MỤC LỤC
Nội dung Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I. QUAN NIỆM CỦA ĐẢNG TA VỀ ĐÓI, NGHÈO
(TỪ 1986 ĐẾN NAY 2
I. Khái niệm đói, nghèo 2
1. Khái niệm đói 2
2. Khái niệm nghèo 2
3. Khái niệm chung về đói, nghèo 2
II. Quan niệm của đảng về xóa đói giảm nghèo từ 1986 đến nay 3
PHẦN II. CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO GIAI ĐOẠN 1986 ĐẾN NAY 4
1. Chủ trương của Đảng từ văn kiện VI đến văn kiện X 4
2. Quá trình lãnh đạo thực hiện 7
2.1. Xây dựng cơ sở hạ tầng 7
2.2. Giáo dục 7
2.3. Y tế 7
2.4. Việc làm 8
2.5. Vốn (Quỹ) 8
2.6. Xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo 8
PHẦN III. Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA ĐẢNG TỪ KHI THỰC HIỆN CÔNG TÁC XÓA ĐÓI GẢIM NGHÈO TỪ 1986 ĐẾN NAY 9
1. Ý nghĩa 9
2. Bài học 9
KẾT LUẬN 12
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2115 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 1986 đến nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hực hiện công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường như hiện nay: vấn đề xóa đói giảm nghèo càng khó khăn và phức tạp hơn so với thời kỳ trước. Sự phân hóa giàu nghèo đang diễn ra mạnh, là vấn đề xã hội cần được quan tâm. Chính vì lẽ đó, chương trình xóa đói giảm nghèo là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội nước ta. Muốn đạt được hiệu quả thiết thực nhằm giảm nhanh tỷ lệ nghèo, nâng cao mức sống cho người dân thì mỗi địa phương, mỗi vùng phải có chương trình xóa đói giảm nghèo riêng phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của mình nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Vì vậy, em đã chọn đề tài: “Quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 1986 đến nay” để hiểu rõ hơn chính sách xóa đói giảm nghèo và tác động của chính sách xóa đói giảm nghèo đến nước ta, thấy được những kết quả đã đạt được và những yếu kém cần khắc phục trong quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước.
PHầN I
QUAN NIệM CủA ĐảNG TA Về Đói, nghèo
(Từ 1986 ĐếN NAY)
I. Khái niệm đói, nghèo:
Khái niệm đói:
Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống nhỏ hơn mức sống tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu, vật chất để duy trì cuộc sống.
Khái niệm nghèo:
Trước đây người ta thường đánh đồng nghèo đói với mức thu nhập thấp. Coi thu nhập là tiêu chí chủ yếu để đánh giá sự nghèo đói của con người. Nhưng thực tế đã chứng minh việc xác định nghèo đói theo thu nhập chỉ đo được một phần của cuộc sống mà không phản ánh hết được các khía cạnh của nghèo đói. Do đó, quan niệm này còn rất nhiều hạn chế.
Hiện nay, do sự phát triển của nền kinh tế thế giới, quan điểm này đã được hiểu rộng hơn, sâu hơn và cũng có thể được hiểu theo các cách tiếp cận khác nhau:
Khái niệm nghèo mà Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan (tháng 9- 1993) đưa ra: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán địa phương”.
Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tai Copenhangen, Đan Mạch tháng 3- 1995 đã đưa ra khái niệm vè nghèo cụ thể hơn như sau: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn 1USD/mỗi ngày cho một người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại”.
3. Khái niệm chung về đói, nghèo:
Qua các định nghĩa trên, ta có thể đưa ra định nghĩa chung về đói nghèo: Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có những điều kiện về cuộc sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại, quyền được tham gia vào các quyết định của cộng đồng”.
Từ năm 1993 đến cuối năm 2005, Chính phủ Việt Nam đã bốn lần nâng mức chuẩn nghèo. Ngày 27/9/2001 Thủ tướng chính phủ ký Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg trong đó phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói và giảm nghèp giai đoạn 2001 – 2005”, những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn, miền núi và hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo; ở khu vực nông thôn đồng bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo; ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo.
Theo Quyết định số 170/2005/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8/7/2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 -2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo; ở khu vực thành thị những hộ có mức thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo.
II. Quan niệm của Đảng về xóa đói giảm nghèo từ 1986 đến nay.
Xóa đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, đồng thời chủ động tạo các nguồn lực cho các hoạt động trợ giúp người nghèo đói.
Quan điểm này dựa trên lô-gic biện chứng là muốn giúp đỡ, hỗ trợ có hiệu quả người nghèo đói thì Nhà nước phải có đủ nguồn lực vật chất trong tay, bởi vì chính bản thân nhà nước là chủ thể có đầy đủ các khả năng điều hòa thu nhập giữa các nhóm dân cư. Hơn nữa, các nguồn lực vật chất để thực hiện sự điều hòa thu nhập ấy lại chỉ có thể có được khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững. Thực tế cho thấy, nhờ kinh tế phát triển mà Nhà nước đã có đủ tài chính để mở rộng các dự án, các chương trình xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ cho hàng ngàn xã khó khăn phát triển trên cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội. Trên cơ sở đó những người nghèo ở vùng sâu, vùng xa có thêm cơ hội để vươn lên thoát nghèo đói.
Xóa đói giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, của toàn xã hội, mà trước hết là bổn phận của chính người nghèo, phụ thuộc vào sự vận động tự giác của bản thân người nghèo, cộng đồng nghèo. Nhà nước cũng sẽ trợ giúp người nghèo biết cách tự thoát nghèo và tránh tái nghèo khi gặp rủi ro.
Triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo bằng các nguồn tài chính trợ giúp của Nhà nước và các tổ chức trong và ngoài nước.
Việc hỗ trợ và cho vay vốn hộ nghèo phải đi liền với công tác tư vấn, hướng dẫn sử dụng vốn vay có hiệu quả căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của từng hộ gia đình.
PHầN II
CHủ TRƯƠNG Và QUá TRìNH LãNH ĐạO THựC HIệN XOá Đói giảm nghèo giai đoạn 1986 đến nay
1. Chủ trương của Đảng từ văn kiện VI đến văn kiện X:
Văn kiện đại hội VI là văn kiện đầu tiên của Đảng nêu lên khái niệm “chính sách xã hội”. Nghị quyết đại hội nêu quan điểm cơ bản làm cơ sở cho đổi mới chính sách xã hội là “xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực có hiệu quả các chính sách xã hội. chính sách xã hội nhằm phát huy mọi khả năng của con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất”. Từ quan điểm đó, Đại hội VI đã đề ra hàng loạt chủ trương giải quyết lao động và việc làm, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, khắc phục khó khăn của khủng hoảng kinh tế- xã hội và bước đầu chuyển đổi cơ chế đối với đời sống nhân dân, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, chăm lo người có công với cách mạng, phòng chống các tệ nạn xã hội…Giải quyết chính sách xã hội được xác định là nhiệm vụ gắn bó hữu cơ với đổi mới kinh tế như chính sách lao động việc làm được giải quyết gắn với phát triển nhiều thành phần kinh tế.
Từ Đại hội VI đến Đại hội VII, nhận thức và quan điểm đổi mới đường lối phát triển xã hội ngày càng được triển khai sâu sắc hơn, toàn diện hơn.
Bước đầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã đặt ra hàng loạt vấn đề xã hội: tình trạng thất nghiệp của công nhân do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, lạm phát cao ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống hàng ngày của nhân dân, phân hóa giàu nghèo diễn ra ngày càng sâu sắc, mà ở đó những người ít có cơ hội vươn lên trong cơ chế mới như thương binh, bệnh binh…vẫn là những đối tượng chịu nhiều thiệt thòi nhất. … Đây là những vấn đề hoàn toàn mới mẻ trong thực hiện chính sách xã hội ở nước ta, đòi hỏi Đảng ta vừa làm vừa đúc rút kinh nghiệm thực tiễn, ko ngừng xây dựng lý luận chính sách xã hội đổi mới. Đại hội VII đã nhận diện rõ trạng thái vận động của các vấn đề xã hội đó và xác định: kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội….Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hôi, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Những chủ trương mới trong giải quyết một số vấn đề xã hội đang bức xúc nảy sinh từ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đại hội VII là: đổi mới chính sách tiền lương và thu nhập, cải cách cơ bản chính sách tiền lương và tiền công,…giải quyết lao động và việc làm phải trên cơ sở thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, coi trọng cả phát triển sản xuất và dịch vụ.
Các hội nghị ban chấp hành TW khóa VII đã cụ thể hóa và tiếp tục đổi mới các chính sách xã hội. Một số vấn đề nảy sinh đã được Đảng nhận thức và xử lý kịp thời : Để xây dựng khung pháp lý cần thiết bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ng lao động, Hội ngị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1/1994) chủ trương tăng cường xây dựng các luật nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động…đẩy mạnh đào tạo tay nghề, mở rộng hệ thốg dịch vụ tư vấn lao động, có chính sách ưu đãi hợp lý về nhiều mặt để tạo điều kiện cho người nghèo vươn lên làm đủ sống và trở thành khá giả. Khuyến khích làm giàu chính đáng đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo “Coi việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Đồng thời có chính sách ưu đãi hợp lý về tín dụng, về thuế….
Trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối Đại hội VII, chúng ta đã thu được nhiều kết quả quan trọng: Đời sống của nhân dân đc nâng cao, các chính sách giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ…đạt được nhiều kết quả quan trọng. Bên cạnh đó, còn tồn tại những hạn chế : Tình trạng tham nhũng, tiêu cực và bất công xã hội tăng thêm. Khoảng cách giàu - nghèo gia tăng. Sự phát triển giữa các vùng, mức sống giữa các bộ phận nhân dân ngày càng chênh lệch. Một số chương trình phát triển kinh tế – xã hội miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số đạt kết quả thấp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã quyết định đưa đất nước bước vào thời kỳ đổi mới- thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ thực tế triển khai các vấn đề xã hội trước đó, Đại hội VIII đã tổng kết thành các quan điểm định hướng xây dựng và phát triển xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa - một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,dân chủ, văn minh, đó là: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và trong suốt quá trìinh phát triển. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc. Các vấn đề xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp… cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội. Các quan điểm cơ bản nêu trên đã định hình trên tổng thể tư duy lý luận của Đảng về xây dựng và phát triển xã hội trong thời kỳ đổi mới. Chính sách xóa đói giảm nghèo được đặc biệt coi trọng với việc thi hành Chương trình quốc gia theo Quyết định 133 của Thủ tướng Chính phủ (23/7/1998). Chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được đảm bảo bằng mở rộng mạng lưới y tế đến cộng đồng dân cư, thực hiện chế độ bảo hiểm y tế…
Đại hội IX và các Hội nghị TW khóa IX đã bổ sung, cụ thể hóa thêm các quan điểm mà Đại hội VIII đã trình bày với những nội dung mới đáng chú ý: Giải quyết chính sách xã hội phải gắn liền với sự hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Tăng cường vai trò lãnh đạo của nhà nước trong quản lý và phát triển xã hội theo hướng vừa là người điều tiết, vừa là nhà đầu tư. Xã hội hóa việc giải quyết các vấn đề xã hội, phát triển xã hội theo chiều sâu với việc huy động rộng rãi vai trò của toàn xã hội giải quyết các vấn đề xã hội.
Công tác xóa đói giảm nghèo được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức, biện pháp. Đã kết hợp tốt nguồn lực của Nhà nước và nhân dân, xây dựng nhiều công trình kết cấu hạ tầng, kinh tế, xã hội cho các vùng nông thôn, miền núi…
Đại hội X của Đảng bên cạnh việc khẳng định những thành tựu đã đạt được là cơ bản cũng đã nhận thức rõ tình trạng lúng túng ở khâu tổ chức thực hiện và một số chính sách xã hội chưa được cụ thể hóa: kết quả xóa đói giảm nghèo chưa thật vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn cao, khoảng cách chênh lệch về Thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân…có xu hướng doãng ra, nhu cầu việc làm ở thành thị và nông thôn chưa đáp ứng được tốt. Đại hội chủ trương “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển” với những định hướng chủ yếu sau: Khuyến khích mọi người làm giàu theo Luật Pháp, thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói giảm nghèo. Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, tạo việc làm, chăm sóc sức khỏe…
Phát triển hệ thống y tế công bằng, hiệu quả, bảo đảm mọi người dân được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe.Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện giống nòi. Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội.
Như vậy, những vấn đề được Đại hội X nhận thức và giải quyết toàn diện hơn cả ở góc độ mục tiêu và hệ thống giải pháp trong tổng thể các chính sách phát triển mà ở đó con người thực sự là trung tâm, là động lực, là mục tiêu của phát triển xã hội.
2. Quá trình lãnh đạo thực hiện.
2.1. Xây dựng cơ sở hạ tầng:
Đảng đã chỉ đạo đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu phục vụ phát triển kinh tế, bao gồm: Đường giao thông, thủy lợi, nước sinh hoạt, trường học, trạm xá, điện sinh hoạt, chợ… Căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội chung để lựa chọn các công trình ưu tiên phục vụ phát triển sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp và dịch vụ, phục vụ dân sinh. Tiếp tục đầu tư, nâng cấp, mở rộng hệ thống điện nước sinh hoạt và hệ thống thủy lợi đảm bảo cho sinh hoạt và sản xuất của người nghèo; đặc biệt là các vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
2.2. Giáo dục:
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình đào tạo và đang được tiếp tục đổi mới, chấn chỉnh về mục tiêu, nội dung và phương pháp để nâng cao chất lượng dạy và học. Hệ thống các trường nội trú do Nhà nước đài thọ hoàn toàn cho con em các dân tộc thiểu số ăn học đã được mở ra ở tất cả các tỉnh miền núi và các huyện vùng cao. Năm 2000, cả nước đạt chuẩn quốc gia về xóa nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Tính đến cuối năm 2007, có trên 40 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 85% cuối những năm 1980 lên trên 90% năm 2005. Từ năm 2001 đến nay, trung bình hàng năm quy mô đào tạo nghề cho người lao động tăng 10%, quy mô đào tạo cao đẳng, đại học tăng 7,4%. Những sinh viên nghèo vượt khó được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay tiền với lãi suất ưu đãi để theo học.
2.3. Y tế:
Chương trình mục tiêu quốc gia về dân số - kế hoạch hóa gia đình thời kỳ 1991- 2000 được thực hiện tốt đã đưa tỷ lệ tăng dân số giảm từ 2,1% xuống 1,36%. Với thành tích này, Việt Nam đã được Liên hợp quốc tặng giải thưởng về công tác dân số. Sau đó, do chủ quan thỏa mãn, tỷ lệ tăng dân số đã nhích lên 1,44% vào năm 2004. Mấy năm gần đây, tỷ lệ tăng dân số giao động giữa 1,15% và 1,17%.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Áp dụng các tiêu chí của UNICEF, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 42% năm 1995 xuống còn 25% năm 2005. Trong cùng thời gian, tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi giảm tương ứng từ 68‰ xuống còn 18‰ trẻ em đẻ sống. Công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện: các bệnh bại liệt, thiếu vitamin A, uốn ván sơ sinh cơ bản được thanh toán. Tính đến năm 2005, các bệnh bướu cổ, sốt rét ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã giảm 60% so với năm 1995. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 73,7 tuổi năm 2005.
2.4. Việc làm:
Từ chỗ bao cấp toàn bộ trong giải quyết việc làm, Nhà nước đã chuyển trọng tâm sang xây dựng pháp luật (Bộ Luật Lao động 1994), tạo lập cơ chế, chính sách nhằm hướng dẫn và hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm mới. Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1- 1,2 triệu người có công ăn việc làm; từ 2001 đến 2005, con số đó tăng lên 1,4 - 1,5 triệu người. Ngoài ra, mỗi năm Việt Nam còn đưa khoảng 70.000 người đi xuất khẩu lao động tại một số nước trong khu vực và trên thế giới. Để hội nhập với thế giới về chính sách lao động, trong những năm qua Việt Nam đã lần lượt ký kết và thực hiện các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng về quyền lao động như: xóa bỏ lao động cưỡng bức, xóa bỏ phân biệt trong tuyển dụng và nghề nghiệp, xóa bỏ hình thức lao động trẻ em.
2.5. Vốn (Quỹ):
Mở rộng các quỹ tín dụng cho các hộ nghèo được vay vốn sản xuất, mỗi hộ được vay từ 1- 5 triệu đồng, thời hạn không quá ba năm với mức lãi suất ưu đãi. Các hộ trả đúng hạn đủ cả vốn lẫn lãi sẽ được thưởng. Các hộ có thẻ hộ đói nghèo do ủy ban nhân dân xã phường đó cấp được vay vốn không phải thế chấp. Thông qua Ngân hàng phục vụ người nghèo bảo đảm 90- 95% số hộ nghèo được vay vốn sản xuất, trong đó: Các hộ thuộc đối tượng chính sách, các hộ đói nghèo nhất được ưu tiên vay trước. Nguồn vốn để thực hiện mục tiêu này bao gồm: Vốn của quỹ xóa đói giảm nghèo, vốn tài trợ quốc tế kể cả đi vay để cho vay, vốn hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước, v.v…
2.6. Xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo:
Thực tiễn xóa đói giảm nghèo trong những thập kỷ qua của đất nước đã xuất hiện nhiều cách làm mới, xây dựng hai loại mô hình xóa đói, giảm nghèo như: mô hình hướng đến giải quyết vấn đề kinh tế (Mô hình phát triển kinh tế hộ từ mục tiêu tạo việc làm tăng thu nhập; Mô hình kinh tế trang trại phát triển theo hệ sinh thái; Mô hình phát triển kinh tế tập thể xóa đói giảm nghèo;…) và mô hình hướng đến giải quyết các vấn đề xã hội (Mô hình hỗ trợ người nghèo về nhà ở, y tế; Mô hình hỗ trợ con hộ nghèo về giáo dục; Mô hình bạn giúp bạn, hội giúp hội viên).
PHầN III
ý NGHĩA Và BàI HọC KINH NGHIệM của đảng THựC HIệN CÔNG TáC XOá Đói giảm nghèo từ 1986 đến nay
1. ý nghĩa
Với sự phấn đấu không mệt mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong nhiều năm qua, công cuộc xóa đói, giảm nghèo đã đạt được một số thành tựu quan trọng, nhưng phía trước vẫn còn không ít khó khăn và thách thức.
Để đưa đất nước ra khỏi tình trạng nước nghèo và chậm phát triển, ngoài việc tập trung duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 8,5- 9% ; nâng cao mức thu nhập GDP bình quân đầu người lên 960 USD năm 2008, còn phải nâng cao chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư, giảm nhanh đói nghèo xuống 11- 12% theo Nghị quyết kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XII, thì cần phải tạo được bước đột phá mới về giảm nghèo cho giai đoạn 2008- 2010.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tỷ lệ nghèo của cả nước giảm từ 58% năm 1992 xuống 37% năm 1998 và 14,82% năm 2007 trong đó: Tây Bắc: 32,36%; Đông Bắc: 23,44%; Đồng bằng sông Hồng 9,59%;...Một số địa phương cơ bản không còn hộ nghèo theo chuẩn quốc gia như TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà Nội, Bình Dương…
Trên cơ sở kết quả giảm nghèo đạt được giai đoạn 1998 - 2007, trong giai đoạn 2008 - 2010, Chính phủ vẫn đặt quyết tâm tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách, dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo, tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ phát triển sản xuất thông qua việc trợ giúp đầu tư cơ sở hạ tầng, cung cấp tín dụng ưu đãi, dạy nghề, tạo việc làm, khuyến nông- lâm- ngư và khuyến công; miễn giảm thuế đất nông nghiệp, thủy lợi phí, trợ cước trợ giá,…Tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch…chất lượng hơn.
2. Bài học
Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập thì cơ hội cho tăng trưởng kinh tế nhiều hơn cơ hội cho phát triển các vấn đề xã hội và ngược lại thách thức cho các vấn đề xã hội lại nhiều hơn thách thức cho tăng trưởng kinh tế.
Để phát triển bền vững thì yêu cầu đặt ra là phải đồng thời tăng trưởng cao và giảm nghèo nhanh; nếu chỉ tăng trưởng kinh tế mà nghèo đói không giảm thì sự tăng trưởng kinh tế không có ý nghĩa, chỉ làm cho bất bình đẳng xã hội gia tăng, giảm sự đồng thuận xã hội, không bảo đảm được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Tuy vậy, cả nước vẫn còn 59 huyện có tỷ lệ nghèo trên 50% trong đó có 27 huyện tỷ lệ nghèo cao trên 60%; 10 huyện trên 70% và 1 huyện trên 80%; 3006 xã có tỷ lệ nghèo trên 25%, trong đó có 1.378 xã thuộc Chương trình 135 giai đoạn II.
Mặc dù, trong những năm qua, số hộ nghèo trong cả nước đã giảm mạnh, song trên thực tế công cuộc xóa đói giảm nghèo còn vô cùng gian nan. Nguy cơ tái nghèo có thể tăng do tác động của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; do đầu tư phát triển kinh tế giữa các vùng chưa đồng đều, cơ hội về việc làm của người nghèo ngày càng khó khăn hơn do đổi mới công nghệ trong sản xuất, yêu cầu trình độ người lao động ngày càng cao. Đói nghèo trở lại là vấn đề luôn rình rập một bộ phận khá lớn số hộ nghèo vừa vượt khỏi ngưỡng nghèo. Chỉ cần gặp thiên tai, dịch bệnh, đau ốm hoặc biến động giá cả thì các hộ này lại dễ rơi vào tình trạng đói nghèo.
Trong quá trình thực hiện chương trình, cần tiếp tục nghiên cứu, rà soát, đổi mới cơ chế, chính sách, theo hướng tạo tính tự chủ và năng động cho người nghèo, xây dựng và nhân rộng các mô hình giảm nghèo có hiệu quả; lồng ghép các chương trình, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội ở từng vùng, từng địa phương để thực hiện mục tiêu giảm nghèo, chống tái nghèo. Để đạt được mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững theo chỉ đạo của chính phủ, trong năm 2008 và những năm tiếp theo các cấp các ngành cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp, cụ thể như sau: Tiếp tục duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao trên diện rộng và người nghèo được hưởng lợi nhiều hơn từ thành quả tăng trưởng kinh tế đó. Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân tham gia thực hiện chương trình giảm nghèo, vận động các doanh nghiệp, doanh nhân và người khá giả giúp đỡ người nghèo, tạo thành phong trào giảm nghèo sôi động trên từng địa phương, từng vùng và trên toàn quốc; coi đó là sự chia sẻ trách nhiệm xã hội với nhà nước và cộng đồng. Rà soát lại những huyện có tỷ lệ nghèo cao, nhất là những huyện có tỷ lệ nghèo trên 50%, tổ chức các hội thảo, hội nghị nhằm đánh giá đúng thực trạng nghèo đói và tình hình kinh tế- xã hội ở các huyện này, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch giảm nghèo toàn diện 5 năm và hàng năm của từng địa phương trình cấp tỉnh phê duyệt, đề nghị Chính phủ hỗ trợ nguồn lực “trọn gói” theo kế hoạch đề ra hoặc thực hiện theo hình thức cuốn chiếu và có thể thực hiện từ năm 2008. Các địa phương ưu tiên nguồn lực bao gồm cả kinh phí và con người để trợ giúp 3006 xã có tỷ lệ nghèo cao (từ 25% trở lên); tập trung giải quyết cơ bản về cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển sản xuất và phát triển dịch vụ xã hội cơ bản. Nhà nước có cơ chế hỗ trợ một phần nguồn lực cho các xã nghèo. Huy động đủ nguồn vốn tín dụng ưu đãi cho người nghèo, nâng mức dư nợ. Gắn kết hoạt động khuyến nông- lâm- ngư và khuyến công; tiếp tục cải tiến thủ tục và quy trình vay vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo vay vốn đúng mùa vụ, đủ vốn theo nhu cầu, tăng cường kiểm tra giám sát để vốn vay sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, hạn chế nợ quá hạn và rủi ro. Đổi mới cơ chế, chính sách trợ giúp người nghèo về y tế theo hướng tăng thời gian sử dụng thẻ bảo hiểm y tế từ 1 năm lên 2 năm, bảo lưu thêm 2 năm về việc cấp thẻ bảo hiểm y tế cho hộ mới thoát ngèo. Đổi mới cơ chế, chính sách miễn giảm học phí giáo dục, dạy nghề cho người nghèo theo hướng nhà nước trực tiếp mua dịch vụ của các cơ sở cung cấp dịch vụ giáo dục… Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo.
Kết luận
Chống đói nghèo là một cuộc chiến đấu lâu dài và quyết liệt. Mặc dù đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng Đảng và Nhà nước ta luôn luôn ưu tiên giành nguồn lực để xóa đói giảm nghèo; đồng thời thực hiện cam kết với cộng đồng quốc tế về việc thực hiện các chỉ tiêu thiên niên kỷ, trong đó có các chỉ tiêu về xóa đói, giảm nghèo.
Sắp tới, để thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 và Nghị quyết Đại hội làn thứ X của Đảng, Chính phủ sẽ tiếp tục tạo lập động lực để phát triển mạnh mẽ kinh tế – xã hội, đồng thời chủ động chỉ đạo thực hiện công cuộc xóa đói, giảm nghèo với sự đồng tâm hiệp lực của các ngành, các cấp, của cả cộng đồng, của các tổ chức kinh tế, xã hội và của chính người nghèo.
Với quyết tâm cao và tổ chức thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp, chúng ta nhất định sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả và đầy tính nhân văn đã cam kết với cộng đồng quốc tế – mục tiêu xóa đói, giảm nghèo trên đất nước ta.
Qua bài tiểu luận, Việt Nam đã và đang có những bước ngoặt đáng kể trong công tác xoá đói giảm nghèo. Tuy vẫn chưa tránh khỏi những bất cập trong công tác thực hiện ở những vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.... Công tác xoá đói giảm nghèo không chỉ là trách nhiệm của Đảng, của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn dân. Mỗi một con người Việt Nam chung tay hoà sức vào công cuộc xoá đói giảm nghèo thì vấn đề đói nghèo sẽ không còn là trở ngại cho công cuộc phát triển kinh tế – xã hội.
Trong quá trình tìm hiểu, do năng lực và thời gian có hạn nên tiểu luận không khỏi có những kiếm khuyết và hạn chế. Do đó, em rất mong nhận được sự quan tâm góp ý, chỉ dẫn của quý thầy cô để bài tiểu luận của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26717.doc