Đề tài Quan điểm của Keynes về lí thuyết tiền tệ và giá cả, ứng dụng của lí thuyết đó tại Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

A: PHẦN MỞ ĐẦU 2

1. Lí do chọn đề tài 2

2. Tình hình nghiên cứu 3

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 4

4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu 4

5. ý nghĩa 4

6. Bố cục 4

B: NỘI DUNG 5

I. Vài nét về John Meynard Keynes 5

II. Quan điểm của Keynes về lí thuyết tiền tệ và giá cả 5

III. Đánh giá chung về quan điểm của Keynes 9

1. Đóng góp 9

2. Hạn chế 9

3. Nguyên nhân đưa đến những hạn chế của Keynes 10

IV. SỰ VẬN DỤNG LÍ THUYẾT CỦA KEYNES TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 11

1. Tình hình kinh tế nước ta trong những năm qua 11

2. Giải pháp hoàn thành chính sách tiền tệ ở Việt Nam 20

a. Dự trữ bắt buộc 20

b. Tái chiết khấu 21

c. Hoạt động thị trường mở 22

d. Lãi suất 23

e. Hạn mức tín dụng 24

C: KẾT LUẬN 26

D: TÀI LIỆU THAM KHẢO 27

 

doc28 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4806 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan điểm của Keynes về lí thuyết tiền tệ và giá cả, ứng dụng của lí thuyết đó tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y nói cách khác là điều tiết vĩ mô nền kinh tế . Thứ nhất về hệ thống tài chính: Ông chủ trương sử dụng các công cụ thuế khóa. Theo ông cần phải tăng thuế đối với người lao động để điều tiết bớt một phần tiết kiệm từ thu nhập của họ và giảm thuế đối với các nhà kinh doanh, sản xuất. Từ chính sách đó có thể điều tiết sản xuất, khuyến khích tiêu dùng cá nhân. Qua đó mở rộng các hình thức tạo việc làm để nâng cao thu nhập, tăng sức mua, tăng cầu hiệu quả, phát triển thêm ngành nghề mới. Đồng thời tăng chi tiêu chính phủ hay tăng đầu tư công cộng để kích cầu có hiệu quả. Thứ hai: về công cụ tiền tệ và lưu thông tiền tệ. Theo Keynes, cần tăng thêm khối lượng lớn tiền tệ vào trong lĩnh vực lưu thông. Làm tăng cung tư bản cho vay để giảm lãi suất. Khuyễn khích các nhà tư bản đầu tư vay vốn mở rộng sản xuất, tăng thêm khối lượng việc làm.Ông chủ trương chủ động bơm thêm tiền vào lưu thông thực hiện "Lạm phát có mức độ". Ông cho rằng đây là biện pháp hưu hiệu để kích thích thị trường mà không có nguy hiểm gì. Khi nền kinh tế đạt tới mức cân bằng với sản lượng và việc làm cao thì lam phát sẽ tự động dừng lại. Đồng thời với nó là khuyến khích đẩy nhanh chu kì chu chuyển của tiền tệ trong quá trình sản xuất cũng như là lưu thông. Và thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, qua các công cụ tài chính và phát hành công trái nhằm hạn chế số lượng tiền mặt đi vào lưu thông trên thị trường mà tập trung, dồn nén nó lại trong lĩnh vực sản xuất tạo giá trị thặng dư hay lợi nhuận lớn cho các nhà doanh nghiệp, hay cụ thể hơn là khuyến khích sản xuất phát triển mạnh. => Từ những điều trên Keynes cho rằng nhà nước cần dùng hệ thống tài chính, tín dụng, tiền tệ để kích thích lòng tin, tính lạc quan và tích cực đầu tư của doanh nhân. Thứ ba: Về giá cả, tiền công. Một sự khác biệt rõ rệt nhất và cũng là quan điểm sai lệch nhất của Keynes so với các trường phái cổ điển và tân cổ điển đó là ông coi giá cả và tiền công (hay còn gọi là giá cả của sức lao động) luôn luôn ổn định hay cứng nhắc. Để làm rõ điều đó ta đi đến ba lập luận sau. Một: đấy là vấn đề hợp đồng lao động. Các nhà sản xuất hay chủ doanh nghiệp để giữ được lao động làm việc cho mình giữa họ đã hình thành những bản hợp đồng lao động dài hạn. Chính vì thế mà lương theo hợp đồng lao động không thể điều chỉnh đột ngột. Trong trường hợp có thay đổi hợp đồng vì không thể tất cả doanh nghiệp, các ngành sản xuất trong nền kinh tế cùng đồng loạt thay đổi hợp đồng vào cung một thời điểm. Nên chỉ có một bộ phận lao động được thay đổi tiền công. Nhưng nhìn chung, xét tổng quan trên toàn nền kinh tế thì tiền công là không đổi. Hai là về tiền công hiệu xuất. Tức là để khuyến khích sự nhiệt tình lao động và giữ lại những lao động lành nghề trong thời điểm thất nghiệp phát sinh các nhà doanh nghiệp vẫn có thể không cắt giảm tiền. Nhưng khi tiền công không bị cắt giảm khối lượng tiền mặt tham gia thị trường không bị hạn chế mà ngược lai ngày càng gia tăng làm cho nền kinh tế rơi vào bế tắc khủng hoảng thì lẽ dĩ nhiên thất nghiệp vẫn không thể được giải quyết, thị trường lao động vẫn mất cân bằng. Ba là về giá cả hàng hóa. Khi mà thị trường có sự cạnh tranh không hoàn hảo hay sảy ra tình trạng độc quyền thị trường thì cho dù thị trường có biến động đi chăng nữa thì các doanh nghiệp độc quyền đó chưa chắc hay nói đúng hơn là không muốn thay đổi giá bán của mình. Bởi các doanh nghiệp lo sợ khi giá bán thay đổi doanh nghiệp xẽ thu được khoản lợi nhuận ít đi, hoặc không thu được lợi nhuận gì và thậm chí có thể sẽ thua lỗ do doanh thu không bù lại những chi phí đã bỏ ra dể sản xuất ra hàng hóa đó. III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUAN ĐIỂM CỦA KEYNES 1. ĐÓNG GÓP Về mặt lí luận: Keynes đã có công trong việc điều chỉnh kinh tế học truyền thống, xây dựng hệ thống lí luận mới. Dùng các chính sách tiền tệ nói riêng và vai trò can thiệp của nhà nước nói chung tác động bình ổn nền kinh tế. Thay thế hoàn toàn tư tưởng tự do kinh doanh của các trường phái kinh tế trước đó. Về mặt chính sách: Keynes đã phủ định hoàn toàn tư tưởng kinh tế của các nhà cổ điển cho rằng tiền tệ chỉ là để làm vật trung gian, thước đo của giả trị của các hàng hóa mà không có tác động gì thêm. Ngược lại thông qua nhà nước Keynes coi các chính sách tài chính, tiền tệ là biện pháp chủ yếu giải quyết các vấn đề quan trọng của nền kinh tế và chủ trương áp dụng chính sách số hụt tài chính mở rộng. 2. HẠN CHẾ Trong một thời gian dài lí thuyết Keynes được vận dụng rộng rãi tuy nhiên nó cũng thể hiện một số hạn chế: - Mục đích của lí thuyết Keynes là chống khủng hoảng và thất nghiệp song thực tế trong những năm thực hiện lí thuyết này thì cứ bốn năm lại có một lần chấn động kinh tế. - Nạn thất nghiệp không những không được khắc phục mà còn có xu hướng gia tăng. Tư tưởng "lạm phát có điều tiết" của Keynes góp phần làm tăng sự trầm trọng của lạm phát, một căn bệnh nan giải của nền kinh tế hiện đại. - Công cụ lãi xuất, tiền tệ điều tiết đầu tư không có hiệu quả và nhiều khi còn tác động ngược lại. - Nắm nhu cầu xã hội đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế, Keynes đưa ra lí thuyết chủ nghĩa tư bản được điều tiết. Song khi đánh giá cao vai trò của nhà nước ông lại bỏ qua vai trò của tư tưởng tự do của bàn tay vô hình, của cân bằng tổng quát. - Lí luận "Tăng cầu hiệu quả" của keynes còn phiến diện. Song nguy hại hơn là kích thích lối sống hưởng thụ và đặc biệt hơn là kích chiến tranh, quân sự hóa nền kinh tế. Điều này lại càng thúc đẩy mạnh bởi Keynes quá đề cao vai trò của nhà nước trong việc can thiệp vào đời sống kinh tế. => Điều đó làm gia tăng xu hướng xu hướng phê phán lí thuyết của ông. 3. NGUYÊN NHÂN ĐƯA ĐẾN NHỮNG HẠN CHẾ CỦA KEYNES Ngay từ đầu trong cách tiếp cận vấn đề của Keynes, ông đã xuất phát và đi thẳng vào quan điểm giá cả, tiền lương ổn định, cứng nhắc, không có sự biến động. Theo quan điểm của Keynes, các chính sách tiền tệ và tài khóa có thể thay thế cho giá cả tiền lương linh hoạt, kích thích nền kinh tế trong thời kì suy thoái, làm giảm tổng cầu trong thời gian khủng hoảng kinh tế, nhằm ngăn chặn các xu hướng lạm phát. Những người thuộc trường phái Keynes tin tưởng rằng: chính phủ có thể tác động đến hoạt động kinh tế thực sự, bằng cách thi hành các chính sách tiền tệ hay tài khóa nhằm thay đổi tổng cầu trong hoạt động kinh tế bị đình trệ. Hoăc kìm chế chi tiêu trong thời kì lạm phát. Khi chi tiêu chính phủ tăng, giảm thuế hay tăng cung tiền, tất cả đều tạo sẩn phẩm hơn và vì vậy khuyến khích đầu tư. Trong khi thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Thị trường không đứng yên, nó không ngừng biến động giữa hai đại lượng cung và cầu hàng hóa. Khi cung không đổi mà cầu lại tăng thì lẽ đương nhiên giá hàng hóa sẽ phải tăng hay khi cung tăng cầu không đổi, giá hàng hóa sẽ giảm xuống. Các sự tác động ấy sẽ kéo cung- cầu về vị trí cân bằng, ổn định nền kinh tế. Về vấn đề tiền lương, khi cung hàng hóa tăng các nhà sản xuất cần một lượng lớn sức lao động, lúc này tiền lương sẽ tăng. Ngược lại, khi cung hàng hóa giảm làm giảm cầu về nguồn lao động dẫn tới tiền lương giảm. Nhưng đấy là sự điều tiết khách quan của thị trường mà Keynes đã không nhìn ra khi quá kì vọng vào bàn tay nhà nước. IV. SỰ VẬN DỤNG LÍ THUYẾT CỦA KEYNES TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 1. TÌNH HÌNH KINH TẾ NƯỚC TA NHỮNG NĂM QUA Một đặc điểm quan trọng của Việt Nam là chúng ta chuyển sang kinh tế thị trường từ một nền kinh tế hậu chiến, tuân theo mệnh lệnh và kế hoạch hóa. Chính vì thế khi chuyển đổi Việt Nam thiếu rất nhiều kinh nghiệm trong điều hành kinh tế vĩ mô thông qua các chính sách kích thích động cơ của các chủ thể kinh tế. Theo thời gian, tính thị trường của nền kinh tế ngày càng phát triển, thì vai trò nhận thức nền kinh tế càng trở nên cấp thiết, Xét trên lĩnh vực chính sách kinh tế, mặc dù không có sự đồng thuận rõ ràng nào về một trường phái kinh tế theo đúng nghĩa đen của cụm từ này nằm sau các chính sách của Việt Nam sau 20 năm qua, nhưng dường như đã có một dạng thô sơ của chủ nghĩa Keynes trong các chính sách kinh tế của Việt Nam trong đó có các lí thuyết về tiền tệ và giá cả. Có hai lí do thực tế để đất nước ta theo chủ nghĩa Keynes đấy là. Thứ nhất: Những nhà chính sách có ảnh hưởng lớn nhất trong giai đoạn đầu đều là những người được đào tạo trong thời kế hoạch hóa, do đó họ tìm thấy ở kinh tế học trường phái Keynes một chỗ dựa khá thân quen và dễ chịu cho những gợi ý chính sách của mình. Thứ hai nền kinh tế Việt Nam được đặc trưng bởi vai trò chi phối của nhà nước ngay từ những ngày đầu chuyển đổi( Và cho đến tận bây giờ), đã trở thành "một mảnh đất màu mỡ" cho các loại chính sách can thiệp, xuất hiện và tồn tại vững chắc. Hai nhân tố trên tự hỗ trợ và tự tái tạo lẫn nhau. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây nhà nước ta quy định giá cả thu mua nông sản của nông dân, giá cả đối với tất cả các loại hàng hóa, vật tư nguyên liệu, nhiên liệu là đầu vào của sản xuất nên giá cả của hàng hóa luôn luôn cứng nhắc không biến đổi, và quản lí, phân phối các loại hàng hóa này thông qua một hệ thống các cơ quan cung ứng vật tư của nhà nước. Giá cả hàng hóa nói chung đều do nhà nước quy định và phân phối bằng tem phiếu và thông qua hệ thống mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán gọi là thị trường có tổ chức. Cơ chế giá cả đó đã làm cho nền kinh tế mang tính hiện vật, hạn chế tác dụng của các quy luật kinh tế thị trường và làm giảm hiệu quả kinh tê, dẫn tới tất yếu nền kinh tế giai đoạn này trì trệ, kém phát triển. Chính vì vậy nhà nước thi hành chính sách một giá kinh doanh, cuộc cải cách giá cả được thực hiện căn bản trong những năm 1987-1990: cụ thể là: + Xóa bỏ cơ chế định giá nông sản bán theo nghĩa vụ đối với nông dân. Nông dân sau khi hình thành nghĩa vụ về thuế, có quyền tự do bán sản phẩm trên thị trường. Năm 1987-1988, nhà nước dùng vật tư đổi lấy nông sản hoặc mua bằng tiền mặt theo khung giá do Trung ương chỉ đạo (giá mua nông sản đã được tăng lên). Đến năm 1988 nhà nước quy định khung giá cho toàn bộ cơ chế và giá mua bán nông sản đã do thị trường quyết định. + Điều chỉnh giá bán lẻ hàng tiêu dùng và dịch vụ những năm 1986-1988 được thực hiện theo chính sách hai giá: giá cung cấp những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu theo quy định của nhà nước. Có phân biệt nhóm các hàng tiêu dùng quan trọng theo khung giá chỉ đạo của nhà nước (vẫn tồn tại tình trạng giá hàng hóa là cứng nhắc). Sự định giá linh hoạt ở chỗ giá điều chỉnh phù hợp với từng vùng miền. + Giá vật tư cung ứng của nhà nước được điều chỉnh tăng dần theo sự điều chỉnh giá mua nông sản và giá vật tư nhập khẩu. Thực hiện chính sách hai giá dối với một số vật tư xây dựng nhưng tới năm 1990 đã đưa về một giá chung. => Quá trình cải cách giá cả góp phần thúc đẩy phân phối và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả hơn. Song nó cũng thúc đẩy mức giá chung tăng đột biến, Siêu lạm phát kéo dài những năm 1986-1988. Thời gian gần đây nhà nước ta đang thúc đẩy quá trình lưu thông tiền tệ trên thị trường bằng hàng loạt các chính sách khuyến khích người dân sử dụng hệ thống thanh toán tín dụng bằng thẻ tín dụng, gửi tiết kiệm,...để hạn chế khối lượng tiền mặt trên thị trường. Ngoài ra cũng nhằm mục đích tích tụ khối lượng lớn tiền trong hệ thống các ngân hàng cho các nhà sản suất vay vốn đầu tư thúc đẩy sản xuất. Mặt khác điều mà bất cứ ai tam gia vào vòng xoáy của đồng tiền đều nhạn ra vai trò của hệ thống ngân hàng có tầm rất quan trọng trong nền kinh tế. Dể làm rõ ván đề sau đây ta đi tim hiểu tình hình họat động của các ngân hàng nước ta những năm qua: - Về chính sách tài chính tiền tệ Về thu ngân sách, trước đây ngân sách nhà nước chủ yếu dựa vào thu quốc doanh, từ cuối năm 1987 nhà nước ta bắt đầu sửa đổi một số loại thuế (tăng thuế): thuế môm bài , thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế hang hóa …Dần dần những nguồn thu từ thuế này đã làm cho ngân sách nhà nước tăng vọt. Ngoài ra nhà nước ta còn ban hành và sửa đổi, bổ xung thêm nhiều luật thuế mới như: thuế xuất nhập khẩu, luật thuế doanh thu, luật thuế tiêu thụ đặc biệt luật thuế sử dụng đất nông nghiệp -> nguồn thu từ thuế dần thay đổi cho nguồn thu quốc doanh. Về sử lí thâm hụt ngân sách, trong những năm 1981-1985 ngoài nguồn viện trợ và vay vốn từ nước ngoài (chiếm 65%) ngoài ra nhà nước ta còn chủ trương in và phát hành thêm tiền (chiếm 30%). Đến giai đoạn 1986-1990 thâm hụt ngân sách vẫn rất lớn vì chính sách "bù giá vào lương", nhưng do nguồn viện trợ và vay nợ nước ngoài giảm xuống nên nhà nước lại càng tăng cường việc in và phát hành thêm tiền làm cho khối lượng tiền mặt đi vào lưu thông tăng đột biến lên tới mức 61%. Chính sách đó đã dẫn tới tình trạng lạm phát nghiêm trọng, trong thời kì đó lạm phát đã lên tới mức 3 con số (890%). -Về hệ thống ngân hàng và lưu thông tiền tệ: Ngân hàng nhà nước để thực hiện cung ứng tiền tệ và cân đối cung cầu tiền tệ đã vận dụng và từng bước hoàn thiện hàng loạt các công cụ như: Dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, hoạt động thị trường mở, lãi suất, hạn mức tín dụng …Nhờ vào hoạt động của ngân hàng mà nước ta đã chặn đứng được cuộ siêu lạm phát ba con số thời kì 1987-1989 và cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997 diễn ra ở châu á. Sau đây ta đi phân tích và xem xét hiện trạng của việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở nước ta trong những năm qua trong hệ thống các ngân hàng: Thứ nhất về chính sách tài chính tín dụng: Ngân hàng nhà nước đã quy định "Ngân hàng nhà nước quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc ít nhất ở mức 10% và nhiều nhất ở mức 35% trên toàn bộ tiền gửi ở các tổ chức tín dụng. Trong thời gian đầu, tuy pháp lệnh ngân hàng đã quy định như trên nhưng thực tế trong một thời gian dài, tỷ lệ 10% được ổn định một cách cố định, mặc dù chính sách tín dụng từ năm 1989 đến nay đã trải qua nhiều thời kỳ khác nhau theo chủ trương lúc thì thắt chặt, lúc thì nới lỏng (nhằm kiểm soát lạm phát). Nghĩa là việc thực hiện đưa tiền vào lưu thông điều khiển khối lượng tiền lưu thông luôn được thực hiện theo những dự kiến nhất định, bằng những công cụ khác nhau. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc vẫn được thực hiện với một tỷ lệ cố định. Đầu năm 1994, Ngân hàng trung ương đã có quy định bổ sung : tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi không kỳ hạn là 13%, đối với loại tiền gửi là 7% nhưng cũng là để thi hành cho một thời gian dài. Sự ổn định như vậy đã nói lên rằng, ở nước ta vào thời kỳ này mới bước đầu sử dụng công cụ này , nên chưa có khả năng điều khiển nó một cách linh hoạt theo tình hình tiền tệ luôn biến động trong lưu thông, nên chưa thực hiện đầy đủ vai trò điều khiển khối lượng tiền lưu thông hạn chế bội số tín dụng của các Ngân hàng thương mại như chức năng vốn có của công cụ này. Đặc biệt ở năm 1991-1992 các ngân hàng quốc doanh ngoài số vốn dự trữ tối thiểu theo luật định còn có một lượng vốn tiền gửi khá lớn taị Ngân hàng trung ương. Điều này trong một chừng mực nhất định đã vô hiệu hoá công cụ dự trữ bắt buộc vì như vậy khi nâng cao hay hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì hầu như cũng chẳng ảnh hưởng gì đến khả năng thanh toán và khối lượng tín dụng cung ứng. Mặt khác một số vấn đề tồn tại về mặt nghiệp vụ và tổ chức thực hiện dự trữ bắt buộc đã giảm tính chất nhaỵ cảm của công cụ. Tuy nhiên, thời gian qua Ngân hàng nhà nước cũng đã sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc nhằm mục tiêu góp phần điều hành chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và đã đạt được một số kết quả nhất định trong việc kiểm soát lạm phát ở mức thấp. Vấn đề cần đặt ra là phải nghiên cứu nội dung của luật ngân hàng nhà nước nhằm đưa ra quy chế dự trữ bắt buộc phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ giai đoạn mới trong đó mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế cũng như kiểm soát lạm phát là quan trọng nhất. Thứ hai về tái chiết khấu: Tái chiết khấu là một công cụ khá nhạy cảm trong quá trình điều hành khối lượng tiền tệ. Nhưng trong thực tế ở nước ta những năm qua do thừa hưởng tiềm thế của một nền lưu thông trong đó không được phép tồn tại tín dụng thương mại, vì vậy chưa có các công cụ truyền thống trực tiếp để thực hiện việc chiết khấu và tái chiết khấu như các loại kỳ phiếu, thương phiếu... Luật thương mại nước ta mới được công bố và từ ngày 1-1-1998 mới có giá trị thi hành, bởi vậy nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu của ngân hàng thương mại chưa được quy định. Do đó việc tái chiết khấu được thực hiện dựa trên căn cứ các chứng từ do ngân hàng thương mại đã cho vay, nhưng chưa đến hạn các doanh nghiệp phải trả nợ lãi. Căn cứ vào chứng từ đó ngân hàng nhà nước cho các ngân hàng thương mại vay lại những khoản nợ mà các ngân hàng thương mại đã cho các doanh nghiệp vay. Một mặt ngân hàng trung ương còn thực hiện phương thức "mua lại" các dự án đã được các ngân hàng thẩm định trước khi đầu tư nhưng ngân hàng thương mại không đủ vốn. Trong thời gian qua do chưa có những công cụ nghiệp vụ để thực hiện công cụ lãi suất tái chiết khấu nên ngân hàng nhà nước Việt Nam đã sử dụng hình thức cho vay cầm cố. Hình thức này được thực hiện bằng cách, các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng đem một số loại giấy tờ có giá trị đến ngân hàng trung ương làm vật thế chấp để vay tiền. Loại tín dụng này nhằm giải quyết khó khăn tài chính tạm thời cho các ngân hang thương mại. Hình thức mua lại các dự án đầu tư tái cấp vốn theo hình thức cho vay thế chấp một thời gian dài là công cụ thay thế cho thương phiếu và kỳ phiếu . Những hạn chế của công cụ tái chiết khấu ở nước ta trong thời gian qua đó là tất yếu trong thời kỳ đầu chuyển sang kinh tế thị trường . Tuy nhiên cùng với các công cụ khác của chính sách tiền tệ công cụ tái chiết khấu (chưa hoàn thiện) đã góp phần đưa tỷ lệ lạm phát ở nước ta từ mức 3 con số ở các năm trước xuống mức 1 con số ở năm 1993. Thứ ba: về hoạt động thị trường mở Đây là một trong những công cụ quan trọng được ngân hàng thương mại các nước sử dụng để điều hành có hiệu quả chính sách tiền tệ. Thậm chí một số ngân hàng coi đây là công cụ sắc bén nhất trong các hoạt động của mình. Nhưng ở Việt Nam, nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp gồm suốt 4 thập kỷ qua, phù hợp với cơ chế đó ngân hàng nhà nước Việt Nam không thể sử dụng các công cụ gián tiếp (dự trữ bắt buộc, thị trường mở, lãi suất tái chiết khấu) để điều hành chính sách tiền tệ. Công cụ đó chỉ có thể và trên thực tế bước đầu đã phát huy tác dụng khi hệ thống ngân hàng Việt Nam đã thực sự đổi mới. Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định "ngân hàng nhà nước thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc mua bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu ngân hàng nhà nước và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Quy định trên về mặt phương diện pháp lý luật ngân hàng nhà nước Việt Nam đã mở ra cho công cụ thị trường mở một lối đi khá thông thoáng, không bị ức chế bới khía cạnh nào. Thực tế lại cho thấy vốn nằm trong các dịnh chế tài chính còn khá nhiều nhưng cho vay ra thì đang gặp không ít những rủi ro. Chính vì vậy các định chế tài chính quay trở lại mua tín phiếu kho bạc để đảm bảo an toàn và chống lỗ. Tuy nhiên do thị trường đấu thầu chỉ bán tín phiếu kho bạc có kỳ hạn một năm nên không tạo ra công cụ tiền tệ để thúc đẩy sự ra đời của hoạt động thị trường mở của ngân hàng trung ương. Chúng ta có thể thấy rằng nghiệp vụ thị trường mở là yếu tố tác động quyết định nhất đến những biến động trong cung ứng tiền tệ, làm thay đổi cơ sở tiền tệ trên thị trường. Chính vì vậy đây là công cụ hữu hiệu trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế. Thứ tư: về lãi xuất Trước năm 1933, hệ thống ngân hàng ở Việt nam là hệ thống ngân hàng một cấp, về thực chất nó là một bộ phận của ngân sách nhà nước. Mối quan hệ của ngân hàng với kinh tế ngoài quốc doanh và với dân chúng là hạn chế : khi ngân sách nhà nước thâm hụt, các ngân hàng phát hành thêm tiền để bù đắp. Khi các Doanh nghiệp nhà nước thiếu vốn thì ngân hàng phát hành tiền cho vay tín dụng. Vì vậy dẫn tới lạm phát trầm trọng tới mức 3 con số (trong thời kỳ này ngân hàng đã áp dụng chính sách lãi suất cho vay nhỏ hơn lãi suất tiền gửi và nhỏ hơn tốc độ trượt giá). Đây là sự bất hợp lý, cho nên không huy động được vốn trong dân và làm cho hệ thống ngân hàng tê liệt) Tháng 3 năm 1988, đánh dấu bước ngoặt cơ bản trong chính sách tiền tệ ở Việt nam bằng nghị định 53 vào tháng 5/1990 là việc ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính. Sự hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp cùng với việc áp dụng chính sách lãi suất đã góp phần rất cơ bản vào việc kiềm chế lạm phát những năm sau đó. Vào đầu năm 1989, chính phủ đã quyết định thay đổi một cách cơ bản chính sách lãi suất. Quyết định số 39/HĐBT ngày 10/4/1989của HĐBT đưa ra các nguyên tắc cơ bản để xác định lãi suất tiền gửi và cho vay của NHNN. Các nguyên tắc đó là: - Lãi suất áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế và được điều chỉnh theo sự biến động của chỉ số giá cả trên thị trường xã hội. - Mọi nguồn vốn mà ngân hàng huy động để cho vay đều được hưởng lãi, mọi khoản vốn ngân hàng cho vay đều phải thu lãi. - Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi bình quân 0,6% tháng. - Trong cơ cấu lãi suất tiền gửi và cho vay phải bao gồm lãi suất cơ bản (lãi suất thực dương) và chỉ số trượt giá của thị trường xã hội. Cụ thể từ giữa tháng 3-1989 đã đưa lãi suất tiền gửi tiết kiệm lên cao hơn chỉ số lạm phát hàng tháng. Tháng 1 và tháng 2 năm 1989 chỉ số giá chỉ tăng hơn 7,4% và 4,2% nhưng lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng và không có kỳ hạn đã được mạnh dạn đưa lên 12% và 9% mỗi tháng . Biện pháp lãi suất thực dương này lần đầu tiên được thực thi đã phá vỡ sự trì trệ của các kênh thu hút tiền thừa trong dân và khắc phục căn bản sự tê liệt của chính sách lãi suất cần ổn định từ năm 1985 đến quý I năm 1989. Số dư tiền tiết kiệm tăng lên nhanh chóng ngay tháng đầu, quý đầu. áp dụng chính sách này ngay lần đầu đã giảm lạm phát một cách nhanh chóng (cũng bất lợi và khó khăn đó là chỉ 3 tháng sau đã trở thành thiểu phát. Tháng 6/1992. Ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh lãi suất theo hướng : - Đảm bảo lãi suất dương, tức là lãi suất cho vay không thấp hơn lãi suất huy động bình quân. - Ngân hàng nhà nước chỉ quy định mức lãi suất cho vay tối đa và mức lãi suất tiền gửi tối thiểu, còn mức lãi suất cụ thể sẽ do các ngân hàng thương mại quyết định. - Xoá bỏ cơ chế nhiều mức lãi suất phân biệt theo thành phần kinh tế cũng như theo các loại hình doanh nghiệp , thực hiện chính sách lãi suất bình đẳng đối với tất cả các thành phần kinh tế . Đây là bước cải tiến cơ bản theo hướng từng bước tự do hoá lãi suất. Trong những năm tiếp theo biện pháp chủ yếu để kiểm soát cung ứng tiền tệ (qua đó kiểm soát được lạm phát) là nâng cao lãi suất bằng biện pháp hành chính lên mức cao, thực hiện thắt chặt tín dụng cấp cho khu vực kinh tế quốc doanh và ngân sách nhà nước. Ngoài ra nhà nước không ngừng đưa ra các chính sách khác áp dung cho lãi xuất tiền tệ. Thành quả lớn nhất mà cơ chế lãi suất trần mang lại chính là đã tạo ra các cơ hội giảm chi phí một cách bình đẳng đối với mọi thành phần doanh nghiệp , tăng cường thêm động lực cho guồng máy kinh tế cũng như góp phần kiềm chế tốt tốc độ lạm phát. Qua thực tiễn cho thấy, trong những năm gần đây chính sách lãi suất của ngân hàng nhà nước đã được sử dụng như một công cụ quan trọng góp phần tăng trưởng và ổn định thúc đẩy kinh tế phát triển không ngừng. => Chính sách tiền tệ đã góp phần quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát cũng như ổn định kinh tế thị trường ở Việt Nam những năm qua. Nhưng đứng trước nguy cơ có thể dẫn tới tái lạm phát (tuy rằng tỷ lệ lạm phát năm qua rất thấp 3,6%), việc hoàn thiện hơn nữa chính sách tiền tệ trong điều kiện hiện nay là cần thiết. Ngoài ra những năm gần đây nhà nước ta luôn không ngừng thực hiện những chính sách nhằm thúc đẩy sản xuất, cung ứng việc làm cho người dân, hoàn thiện và nâng cao đời sống cho người dân...như cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi xuất thấp, ra luật thuế thu nhập cá nhân, gia tăng các phúc lợi xã hội, bảo hiểm xã hội...Chính vì vậy trong thời gian này sản xuất không ngừng phát triển, đời sống người dân ngày càng được nâng cao. 2. GIẢI PHÁP HOÀN THÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM Để hoàn thiên chính sách tiền tệ chúng ta phải biết hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ cũng như phối hợp điều hành các công cụ đó. a. Dự trữ bắt buộc. Công cụ dự trữ bắt buộc có ưu điểm lớn trong việc kiểm soát cung tiền tệ là nó có thể tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và có tác dụng đầy quyền lực đến cung ứng tiền tệ. Tuy vậy, khi mà dự trữ bắt buộc không được trả lãi, chúng tương đương với một khoản thuế và có thể dẫn tới tình trạng phi trung gian hoá hơn nữa, dự trữ bắt buộc thiếu tính mềm dẻo, hoặc những thay đổi lớn và thường xuyên ở mức dự trữ cũng sẽ gây nên hỗn loạn và tổn thất cho các ngân hàng thương mại. Nhưng trước tình trạng lạm phát thấp như hiện nay cần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Bởi vì nhu cầu vốn của nền kinh tế khá lớn, nhưng khả năng huy động vốn hạn chế, cho nên việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong giai đoạn này sẽ hỗ trợ thêm nguồn vốn cho các tổ chức tín dụng cho vay nền kinh tế. Mặt khác sự gia tăng tổng phương tiện thanh t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuan điểm của Keynes về lí thuyết tiền tệ và giá cả, ứng dụng của lí thuyết đó tại Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan