong hết 31/12/1999 lên 370 DN. Trong đó có những DN có vốn lớn như Công ty mía đường Lam Sơn có giá trị tài sản 665 tỷ đồng, vốn Nhà nước tại DN là 92,5 tỷ đồng...Điều này chứng tỏ từng DN đã xác định được vị trí của mình trong chương trình cải cách để có những bước đi hợp lý, không vì lợi ích riêng của một số người lãnh đạo DN (chánh phó giám đốc) mà làm thiệt hại lợi ích chung của người lao động và cả đất nước.
Cũng trong năm 1999, đã có 11 DN công nghiệp chuyển thành công ty cổ phần, trong đó 2 DN thuộc tổng công ty 90 và 9 DN thuộc các tổng công ty 91.Trong khi các tổng công ty 91 đã cổ phần hoá xong 9 đơn vị so với chỉ tiêu đề ra là 29 (đạt 31%) thì các tổng công ty 90 thuộc Bộ quản lý mới chỉ cổ phần hoá được 2 đơn vị so với 12 đơn vị đề ra (đạt 16,7%).
Tuy số DNNN đã cổ phần hoá cho đến 31/12/1999 là 370 DN nhưng so với tổng số DNNN trong thời điểm đó thì mới chiếm tỷ lệ rất thấp (6,4%) và so với số vốn Nhà nước lúc đó tại khu vực DNNN thì mới cổ phần hoá được 1% phần vốn Nhà nước tại DN. Điều này rõ ràng chưa góp phần hữu hiệu vào việc cơ cấu lại khu vực DNNN trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
*/ Năm 2000, số lượng DN chuyển đổi sở hữu và cổ phần hoá được giao cho các bộ, ngành, địa phương và tổng công ty Nhà nước dựa trên cơ sở phương án tổng thể sắp xếp DN đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Do đó dễ thực hiện hơn cho các cơ quan quản lý cấp trên chỉ đạo DN thực hiện. Theo tinh thần chỉ thị số 20/CT của Thủ tướng Chính phủ thì số lượng đó là 20% trong tổng số DNNN hiện có của các bộ, ngành, địa phương, tổng công ty 91.Ban đổi mới quản lý DN trung ương đã ra kế hoạch cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu năm 2000 bao gồm 692 DN thuộc các địa phương, các bộ, ngành và các tổng công ty 91. Trong đó, 61 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương sẽ CPH và đa dạng hoá sở hữu 524 DN. Hà Nội có 60 DN, Tp.HCM 70 DN, Thanh Hoá 25 DN, Hải Phòng 20 DN, Nam Định 20 DN... 17 bộ, ngành tiến hành CPH 190 DN, trong đó Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn 50 DN, Bộ giao thông vận tải 26 DN, các bộ Công nghiệp, Xây dựng và Thương mại mỗi bộ 20 DN, Bộ thuỷ sản 15 DN...17 tổng công ty 91 CPH 97 DN, trong đó TCTy bưu chính viễn thông và TCTy dệt may mỗi nơi 14 DN, TCTy điện lực 10 DN...
Tính đến ngày 31/12/2000 ,đã có 558 DNNN được chuyển đổi hình thức sở hữu. Riêng trong năm 2000, 188 DNNN đã hoàn thành công việc này trong đó có 162 DN thực hiện cổ phần hoá và 26 DN thực hiện các hình thức giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê, đạt 27,2% so với mục tiêu 692 DNNN được chuyển đổi hình thức sở hữu. Các DN đã CPH thuộc các Bộ, Ngành Tổng công ty 91 chiếm 27%, thuộc các địa phương chiếm 73%. Trong tổng số các doanh nghiệp đã CPH, lĩnh vực công nghiệp xây dựng, giao thông chiếm 57%, lĩnh vực thương mạI dịch vụ chiếm 38%, lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 5%.
Theo lộ trình sắp xếp, đổi mới DNNN trong giai đoạn 2000- 2003, dự kiến sẽ tiến hành CPH và đa dạng hóa sở hữu 1498 DNNN (chiếm 65,3% tổng số DNNN thuộc diện sắp xếp trong thời kỳ này). Trong đó hai năm 2001 và 2002 số DN dự kiến sẽ CPH là 719 doanh nghiệp, chia ra cho các năm: 2001 (345 DN), và 2002 (374 DN).
c) Những kết quả cụ thể thu được sau khi cổ phần hoá.
Sau khi tiến hành cổ phần hoá ,hầu hết các DN đều làm ăn có hiệu quả, đứng vững và phát triển tót trong nền kinh tế thị trường .Lợi nhuận sau thuế không ngừng tăng lên ,mức nộp ngân sách tăng, thu nhập của người lao động được đảm bảo.Đó là những tín hiệu rất khả quan trong tiến trình cổ phần hoá
Sau đây là kết quả cụ thể ở một số bộ nghành và địa phương trọng đIểm :
+ ở các địa phương:
@ CPH tại Hà Nội :
Trong ba năm 1998,1999 và năm 2000, Hà Nội đã CPH được 79 DNNN. Riêng năm 1998, Hà Nội đã hoàn tất thủ tục cổ phần hoá 30 DNNN, có tổng số vốn điều lệ 123 tỷ 262 triệu đồng. Trong đó vốn thu hút từ các cổ đông là 43 tỷ 996 triệu đồng (tăng 55,46%). Giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là 80 tỷ 808 triệu đồng, không những bảo toàn vốn khi đánh giá lại tài sản mà còn tăng thêm 1 tỷ 542 triệu đồng. Nhưng trong năm 2000 vừa qua, thành phố chỉ CPH được 9 DN..So với chỉ tiêu 60 DNNN chuyển thành công ty cổ phần mà Chính phủ giao thì kết quả thực hiện được là quá thấp. Sự chậm trễ này do nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Sự lỗi thời của một số quy định có liên quan đến quyền lợi của người lao động
theo Nghị địng 44/CP vẫn chưa được sữa chữa.
- Công nợ dây dưa, không thể giải quyết dứt điểm vì chưa có chính sách.
- Tâm lý của người lao động : lo lắng về các vấn đề giảm lưong và chính sách xã
hội của DN đối với người lao động để chạy theo lợi tức sau khi DN được CPH.
Bên cạnh đó là các nguyên nhân khác như số DN hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thương mại có lợi thế đã hết, sự đối xử chưa công bằng với các DN đã CPH so với các DNNN trong vay vốn ngân hàng, giải quyết thủ tục pháp lý…
@ Thành phố Hồ Chí Minh .
Tp.HCM là thành phố đi vào tiến trình CPH đầu tiên ở VN. từ 1992 cho đến hết năm 1999, đã có 52 DNNN đã hoàn tất cổ phần hoá, trong đó có 42 DN đã hoàn tất công việc trong năm 1999 và 10 DN hoàn tất trong thời gian từ 1992 đến 1998.
Kết quả của việc CPH là rất khả quan. Theo ban quản lý và đổi mới DNNN Tp.HCM, hầu hết các DNNN đã chuyển thể sang công ty cổ phần từ 1992 đến nay đếu hoạt động có hiệu quả. Đầu năm 2000 tổng vốn Nhà nước sau khi đánh giá lại đã đạt mức 417 tỷ đồng, tăng lên bình quân 1,28 lần so với trước. Tổng vốn huy động thêm lên đến 112,443 tỷ đồng. Hoàn vốn ngân sách Nhà nước ngay sau khi CPH được 216,368 tỷ đồng. Và tại các công ty này, Nhà nước vẫn nắm giữ 30% cổ phần. Trong số các DN đã CPH, 25 DN đạt hiệu quả sản xuất-kinh doanh cao hơn hẳn so với trước khi CPH. Doanh thu tăng bình quân 39,25%/năm. Lợi nhuận trước thuế tăng bình quân đến 17,5%. Mức nộp ngân sách tăng 17,5%/năm. Thu nhập người lao động cũng tăng và cổ tức đạt mức từ 6% đến 24%/năm.
Năm 2000, thành phố được giao cổ phần hoá 70 DNNN nhưng cho đến quý II mà mới chọn được 26 doanh nghiệp. Nguyên nhân là các tổng công ty còn đang phải xử lý việc sắp xếp lại tổ chức và cơ cấu lại các đơn vị thành viên nên chưa xây dụng được phương án lựa chọn doanh nghiệp nào nên giữ 100% vốn Nhà nước, doanh nghiệp nào đưa vào danh sách CPH hay giải thể, phá sản. Các sở ban ngành thì lúng túng vì các doanh nghiệp phải di dời đến các khu công nghiệp, vướng mắc về bán tài sản và nhà xưởng cũ...
Theo ông Trần Ngọc Côn, Phó chủ tịch UBND Tp.HCM, Giám đốc Sở CN Tp.HCM thì DNNN được giữ lại 100% vốn Nhà nước phải có quy mô vốn Nhà nước từ 10 tỷ đồng trở lên, tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Với DNNN có vốn trên 10 tỷ đồng, nhưng có tình hình tài chính khó khăn, hoạt động chưa có hiệu quả, chưa có hướng phát triển thì đưa vào diện CPH. DNNN có vốn dưới 10 tỷ đồng được ưu tiên chọn vào diện CPH nhưng nếu muốn giữ lại 100% vốn Nhà nước thì phải có tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động hiệu quả và phải sáp nhập vào DNNN khác cùng ngành nghề để có số vốn theo yêu cầu. Với DNNN diện thua lỗ kéo dài, nợ khó đòi không đòi được, nợ phải trả không trả được, mất 3/4 vốn trở lên thì được chọn để giao, bán, khoán , cho thuê hoặc cho giải thể, phá sản.
+ ở một số Bộ- ngành, tổng công ty :
@ Bộ công nghiệp.
Từ năm 1994 đến nay, Bộ công nghiệp mới cổ phần 24 DNNN trong đó có 1 doanh nghiệp cổ phần hoá trong năm 1994, 7 doanh nghiệp cổ phần hoá trong năm 1999 và 6 doanh nghiệp cổ phần hoá trong 9 tháng đầu năm 2000.
Các doanh nghiệp đã chuyển thành công ty cổ phần phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với tổng số vốn điều lệ 143 tỷ VND. Trong đó 18,77% thuộc sở hữu Nhà nước; 49,93% thuộc sở hữu người lao động; 28,78% thuộc sở hữu ngoài doanh nghiệp và 2,52% thuộc sở hữu nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn điều lệ từ 1 tỷ VND đến dưới 5 tỷ VND chiếm 62,5%; doanh nghiệp có vốn từ 5 tỷ VND đến 10 tỷ VND chiếm 20,83% và doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ VND chỉ chiếm 16,67% trong tổng số doanh nghiệp đã cổ phần hoá.
Năm 2000, Bộ công nghiệp có kế hoạch chuyển 39 doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần, trong đó 10 doanh nghiệp trực thuộc Tổng công ty dệt may, 7 doanh nghiệp trực thuộc Tổng công ty điện lực Việt Nam, 4 doanh nghiệp trực thuộc Tổng công ty thép Việt Nam, 4 doanh nghiệp trực thuộc Tổng công ty than Việt Nam, 2 doanh nghiệp trực thuộc Tổng công ty giấy Việt Nam, 2 doanh nghiệp trực thuộc Tổng công ty hoá chất Việt Nam, 10 doanh nghiệp còn lại trực thuộc các tổng công ty 90 và các công ty trực thuộc bộ.
@ Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn .
Từ năm 1993, Bộ NN & PTNT đã tiến hành thí điểm CPH thành công Công ty thức ăn chăn nuôi (VIFOCO). Đến nay Bộ NN & PTNT đã có 22 doanh nghiệp (DN) chuyển sang công ty cổ phần, thuộc các lĩnh vực: chế biến nông, lâm sản; sản xuất và chế biến thức ăn gia súc; xây dựng; cơ khí.
CPH đã được thực hiện dưới cả 4 hình thức (theo điều 7, NĐ44/CP):
- Giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại DN, phát hành cổ phiếu, thu hút thêm vốn để phát triển DN (Nhà máy thực phẩm xuất khẩu Mỹ Châu).
- Bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước tại DN (Công ty cơ khí Bình Triệu, Công ty xây lắp công trình Tây Nguyên, công ty chè Kim Anh, Công ty xây dựng và PTNT 4,...);
- Tách một bộ phận DN đủ điều kiện để CPH (Xí nghiệp đá Gia Thanh, Xưởng nông dược Long Hiệp, ...).
- Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại DN để chuyển thành công ty cổ phần (Công ty bảo quản nông lâm sản).
CPH còn được thực hiện theo mô hình kết hợp cả hình thức vừa bán một phần vốn Nhà nước tại DN vừa phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển DN (3 phân xưởng thuộc Công ty đường Biên Hòa, Công ty nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, Xí nghiệp dược và vật tư thú y,...).
Năm 1999 số DNNN được CPH của bộ NN&PTNT là 16, nhưng tiến trình lại chững lại ngay trong những năm tiếp theo do tâm lý sợ CPH bao trùm lên các DNNN trong diện phải CPH. Trong năm 2000, con số DNNN trong ngành được CPH là 18,con số nếu so với các năm trước thì khá lớn nhưng nếu so với chỉ tiêu 47 DN thì rất khiêm tốn .Chuyển sang năm 2001, tình hình vẫn chưa khả quan hơn khi trong những tháng đầu năm, toàn ngành mới CPH được 9 DN trong khi chỉ tiêu được giao là 38
Đã có sự thay đổi về chất ở các đã CPH.
Trước hết, vốn Nhà nước đã tăng từ 280,1 tỷ đồng lên 359,5 tỷ đồng (huy động thêm được 79 tỷ đ). Cơ cấu vốn điều lệ của các DN thay đổi, cụ thể: 35% vốn của Nhà nước (trước CPH là 100%), 38% vốn của người lao động, 25,6% vốn của người ngoài DN.
Toàn bộ lao động (8.165 người) đều được chuyển sang làm việc ở công ty cổ phần, trừ một số tự nguyện xin được giải quyết thôi việc theo chế độ. Mọi người trong DN thực sự làm chủ, tự giác làm việc. Hiệu quả kinh doanh của các DN cao hơn. Ví dụ như ở VIFOCO đến nay số lãi đã trả cho cổ đông được khoảng 75%. Đồng thời giá trị cổ phần đã tăng lên gần gấp hai lần. Đa số những DN đã CPH từ một năm trở lên, có lãi tăng gấp 4 lần so với trước. Do cơ chế tự chủ, kinh doanh thông thoáng hơn nên các DN đã tuyển chọn được nhiều người lao động giỏi. Được phép của Chính phủ, Công ty đường Lam Sơn và Công ty đường La Ngà bán thí điểm cổ phiếu cho nông dân đã tạo nên sự gắn bó giữa nhà máy với vùng nguyên liệu, nông dân với nhà máy, củng cố liên minh công - nông trên cơ sở rất thực tế, góp phần tích cực vào chủ trương xóa đói giảm nghèo ở nông thôn và miền núi .
Nguyên nhân chính của sự trì trệ trong suốt thời gian qua :
Các quan chức trong ban đổi mới DN thuộc Bộ cho biết nguyên nhân quan trọng nhất dẫn tới việc tiến trình CPH của Bộ bị chậm trễ là do ý thức của lãnh đạo DN còn rất thấp. Nhiều DN khi đề cập đến vấn đề CPH thường lẩn tránh hoặc đưa ra lý do để trì hoãn . Bên cạnh đó có những cản trở như nợ dây dưa kéo dài , xu hướng công ty cổ phần bị phân biệt đối xử so với khi họ còn là DNNN nên các DN chưa CPH đã lo cho tương lai không mấy sáng sủa của mình.
@ CPH ở tổng công ty xi măng .
Tổng công ty xi măng Việt Nam là đơn vị đã từng được khen vì công tác CPH nhanh gọn. Mặc dù đơn vị đầu tiên mới bắt đầu CPH từ cuối năm1998 nhưng cho đến đầu tháng 4/2000, Tổng công ty này đã có tất cả ba công ty CPH thành công là Công ty cổ phần bao bì Hoàng Thạch, Công ty cổ phần bao bì Bỉm Sơn và Công ty cổ phần vận tải Hà Tiên.
Ông Nguyễn Thế Kham, Phó tổng giám đốc Tcty xi măng VN kiêm Trưởng ban đổi mới quản lý doanh nghiệp cho biết, Tcty có 15 đơn vị thành viên, nên số lượng 3 công ty đã CPH chưa phải là nhiều so với tổng số nhưng cả 3 công ty này đều có số vốn khá lớn so với những doanh nghiệp CPH ngoài ngành xi măng và có tiến độ CPH rất khẩn trương.
Kinh doanh hiệu quả, cổ phần bán nhanh
Công ty cổ phần bao bì Hoàng Thạch có số vốn pháp định ít nhất trong ba công ty đã CPH, vào khoảng 7 tỷ đồng. Công ty cổ phần bao bì Bỉm Sơn có số vốn pháp định khoảng 20 tỷ đồng. Còn Công ty cổ phần vận tải Hà Tiên có số vốn pháp định là 48 tỷ đồng. Cả ba công ty này đều bán hết cổ phần trong thời gian ngắn. Chậm nhất là Công ty cổ phần bao bì Bỉm Sơn bán trong 10 ngày. Nhanh nhất là công ty cổ phần vận tải Hà Tiên chỉ trong vòng 9 giờ đồng hồ là bán xong.
Kết quả kinh doanh sau CPH ở ba công ty này cũng rất khả quan. Tại Công ty bao bì xi măng Bỉm Sơn, trước khi CPH, đã nhiều năm không sử dụng hết thiết bị, chất lượng sản phẩm còn xấu và kém, không đạt được công suất thiết kế. Nhưng chỉ sau 7 tháng đi vào hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, Công ty đã sử dụng hết 100% công suất thiết bị và đạt công suất thiết kế là 20 triệu vỏ bao xi măng/năm. Mức cổ tức đề ra trong kế hoạch là 14%/năm nhưng thực tế đạt được 14,5%, cao hơn 0,5%.
Thu nhập của người lao động trong công ty, nếu như trước đây thường phải lấy quỹ lương của bộ phận sản xuất xi măng của Nhà máy xi măng Bỉm Sơn bù qua, thì nay mức lương thậm chí còn cao hơn là lương của công nhân viên trực tiếp sản xuất xi măng. Tại Công ty cổ phần bao bì Hoàng Thạch, tình hình sản xuất và nhất là đời sống của cán bộ công nhân viên cũng đã khá hơn trước rất nhiều .
Kinh nghiệm rút ra từ cách làm của Tcty xi măng VN để đẩy nhanh tiến độ CPH các DNNN đó là phải xác định nhanh gọn giá trị tài sản doanh nghiệp, phải có phương pháp định giá đúng để Bộ tài chính và các ngành hữu quan công nhận. Hiện nay, công1 việc này thường kéo dài ở nhiều doanh nghiệp, nhiều ngành vì định giá quá cao hoặc quá thấp. Tổng công ty xi măng rút kinh nghiệm và làm theo nguyên tắc không định giá vống lên, nhưng cũng không quá thấp làm thiệt hại tài sản Nhà nước. Tối thiểu là định giá bằng với trị giá tài sản trên sổ sách. Nếu giá trị trên sổ sách thấp quá do khấu hao nhanh thì xác định giá trị sao cho phù hợp với giá thị trường.
# Tóm lại các DN đã chuyển thành công ty cổ phần đều cho thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh tăng lên rõ rệt . Nhờ hiệu quả được nâng cao nên tăng thêm được việc làm , tăng thêm thu nhập cho cổ đông ( trong đó có cổ đông nhà nước và người lao động ) ,vừa có cổ tức ở mức ca
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35399.doc