Đề tài Quá trình gia nhập WTO: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam

Mục lục:

 

Trang

 

Lời mở đầu 1

Phần I: Giới thiệu tổng quan về tổ chức thương mại thế giới 3

1. Lịch sử hình thành, mục tiêu và chức năng của WTO 3

2. Những nguyên tắc hoạt động của WTO 4

3. Sơ lược các hiệp định của WTO 5

4. Quy định về việc gia nhập WTO 7

Phần II: Quá trình gia nhập WTO 7

Phần III: Cơ hội và thách thức 10

1.Cơ hội khi gia nhập WTO 10

2. Thách thức của việc gia nhập WTO 14

Phần IV: Một số giải pháp 20

Phần V: Nhận xét và đánh giá 22

Phần VI: Kết luận 26

 

 

doc29 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 5677 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quá trình gia nhập WTO: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĩ Kỳ và Uruguay và các nước Úc, Honduras, Pominique, Mexico, Newzealan và Mỹ. Ngày 24/9/1996 Việt Nam nộp bản “bị vong lục” là văn bản giải trình đầy đủ các chính sách về thương mại kèm theo là tài liệu cần thiết liên quan tới WTO. Từ năm 1996 đến tháng 6/1998 qua hai năm Việt Nam đã tiến hành trả lời gần 2000 câu hỏi của các thành viên công tác nhằm làm rõ những chính sách kinh tế thương mại của Việt Nam. Trong bản bị vong lục có các cam kết đa phương và song phương mà Việt Nam phải thực hiện đó là: không phân biệt đối xử. Việt Nam sẽ phải cam kết thực hiện đầy đủ các nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO và cam kết thực hiện Hiệp định về các khía cạnh của quyền sở hữu liên quan đến Thương mại. Việt Nam sẽ phải cam kết tuân thủ hoàn toàn Hiệp định TRIPS về quyền sở hữu trí tuệ và sỡ hữu công nghiệp, cam kết thực hiện hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, cam kết thực hiện các quy định về trợ cấp, cam kết thực hiện các quy định về rào cản kỹ thuật. Từ tháng 8/1998 đến cuối năm 2004: Việt Nam đã tiến hành 9 phiên đàm phán đa phương với 38 thành viên công tác. Trong đó các cuộc đàm phán song phương với các thị trường lớn như: Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Oxtraylia, Newzealan, Thuỵ Sỹ, Ấn Độ, Trung Quốc rất khó khăn. Tuy nhiên các thành viên trong ban công tác ghi nhận Việt Nam thực sự tăng tốc trong năm 2004-2005 từ quá trình đàm phán. Đoàn đàm phán Việt Nam đã cung cấp thông tin cập nhật về xây dựng luật của Việt Nam trong cuộc đàm phán lần thứ 10 tại phiên họp thứ 7 của Quốc hội Việt Nam vào tháng 5 thì có 615 bộ luật đã được thông qua bao gồm các bộ luật dân sự luật thương mại sửa đổi, luật kiểm toán nhà nước… Quốc hội cũng thông qua ban hành luật để hoàn thành mục tiêu ban hành luật lệ quan trọng trong năm 2005 liên quan WTO. Đánh giá về phiên đàm phán lần thứ 8 ngày 15/6/2004 Ban công tác và ban thư ký của WTO cho rằng Việt Nam đã cải thiện một cách đáng kể các bản chào. Về mở cửa thị trường hàng hoá dịch vụ cũng như chương trình hành động thực thi các hiệp định của WTO. Họ cũng ghi nhận động thái tích cực về phía Việt Nam. Việc cam kết mở cửa thị trường và thuế quan áp dụng ở mức 18% đối với hàng hoá nhập khẩu giảm 4% so với các bản chào trước đó. Đồng thời cam kết mở cửa thị trường cho 10 ngành, 92 phân ngành của thương mại dịch vụ. Tuy vậy các thành viên của WTO cũng đòi hỏi những cải thiện mạnh mẽ mở cửa thị trường hàng hoá dịch vụ và những giải thích rõ ràng cụ thể hơn nữa về hệ thống pháp luật và chính sách kinh tế nhất là về lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Như vậy mở cửa thương mại dịch vụ là vấn đề thảo luận chủ chốt trong các phiên đàm phán. Cũng tại phiên đàm phán thứ 8 này Ban công tác đã thảo luận dự thảo báo cáo ban công tác. Đây là văn bản hết sức quan trọng đệ trình lên đại hội đồng WTO thông qua tại phiên họp chính thức mỗi khi kết nạp thành viên mới. Tại phiên đàm phán thứ 9 (15/12/2004) Việt Nam đã thông báo với ban công tác những tiến triển trong việc thực hiện chương trình xây dựng các đạo luật liên quan đến các quy định của WTO. Cũng tại phiên đàm phán này chúng ta cũng đã kết thúc đàm phán song phương với 6/27 nước thành viên có yêu cầu đàm phán song phương đó là Achentina, Braxin, Chile, Cuba, EU và Singapo. Đồng thời ban công tác đã báo cáo về tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam. Bản báo cáo đã tổng kết tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam từ ngày đê trình đơn xin gia nhập đến cuối năm 2004. Bản báo cáo đã nêu ra những cải cách mở cửa của Việt Nam và phương hướng trong thời gian tới. Như vậy đây là một động thái tích cực và rất thuận lợi cho Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO. Từ đầu năm 2005 đến 2006 Tổng báo cáo 10 năm gia nhập WTO từ những thành tựu đã đạt được rất khả quan nhưng bên cạnh đó kế hoạch đàm phán năm 2005 đặt ra rất khó khăn vì chúng ta phải đàm phán song phương với các nước còn lại. Trong năm 2005 chúng ta đã tiến hành 15 cuộc đàm phán song phương với các thành viên khác là: Hoa kỳ, Nhật Bản, Canada, Oxtraylia, Newzeland, Thuỵ Sỹ, Ấn Độ, Trung Quốc… Nhìn chung trong cuộc đàm phán này đã thu hẹp dần khoảng cách giữa các bên dẫn tới ký thoả thuận kết thúc đàm phán song phương. Cũng trong năm 2005 này bốn ứng viên chạy đua gia nhập WTO là Ucraina, Liên bang Nga, Arâpxêut và Việt Nam đều có thâm niên trên 10 năm đàm phán tích cực. Trong thời gian tới còn một số vấn đề đặt ra là đàm phán song phương với các nước còn lại nhất là đàm phán với Hoa Kỳ, và các nước phát triển khác. 7-11-2006, tại Geneve (Thụy Sĩ) đã diễn ra trọng thể Lễ ký Nghị định thư về việc VN được chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). PHẦN III CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC I. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi gia nhập WTO Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã khẳng định quá trình đổi mới, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, đưa nền kinh tế tăng tốc. Việc vào WTO sẽ mang lại những cơ hội, cũng như thách thức mới cho nước ta. 1. Cơ hội khi gia nhập WTO 1.1. Mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu Khi gia nhập WTO, theo nguyên tắc tối huệ quốc, nước ta sẽ được tiếp cận mức độ tự do hoá này mà không phải đàm phán hiệp định thương mại song phương với từng nước. Hàng hoá của nước ta vì vậy sẽ có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong việc thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế. Do điều kiện tự nhiên và chi phí lao động rẻ, Việt Nam có lợi thế trong một số ngành, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp và dệt may. Đây là hai ngành được WTO rất quan tâm và đã đề ra nhiều biện pháp để xoá bỏ dần các rào cản thương mại. Chẳng hạn, theo Hiệp định Dệt may của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng đối với mặt hàng dệt may được xoá bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng lợi ích này nếu có mối quan hệ thương mại "như thế nào đó" đối với các nước thành viên WTO. Đối với thương mại hàng nông sản, các thành viên WTO cũng đã và đang đưa ra nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan, từ đó mang lại cơ hội mới cho những nước xuất khẩu nông sản như Việt Nam. 1.2. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Gia nhập WTO sẽ giúp chúng ta có được một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh bạch hơn, có sức hấp dẫn hơn đối với đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Gia nhập WTO cũng là thông điệp hết sức rõ ràng về quyết tâm cải cách của nước ta, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào làm ăn tại Việt Nam. Ngoài ra, cơ hội tiếp cận thị trường của các thành viên WTO khác một cách bình đẳng và minh bạch theo hướng đúng chuẩn mực của WTO, cũng là một yếu tố quan trọng để thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. 1.3. Nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, sẽ phải vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, từ đó có thêm cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh không những ở trong nước mà còn trên thị trường quốc tế. 1.4. Sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO Môi trường thương mại quốc tế, sau này nhiều nỗ lực của WTO, đã trở lên thông thoáng hơn. Tuy nhiên, khi tiến ra thị trường quốc tế, các doanh nghiệp của nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại, trong đó có cả những rào cản trá hình núp bóng các công cụ được WTO cho phép như chống trợ cấp, chống bán phá giá… Tranh thủ thương mại là điều khó khăn mà phần thua thiệt thường rơi về phía nước ta, bởi nước ta là nước nhỏ. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để đấu tranh với các nước lớn, đảm bảo sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Thực tiễn cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả và nhiều nước đang phát triển đã thu được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế này. 1.5 Cơ hội về văn hóa Sự kiện nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO chứng tỏ sự thừa hận của cộng đồng Quốc tế đối với những thay đổi tích cực, to lớn và toàn diện trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng ta. Sự kiện này có ý nghĩa sâu sắc về chính trị, kinh tế, xã hội. Khẳng định vị thế ngày càng cao của Đất nước ta trên Thế giới thể hiện rõ ý chí của toàn Đảng, toàn dân quyết tâm xây dựng một Quốc gia độc lập, tự chủ, ổn định về chính trị, đồng thuận về xã hội, xứng đáng là một trong những nền kinh tế phát triển năng động, sẵn sàng thực hiện các cam kết chung với cộng đồng Quốc tế. Riêng đối với lĩnh vực Văn hóa, sự kiện này cũng có tác động thuận-nghịch to lớn, đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp hành động kịp thời và hiệu quả. “Cơ hội” hay “thách thức” cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Có cơ hội mà bỏ qua để tuột khỏi tay thì cơ hội cũng bằng không. Gặp thách thức mà biết chủ động đón nhận, khôn khéo và quyết tâm vượt qua thì thách thức lại trở thành cơ hội để phát triển. Tham gia các thị trường lớn với tư cách một thành viên bình đẳng, không phân biệt đối xử, các hàng rào thuế quan bị xóa bỏ, xuất khẩu nước ta sẽ có điều kiện tăng nhanh từ đó nền kinh tế nước ta sẽ tăng trưởng mạnh mẽ, có thêm việc làm, thu nhập của người dân tăng lên làm cho mức sống vật chất và nhu cầu hưởng thụ về văn hóa được nâng cao. Đây chính là một trong những tiền đề cần thiết thúc đẩy văn hóa phát triển, thúc đẩy việc sáng tạo các sản phẩm văn hóa nghe nhìn, nghệ thuật biểu diễn, sách báo… đến các nhu cầu giải trí khác như du lịch văn hóa , tham quan thắng cảnh ,di tích lịch sử,bảo tàng…Nhờ sự giao lưu văn hóa quốc tế được tăng cường mà nhân dân ta có thêm điều kiện thuận lợi để tiếp thu tinh hia văn hóa-nhân loại từ lối sống,nếp sống năng động sáng tạo,tự lập, ý thức tôn trọng pháp luật, đề cao tinh thần dân chủ,công bằng đến những giá trị văn học nghệ thuật mang đậm tính nhân văn, tính dân tộc và hiện đại. chúng ta cũng có cơ hội nhiều hơn để giới thiệu với bạn bè khắp nam châu những vẻ đẹp độc đáo của dân tộc, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa chung của nhân loại, hội nhập mạnh mẽ với thế giới, chúng ta có dịp soát xét lại cơ chế, chính sách trên lĩnh vực văn hóa xem có gì lỗi thời cần sửa đổi cho phù hợp thông lệ, chuẩn mực thế giới mà vẫn tuân thủ những nguyên tắc của chúng ta. 1.6.Cơ hội về giáo dục: Tạo điền kiện hoàn thiện và phát triển bền vững hệ thống giáo dục quốc dân vớu mục tiêu nâng cao dân trí ,đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài nhằm đáp ừng nhu cầu đẩy nạnh sự nghiệp công nghiêp hoá ,hiện đại hoá đất nước Cơ hội mở rộng và sử dụng hợp tác quốc tế yrong giáo dục để nâng cao chat lượng giáo dục chỉ có thong qua hợp tác quốc tế mới có thể đào tạo được một nguồn nhân lực có khả năng đáp ứng trực tiếp những nhu cầu trực tiếp của quá trình phát tiển kinh tế xã hội đặt ra ở nước ta Mở rộng du học và làm giảm đi tỉ trọng du dọc ngoài nước góp phần tiết kiệm nhoại tệ Nguồn đấu tư cho giáo dục sẽ đa dạng hơn phong phú hơn ngày càng có nhiều nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài đầu tư cho giáo dục .Điều này sẽ giúp cho giáo dục có thêm nhiều điêu kiện để phát triển .Năng lực và tiềm năng hoạt động của hệ thống giáo dục quốc dân được khai thác triệt để ngày càng có thêm nhiều cơ hội cung cáp giáo dục cho xã hội hiậu quả Tiếp thu chọn lọc nền giáo dục tiên tiến trên thế giới về các phương diện nội dung đào tạo ,phương pháp giáo dục ,phương tiện giáo dục quản lí giáo dục quản lí giáo dục hướng tới xây dựng đội ngủ giáo viên đội ngủ nhữnh người quản lí giáo dục hướng tới xây dựng hệ thống giáo dục học tập suốt đời trong một xã hội học tập D9ổi mới quản lí giáo dục theo hướng quản lí bẳmh pháp luật các văn bản pháp quy va tăng cường tự chủ và tính trách nhiệm xã hộu cho các cơ sở giáo dục gia tăng tính cạnh tranh lành mạnh dưới tất cả các cơ sở giáo dục làm cho nền giáo dục nước ta ngày càng thích ứng được với xã hội với nhu cầu của nền kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa vqà hội nhập được với phát triển trào lưu thế giới Tranh thủ cơ hội để nờp của giáo dục nước ta vớ khu vực và thế giới có chiến lược và kế hoạch khai thác thị trưồng giáo dục của ea ra ngoài lợi dụng sự thừa nhận của nước ngoài dưới những nghành nghề đào tạo có chat lượnh ở nước ta và những nghành học nổi trội hoặc chỉ ở nước ta mới có đồng thới với môi trướng ổn định an ninh chính trị , quốc phòng và với học phí rẻ để thu hút học sinh nước đến nước ta học tập 2. Thách thức của việc gia nhập WTO Bên cạnh cơ hội, việc gia nhập WTO cùng tạo ra một số thách thức lớn đối với nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Đó là: 2.1. Sức ép cạnh tranh Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, loại bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường dịch vụ… sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Đây sẽ là thách thức không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đã quen với "bầu vú bao cấp" của Nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẽ không có cách nào khác là chủ động và sẵn sàng đối diện với thách thức này bởi đó là hệ quả tất yếu của sự phát triển, là chặng đường mà mọi quốc gia đều phải đi qua trên con đường hướng tới hiệu quả và phồn vinh. Dù không gia nhập WTO thì thách thức này sớm hay muộn cũng sẽ đến. Riêng đối với khu vực nông nghiệp, việc gia nhập WTO có thể sẽ mang lại khó khăn nhiều hơn bởi chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp khó có thể diễn ra trong một sớm, một chiều. Chính phủ luôn lưu tâm đến yếu tố này trong đàm phán gia nhập WTO và hy vọng kết quả đàm phán cuối cùng sẽ là một kết quả chấp nhận được đối với lĩnh vực nông nghiệp. 2.2. Thách thức của chuyển dịch cơ cấu kinh tế Một trong những hệ quả tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế là chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực. Dưới sức ép của cạnh tranh, một ngành sản xuất không hiệu quả có thể sẽ phải mất đi để nhường chỗ cho một ngành khác có hiệu quả hơn. Quá trình này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Đây là thách thức hết sức to lớn. Chúng ta chỉ có thể vượt qua được thách thức này nếu có chính sách đúng đắn nhằm tăng cường hơn nữa tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng cần củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khôi phục những khó khăn ngắn hạn. 2.3. Thách thức của việc hoàn thiện thể chế và cải cách nền hành chính quốc gia. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến kinh tế - thương mại, Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm khi gia nhập WTO. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập. Sau đó, phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để thúc đẩy tính năng động và khả năng thích ứng nhanh, yếu tố quyết định sự thành bại của chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bố trí lại nguồn lực. Cuối cùng, những cam kết mở cửa thị trường của ta là cam kết theo lộ trình nên tiến trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sẽ còn tiếp tục diễn ra trong một thời gian dài. Một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hoá. Đây là thách thức to lớn đối với mọi nền hành chính quốc gia. Khi gia nhập WTO, nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự thay đổi theo hướng công khai hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là một nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và doanh nhân, coi trọng doanh nghiệp và doanh nhân hơn nữa, khắc phục "sức ỳ" của tư duy và khắc phục mọi biểu hiện trì trệ, vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một nền hành chính như vậy, sẽ không thể tận dụng được các cơ hội do việc gia nhập WTO đem lại. 2.4. Thách thức về nguồn nhân lực Để quản lý một cách nhất quán toàn bộ tiến trình hội nhập, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo dựng môi trường cạnh tranh năng động và cải cách có hiệu quả nền hành chính quốc gia, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ đủ mạnh xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với nước ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị từ bây giờ, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ngoài ra, để tận dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và tham gia có hiệu quả vào các cuộc đàm phán trong tương lai của tổ chức này, chúng ta cũng cần phải có một đội ngũ cán bộ thông thạo qui định và luật lệ của WTO, có kinh nghiệm và kỹ năng đàm phán quốc tế. Thông qua đàm phán gia nhập, ta đã từng bước xây dựng được đội ngũ này, nhưng vẫn còn thiếu. Từ những cơ hội cũng như thách thức đó, hiện nay Việt Nam đang đẩy nhanh công tác chuẩn bị gia nhập WTO. Về chuẩn bị điều kiện để thực hiện các nghĩa vụ thành viên, thời gian qua Quốc hội và các cơ quan Chính phủ đã khẩn trương đẩy nhanh chương trình xây dựng pháp luật. Quá trình rà soát văn bản pháp luật đã tiến hành ở Trung ương. Bộ Tư pháp đang tiếp tục hướng dẫn các tỉnh rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương, có đối chiếu với quy định của WTO và cam kết của nước ta. Các địa phương cũng đang khẩn trương, nghiêm túc tiến hành rà soát, điều chỉnh các quy định, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại - đầu tư để đảm bảo tính thống nhất với các văn bản của Nhà nước và cam kết quốc tế. Đồng thời, chúng ta cũng đang đẩy mạnh triển khai các chương trình hành động thực hiện các hiệp định của WTO như Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu (IL); Hiệp định về các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMs); Hiệp định về kiểm dịch và vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS)… Để nắm bắt cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế, chúng ta đã tập trung đầu tư phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh để hướng vào xuất khẩu như nâng cao chất lượng và giá trị chế biến của các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản; đầu tư công nghệ và quản lý để nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như dệt may, da giày…; khuyến khích các ngành hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, có tiềm năng phát triển như điện tử, tin học… Đồng thời, tăng cường công tác xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập thị trường quốc tế. Ngoài ra, nên tiếp tục củng cố hệ thống cơ quan đại diện thương mại ở nước ngoài và gắn kết hoạt động của các cơ quan này với các doanh nghiệp, hoàn thiện hành lang pháp lý và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng để giúp các doanh nghiệp làm quen và ứng dụng rộng rãi thương mại điện tử. Nhằm nâng cao năng lực đối phó với thách thức, nước ta đang tập trung xây dựng cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, củng cố vị thế trên thị trường nội địa. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế để đối phó với tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Kiện toàn, củng cố hệ thống tiêu chuẩn về kỹ thuật, vệ sinh kiểm dịch cũng như hỗ trợ doanh nghiệp các thông tin và kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế… Thực tế hầu hết các nước gia nhập WTO đều có nền kinh tế phát triển nhanh. Sớm gia nhập WTO, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang quyết tâm phấn đấu, chủ động tạo bước chuyển biến mới về phát triển kinh tế. Nắm bắt thời cơ, vượt qua những thách thức rất lớn, phát huy cao độ nội lực, khai thác tối đa các nguồn lực bên ngoài để tạo thế lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, nhất định đất Việt Nam sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển vào năm 2010 và trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. 2.5.Thách thức về văn hóa Chuyển sang nền kinh tế thị trường, đất nước chuyển mình, nhiều sự thay đổi ề tiến bộ kinh tế và kỹ thuật, nhưng cũng xuất hiện nhiều vấn đề về đạo đức và văn hóa khi tham gia sân chơi WTO, những vấn đề nạn đó vẫn tiếp tục, kèm theo những thách thức lớn hơn về văn hóa. Nếu không suy nghĩ bàn luận kỹ về những vấn đề này để tìm ra giải pháp hữu hiệu thì sự phát triển về kinh tế sẽ không những không tỷ lệ thuận với chất lượng sống mà có khi ngược lại, làm suy vi cho văn hóa của cộng đồng. Trong cơ chế thị trường thì xương sống của quan hệ tiền-hàng là qui luật giá thị vật chất được mã hóa thành lợi nhuận khi tham gia vào sân chơi WTO, sẽ có áp lực rất lớn đè lên toàn bộ các quan hệ của cả hệ thống chính trị-văn hóa-kinh tế của Việt Nam. Cái gì không có lợi, không mang lại hiệu quả kinh tế, không có sức cạnh tranh về kinh tế thì dần sẽ bị đào thải. Lĩnh vực nào sản xuất được sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, mang lại nhiều lợi nhuận cho nhà sản xuất đóng góp nhiều cho xã hội sẽ được tôn vinh, sẽ phất lên. Những mặt trái của cơ chế là: tất cả để bán, tất cả định giá qua đồng tiền, điều này có vẻ không thuận lợi với nhiều giá trị mà văn hóa đặt ra, không thải tất cả, cái gì cũng có thể qui ra tiền, dùng tiền làm thước đo, chuẩn mực, làm ra tiền bằng mọi giá. Khi gia nhập WTO chúng ta đã tham gia một “sân chơi” bình đẳng với 150 quốc gia viên, nhưng điều gì sẽ xảy đến sau cái được bình đẳng này? Rất ít các quốc gia khi tham gia vào tổ chức này lại bị nghèo đi nhưng WTO không phải là một cây gậy thần, nhiều quốc gia đã gia nhập vào tổ chức này trước ta như Mỹ La Tinh, Châu Phi nhưng họ cũng còn đang chật vật lắm trong công cuộc mưu sinh. Về phía đất nước ta, bên cạnh được xuất khẩu hàng hóa từ nay ẽ không bị chèn ép bởi hạn ngạch và những hàng rào thuế quan phi lý, thế nhưng để tránh được sự thua thiệt này chúng ta phải đánh đổi nhiều điều không kém phần quan trọng về thuế, văn hóa…cha ông ta từng có câu: “Ăn cơm mắm cá thì ngáy o o Ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy” Đây là sự đúc kết chí lý, chí tình, về những vận nạn, những mặt trái của đồng tiền – một động lực của nền kinh tế thị trường “làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền” (Truyện kiều Nguyễn Du). Đó là cách nói diễn tả mối liên hệ giữa phát triển kinh tế vag chất lượng sống của mỗi người, liên quan đến những giá trị tinh thần, văn hóa. Gia nhập WTO, chúng ta có nhiều nguy cơ tổn thất về văn hóa. Mất về văn hóa là cái mất lớn nhất không gì bù đắp được vì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, khi bị mất đi những giá trị cơ bản trong nền móng, ngôi nhà xã hội không thể không bị lung lay. Nếu chúng ta không sớm đưa vấn đề về mặt ăn hóa của WTO ra bàn thảo, tìm ra đối sách và quốc sách để có thể biến thách thức thành lợi thế thì có khi lợi thế lại biến thành thách thức văn hóa lớn. Chúng ta nên tạo những tiền đề vững chắc cho việc thiết lập, củng cố và tôn vinh những giá trị nhân văn truyền thống thuộc về lợi thế về sức mạnh tinh thần của dân tộc, để nó bị tàn lụi đi hay phó mặc cho sự khắc nghiệt của cơn lốc thị trường làm cho nó lung lay, bật gốc rễ, làm méo mó biến dạng thì quả thật chúng ta đã biến lợi thế về kinh tế thương mại thành những nguy cơ bào mòn những giá trị truyền thống-nhân văn của dân tộc. Khi gia nhập WTO chúng ta chấp nhận cạnh tranh với nhiều ông lớn, đã giao lưu tất phải có chuyện đổi chác có đi có lại. Đổi chác thì chí ít phải ngang giá, không làm thiệt hại đến cái toàn cục lâu dài, không “ tham bát bỏ mâm”. Tham gia WTO chúng ta chấp nhận trao đổi với 150 phong tục tập quán, lối sống khác được ẩn, mă hóa đằng sau những nhãn mác hàng hóa, những hợp đồng kinh tế, những đồng tiền đầu tư, vậy người Việt có câu: “đồng tiền đi liền khúc ruột”, đó là câu đúc kết thần kì về mối quan hệ khăng khít giữa đồng tiền và văn hóa, đồng tiền và nhân phẩm. 2.6.Thách thức về giáo dục Thách thức đói với giáo dục khi nước ta khi gia nhập WTO, đồng thời cũng là cơ hôi cho phát triển giáo dục.mặc dù sức cạnh tranh quốc tế của giáo dục còn yếu kém ao với giáo dục các nước WTO đây cũng chính là cơ hội buộc các cơ sở giáo dục nước ta , mà trước hết là các trường Đại học và Cao Đẳng ,các học viện các trường giáo dục chuyên nghiệp , phải nổ lực ,n6ng cao hiệu quả hoạt động đào tạo , nâng cao vị thế của mình sớm tạo được thương hiệu riêng qua năng lực cạnh tranh quốc tế .Nhìn chung thác thức đói với giáo dục cụ thể là: Đàm bảo tháng lợi đường lối giáo dục của Đảng xây dựmh thành công nền giáo dục Việt Nam theo cơ chế thị trường , định hướng XÃ HỘI CHỦ NGHĨA . Trong trường hợp phải hiệu quả chủ quyền giáo dục ,chủ quyền giáo dục bao giò cũng lien quan với văn hóa ,kinh tế chính trị .Mỗi nhà trường Việt Nam phải là cái nôi của Đảng,của nhân dân ,lấy tư tưởng Mac-lênin ,tưtưởng Hồ Chí Minh để đảo tạo ra những con người Việt Nam kế tục xây dựng nước Việt Nam giào đẹp tự do,dân chủ ,công bằng văn minh,xã hôi chủ nghĩa. Dù nýôn hay không thì thị trường dịch vụ giáo dục Việt Nam cũng đã và đang hình thành ở nước ta.Việt Nam sau khi trở thành thành viên của WTO, thì chính là cơ hội giúp thị trường này phát triển , trước tình hình này, nghành giáo dục trước hết là các nhà quản lí giáo dục, có chiệu chap nhận hướng dẫn, đễ quản lí và đua thị trường này phát triển theo định hướng XHCN, hay vẫn giữ tư duy cũ; mặc cảm, khó chó chịu, phê phán, bài xích và kết quả chắc chắn dẫn đến thị trường tự do dịch vụ phát triển không lành mạnh với tiêu cực vì thiếu bàn tay của những nhà quản lí. Kinh nghiệm về quản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuá trình gia nhập WTO cơ hội và thách thức đối với Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan