MỤC LỤC
Nội dung Trang
Mở đầu 1
I. Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện 2
1. Khái niệm 2
2. Nội dung của quan điểm toàn diện 4
II. Đường lối giáo dục của Đảng ta 5
III. Yêu cầu của toàn diện trong học tập của sinh viên 10
1. Tính tất yếu, khách quan 10
2. Thế nào là học toàn diện 11
3. Lợi ích của việc học toàn diện 12
IV. Những biểu hiện trong học tập của sinh viên hiện nay 13
1. Biểu hiện 13
2. Nguyên nhân 15
3. Phương hướng và giải pháp 16
Kết luận 21
Tài liệu tham khảo 22
Mục lục 23
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2120 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan điểm giáo dục toàn diện và cách học tập toàn diện của sinh viên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tình cảm trong sáng. Cần hiểu rằng chỉ có thể tăng trưởng nguồn lực con người khi quá trình hiện đại hoá các ngành giáo dục, văn hoá văn nghệ, bảo vệ sức khỏe gắn liền với việc kế thừa và phát huy truyền thống, vừa phát triển, vừa hoà nhập chứ không hoà tan.
a. Trong những năm vừa qua, mặc dù có nhiều khó khăn nhưng ngành giáo dục - đào tạo đã đặt được những thành tựu khá rực rỡ.
Hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non đến đại học được xác lập, mạng lưới trường học phát triển rộng khẳp trong cả nước. Giáo dục mầm non đã từng bước được khôi phục sau sự tan rã của việc xuất hiện cơ chế thị trường, sách giáo khoa giáo dục phổ thông được thống nhất. Công tác phổ cập tiểu học có nhiều tiến bộ. Hệ thống trường chuyên lớp chọn tuy không còn duy trì, nhưng chất lượng đào tạo ở phổ thông vẫn tăng cao và toàn diện về mọi mặt.
Ngành dạy nghề đã trở thành một bộ phận quan trọng của hệ thống giáo dục quốc dân, bao gồm các trường dạy nghề chính quy và không chính quy. Ngành đại học và trung học chuyên nghiệp đã bắt đầu tổ chức lại quá trình đào tạo, đa dạng hoá phương thức đào tạo. Công tác sau đại học đẩy mạnh, công tác quản lý giáo dục đã và đang đổi mới và hoàn thiện. Kết cấu cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật được nâng cấp và phát triển đầy đủ.
Những kết quả đạt được trên đây của ngàh giáo dục - đào tạo thể hiện sự nổ lực của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, sự cố gắng của học sinh, sinh viên, sự lãnh đạo quản lý của các cấp uỷ đảng, chính quyền các đoàn thể và sự đóng góp to lớn của nhân dân.
b. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của đất nước, nền giáo dục của ta còn nhiều yếu kém.
Nhiệm vụ bồi dưỡng nhân tài chưa được chú trọng đúng mức. Chất lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp. Trình độ văn hoá, nghề nghiệp, năng lực thực hành, hiểu biết về xã hội, nhân văn của học sinh, sinh viên còn yếu, kể cả về chính trị, xã hội. Thể lực học sinh, sinh viên giảm sút. Số học sinh sinh viên khá, giỏi và xuất sắc có tăng lên, nhưng học sinh yếu kém, chất lượng thấp lại tăng nhanh hơn. Con người được đào tạo thường thiếu năng động, chậm thích nghi với nền kinh tế - xã hội đang đổi mới. Sinh viên tốt nghiệp thường khó tìm việc làm. “Quy mô giáo dục nhỏ bé, nhất là vùng sâu, vùng xa. Đại bộ phận đội ngũ giáo viên chưa được đào tạo và bồi dưỡng tốt, bất cập với yêu cầu toàn diện của giáo dục. Đời sống giáo viên thiếu thốn, truyền thống tôn sư trọng đạo bị phai mòn. Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân còn bất hợp lý. Cơ sở vật chất cho giáo dục còn nghèo nàn lạc hậu ” ( Trần Hồng Quân - Thực trạng và giải pháp cho giáo dục và đào tạo - bài viết tại Đại hội TW4).
Công tác quản lý chưa hợp lý, chuyển biến chậm, sự phân công, phân cấp trách nhiệm, quyền hạn giữa các ngành, các cấp chưa hợp lý, sử dụng nguồi vốn cho giáo dục thiếu hiệu quả.
c. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng yếu kém và giảm sút nói trên là:
- Bản thân ngành giáo dục chậm đổi mới về cơ cấu hệ thống, mục tiêu, nội dung và phương pháp, chưa làm tốt chức năng tham mưu và trách nhiệm quản lý của nhà nước.
- Các cấp uỷ đảng, các cơ quan nhà nước chưa quan tâm thực sự đến giáo dục. Kinh tế chậm phát triển, ngân sách nhà nước giành cho giáo dục còn có hạn, dân số tăng nhanh, gây nhiều khó khăn lớn cho sự phát triển giáo dục.
d. Chính vì vậy, để phát triển đường lối giáo dục toàn diện ở nước ta, Đảng và nhà nước ta đã đưa ra nhiều quan điểm biện pháp để chỉ đạo và thực hiện:
1. Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo đã được đại hội Đảng VIII xem là quốc sách hàng đầu. Đó là một động lực thúc đẩy và là một điều kiện cơ bản bảo đảm việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. Phải coi đầu tư và phát triển cho giáo dục là đi trước một bước, xác định đầu tư cho giáo dục là đầu tư có lợi vô thời hạn. Huy động toàn bộ xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của nhà nước. Luật giáo dục được quốc hội thông qua năm 1999, tạo cơ sở cho việc đưa sự nghiệp giáo dục phát triển lên một bước mới.
2. Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu chủ nghiã xã hội, sống lành mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Phải mở rộng quy mô, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, gắn với học hành, tài với đức, xây dựng một đội ngũ cán bộ tương lai “vừa hồng, vừa chuyên”.
3. Giáo dục phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Thực hiện một nền giáo dục thường xuyên cho mọi người, xác định học tập suốt đời là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi công dân.
4. Đa dạng hoá các hình thức đào tạo. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Người đi học phải đóng học phí, người sử dụng lao động qua đào tạo phải đóng góp chi phí cho đào tạo, Nhà nước có chính sách đảm bảo cho người nghèo và các đối tượng chính sách đều được đi học.
5. Mở rộng hợp lý và kết cấu quy mô giáo dục, đào tạo cho mọi cấp học. Phát triển giáo dục nghề nghiệp, từng bước hình thành nền giáo dục nghề nghiệp trong xã hội, đào tạo lực lượng công nhân làng nghề bậc cao.
6. Mở rộng hợp lý quy mô dào tạo đại học. Phát triển hệ cao học, đẩy mạnh đào tạo nghiên cứu sinh.
7. Xác định lại mục tiêu, thiết kế lại chương trình, kế hoạch nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo cụ thể của từng bậc học, ngành học.
8. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ nghiên cứu những vấn đề về khoa học, giáo dục phục vụ cho mục tiêu phát triển sự nghiệp giáo dục.
9. Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện.
10. Đồng thời đổi mới quản lý giáo dục và đào tạo. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với sự nghiệp giáo dục, quán triệt sâu sắc nghị quyết này trong Đảng, trong các cấp. Nhằm phát huy toàn diện phục vụ cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Trong những năm qua, nước ta đã thực hiện đường lối giáo dục toàn diện, tuy gặp rất nhiều khó khăn, nhưng cũng đạt được nhiều kết quả trong những biểu hiện cụ thể, những chính sách cụ thể đối với giáo dục - đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học.
Chính sách học bổng dành cho những sinh viên có điểm trung bình học kỳ cao, không có môn nào điểm dưới 5. Có thể nói đây là biện pháp tối ưu để khuyến khích người học: học đều các môn, chú trọng vào việc học của mình.
Việc cộng điểm cho những sinh viên, học sinh có đề tài nghiên cứu khoa học xuất sắc, thiết thực cũng là biện pháp cho người học đi sâu hơn vào chuyên ngành và lĩnh vực mà họ yêu thích, tạo điều kiện cho người học đi vào nghiên cứu khoa học một cách rất tự nguyện và thoải mái, được đưa ra những ý kiến của cá nhân mình, phát triển toàn diện tư duy trí óc.
Cho sinh viên nghèo được vay tiền đóng học, tạo điều kiện cho sinh viên nghèo, hoặc diện chính sách được cơ hội ăn học trong những lúc khó khăn và đến khi nào làm được tiền thì trả số tiền đã vay trong lúc học.
Tăng lương cho giáo viên, tạo điều kiện để các giảng viên yên tâm nghiên cứu và giảng dạy, nâng cao chất lượng dạy và học.
Đảng và nhà nước ta đã đầu tư cho giáo dục hơn 15% tổng ngân sách cho giáo dục- đào tạo, phát triển mọi mặt cho giáo dục như trang thiết bị kỹ thuật, đồ dùng học tập, cơ sở hạ tầngv.v..
Nói tóm lại, đường lối giáo dục toàn diện ở nước ta là một yêu cầu bức bách, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Mọi công dân, mọi tổ chức xã hội, mọi hoạt động đều phải quan tâm đến giáo dục. Đó là quan điểm đúng đắn và xác thực nhất đối với tình hình hiện nay.
Như đã nói ở trên, tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội khoá X, đã xem xét và thông qua luật giáo dục, điều này đã đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của giáo dục hiện nay. Luật giáo dục đã xây dựng trên cơ sở những kinh nghiệm rút ra từ 50 năm xây dựng, phát triển vào đổi mới nền giáo dục, đồng thời dựa vào những ý kiến đóng góp xây dựng luật của các ngành, các cấp và của nhân dân, trong đó có sinh viên và học sinh.
Luật giáo dục xây dựng các định chế bảo đảm để sự nghiệp giáo dục, thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo con người theo định hướng mà Đảng đã xác định.
Luật giáo dục đưa vào thực thi (6/1999) đã góp phần khắc phục những yếu kém, tăng cường nề nếp kỷ cương trong giáo dục, tiếp tục mở rộng quy mô giáo dục, tăng cường chất lượng và hiệu quả, bảo đảm công bằng về cơ hội học tập, hội nhập thế giới, đáp ứng sự phát triển bền vững của đất nước khi bước sang thế kỷ mới.
Luật giáo dục đã đưa đường lối giáo dục toàn diện của nước ta tiến lên một bước, hoàn thiện hơn, vững chắc hơn, góp phần khẳng định trong toàn diện của giáo dục nước nhà. Đây là lý tưởng và mục đích của toàn Đảng, toàn dân ta.
III. Yêu cầu về học tập toàn diện của sinh viên.
1. Tính tất yếu khách quan:
Trong thời kỳ hiện nay, nước ta đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá, đưa đất nước phát triển bắt nhịp với tốc độ phát triển của toàn cầu. Do đó, nước ta rất cần một đội ngũ lao động, con người có kiến thức, năng động, nhiệt tình góp phần đưa đất nước tiến lên, xứng danh với các nước trên thế giới.
Và đối với bất cứ nước nào sinh viên cũng là một lực lượng xã hội cực kỳ quan trọng. Có thể nói, sinh viên là ưu tú nhất trong thanh niên, là tinh hoa, nguồn lực trí tuệ của đất nước.
Bước vào thế kỷ XXI, trên thế giới, cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển nhanh với trình độ ngày càng cao. Lợi thế so sánh giữa các quốc gia là trí tuệ và tiềm lực của con người, sức mạnh trí tuệ sẽ là yếu tố quyết định chiến thắng trong cuộc cạnh tranh để vươn lên.Vì thế, nguồn lực trí tuệ và tiềm năng con người nói chung, cụ thể là sinh viên,trí thức trẻ nói riêng là tiềm năng, sự tự tin hãnh diện của đất nước.
Trong những năm qua, hệ thống giáo dục đại học, cao đẳng ngày càngphát triển, đặc biệt là về quy mô và phân bố trên khắp cả nước. Số lượng sinh viên không ngừng tăng nhanh, ví dụ như "năm học1997 - 1998, tổng số sinh viên là 700.000 người, tăng khoảng 3,5 lần so với năm 1993" (Theo thống kê của báo giáo dục và thời đại - số 15 - 1999), chưa bao giờ đội ngũ sinh viên lại tăng nhanh như hiện nay. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực tỉ lệ sinh viên của nước ta chưa cao, chất lượng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của đất nước.
Hơn 10 nămqua công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng lãnh đạo thu được những thành tựu to lớn, đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạngkhủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ phát triển mới: Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nhưng trình độ dân trí nước ta còn thấp, giữa các vùng các miền còn quá chênh lệch. Vì vậy, sinh viên là trí thức trẻ tương lai, là lực lượng trông cậy trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước
Đồng thời, sinh viên là lực lượng chính trị-xã hội quan trọng, là lực lượng trẻ, khoẻ, có trình độ cao, nhạy bén với thời cuộc. Sinh viên là nguồn bổ sung to lớn cho đội ngũ tri thức trẻ, những người tiên phong nòng cốt trong cuộc cách mạng khoa học và công nghệ.
Sinh viên là lực lượng kiến tạo công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đặt ra yêu cầu rất cao đối với lao động trí thức.
Ngoài ra, tầng lớp sinh viên hiện nay có những biểu hiện thiếu toàn diện, không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đề ra.
Chính vì vậy, sinh viên phải tìm cách khắc phục và hoàn thiện chính mình, mà học toàn diện sẽ làm cho sinh viên có nhận thức và khả năng toàn diện về mọi mặt, mọi lĩnh vực. Điều đó đã đáp ứng được sự đòi hỏi của đất nước cũng như xứng đáng vai trò là lực lượng nòng cốt, cán cân trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Do đó việc học toàn diện trong sinh viên là một tất yếu khách quan.
2. Thế nào là học toàn diện.
Việc học toàn diện có thể nhìn từ nhiều góc độ như sau:
a. Toàn diện đối với môn học, tức là sinh viên phải nghiên cứu mọi mặt, bộ phận, cấu tạo và các khâu liên quan tới môn học đó. Lúc này, sinh viên sẽ hiểu sâu sắc hơn về bản chất của môn học đó qua các phần có liên quan đối với môn học đó.
b. Toàn diện trong các môn học, tức là sinh viên trong quá trình học, không phải nghiên cứu duy nhất một môn học, một môn học chuyên ngành nào; mà phải nghiên cứu toàn bộ tất cả các môn. Vì tất cả các môn học đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó với nhau, chúng vừa là tiền đề, vừa là móc xích để cấu tạo nên nhau. Môn học này quyết định môn học kia, môn học kia bổ xung cho môn học khác.
c. Toàn diện trong các khâu học tập: từ việc nghe giảng tiếp thu, tư duy, tự học, ôn tập cho đến thi thì tất cả diều đó là một quá trình, một quá trình toàn diện. Tức là chúng ta phải nghe các thầy cô giáo giảng trên lớp để tiếp thu tư duy về kiến thức mà do thầy cô truyền đạt về các môn học. Đồng thời, sinh viên phải kết hợp việc nghiên cứu, tự học hỏi để nắm vững kiến thức trên lớp và mở mang kiến thức ra rộng hơn và sâu hơn về các môn học. Khi ôn tập, phải có phương pháp nắm lại toàn bộ nội dung các môn học theo hệ thống (đây là khâu quan trọng của toàn diện) để khi thi có kiến thức và tập trung cao độ, suy nghĩ mang lại kết quả cao. Điều này không đồng nghĩa với việc thụ động trong việc học tập của sinh viên mà nó đòi hỏi sự tự giác, kiên nhẫn và sáng tạo của mỗi người.
d. Toàn diện trong học tập với vui chơi-với các hoạt động xã hội. Học toàn diện không phải là chỉ ngồi học trong phòng hay thư viện mà học toàn diện là phải gắn học tập với vui chơi để nâng cao thể chất, tinh thần bổ trợ cho việc học. Có sức khoẻ, có cuộc sống tinh thần thoải mái thì kết quả học tập sẽ rất tốt. Đồng thời học phải gắn với các hoạt động xã hội. Ví dụ như, sinh viên tham gia các hoạt động văn hoá, thể thao mùa hè, “đem ánh sáng văn hoá đến vùng cao”, “tuyên truyền giáo dục” sinh viên là lớp người năng động, kế cận và tiếp sức cho các lực lượng đi trước. Do đó, học đi đôi với hành, học gắn với vui chơi, hoạt động xã hội là toàn diện.
Nói tóm lại, học toàn diện là học tất cả các môn, nhưng phải xác định đâu là môn cơ bản, đâu là môn phụ; môn nào có liên hệ mật thiết hay không mật thiết. Học toàn diện phải kết hợp được cả tri thức, sức khoẻ, tài đức và thực tiễn, phải có lý luận và thực hành. Học toàn diện giúp cho sinh viên toàn diện hơn nhất là đại học đại cương.
3. Lợi ích của việc học toàn diện:
“Khoa học là hệ thống quan hệ hữu cơ với nhau, nó bổ sung, hỗ trợ, làm tiền đề cho nhau. Vì tất cả các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan đều có mối liên hệ phổ biến, do đó tất cả các môn khoa học đều có mối quan hệ biện chứng với nhau. Môn khoa học này sẽ làm tiền đề hay là nguyên nhân của môn khoa học khác. Đôi khi nó không thể tách ra khỏi nhau, nó bổ sung, hỗ trợ cho nhau” (Bí quyết thành công của sinh viên - học sinh-Nxb Trẻ-1996, tr 133). Chính vì thế, khi nghiên cứu khoa học thì chúng ta sẽ được hiểu biết toàn diện về các mối quan hệ của chúng, hiểu đúng và sâu sắc hơn về các môn khoa học mà sinh viên đang nghiên cứu.
Hơn thế nữa, nhờ việc nghiên cứu về những môn khoa học khác nhau mà chúng ta phát triển tư duy một cách toàn diện không méo mó, không phiến diện một chiều. Đồng thời, lại có nhận thức sâu hơn về một môn khoa học, về mặt chủ yếu, cơ bản, khâu trung gian cần thiết của môn khoa học đó. Lúc đó, “hữu tình” chúng ta đã xây dựng nên một con người toàn diện về mọi mặt, bởi “khoa học và cuộc sống là lôgíc hình thức của nhau” (Tristan Bernard - Khoa học và đời sống, Nxb Đồng Nai, tr 92).
Lợi ích của học toàn diện làm nền tảng cơ sở cho các môn khoa học chuyên ngành. Bởi bất cứ một môn học nào cũng đều bổ sung cho môn học chuyên ngành. Điều đó giúp sinh viên có kiến thức rộng rãi về toàn ngành, không máy móc, phiến diện riêng về ngành mình học, hay một lĩnh vực khoa học.
Bên cạnh đó, việc học toàn diện sẽ cung cấp cho sinh viên về cách sống, giao tiếp với xã hội, nhằm nâng cao và hoàn thiện cuộc sống tinh thần trong sinh viên nói chung và trí thức trẻ qua các lĩnh vực.
Nhưng nếu sinh viên học toàn diện với một môn học thì việc nghiên cứu toàn diện ấy lại mang lại nhiều lợi ích khá bất ngờ:
Trí thức đó thực sự là trí thức đã được nghiên cứu chuyên sâu, nó có thể được đưa ra ứng dụng trong cuộc sống và khả năng thành công là rất lớn. Đồng thời, khi đi sâu nghiên cứu bản chất một vấn đề nào đó ta có thể tìm ra những sai lầm mà thế hệ đi trước đã mắc phải và cũng có khả năng là tìm ra được giải pháp khắc phục những sai lầm ấy, tạo niềm hứng thú, say mê cho người học.
Và học toàn diện gắn liền với các khâu học tập của mỗi cá nhân, gắn với hoạt động vui chơi - hoạt động xã hội sẽ giúp mỗi chúng ta có tính tự giác, năng động, sáng tạo, thông minh và có tinh thần cộng đồng, đoàn kết. Tránh xa được các hiện tượng tiêu cực như ma tuý, trộm cướp, cờ bạc của xã hội. Sống một cuộc sống hoà đồng, vui tươi với tập thể, phát triển toàn diện cả về tư duy và thể chất. Đây là con người đích thực của xã hội công bằng, văn minh mà nước ta đang phấn đấu. Đây cũng là lực lượng, là thế hệ cần thiết của đất nước, là thế hệ cần thiết cho tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà. Sinh viên thực sự trở thành tinh hoa của đất nước. Để thực hiện mục tiêu toàn diện có thể lý giải theo các khía cạnh:
Đức - Trí - Thể - Mỹ
Hồng và Chuyên
Học và hành
Nói tóm lại, lợi ích của việc học toàn diện trong sinh viên học sinh lầ rất lớn. học toàn diện là một quá trình đào tạo nên con người toàn diện, vừa có đức vừa có tài, vừc có tri thức lại không rời xã hội - chính trị xứng đáng là niềm tin của tương lai nước nhà.
IV. Thực trạng của việc học toàn diện trong sinh viên
1.Những biểu hiện về học tập toàn diện của sinh viên:
“ Việc vào đại học không phải là may rủi, không phải hoàn toàn là kết quả của những tháng ngày cặm cụi đèn sách mà còn là kết quả của trí tuệ - sự thông minh” (giáo dục Việt Nam, xu hướng phát triển và những sự khác biệt-H: Thống kê - 1996, tr:133-134). Thế nhưng việc học đại học không phải đơn giản, đó là một “nghệ thuật” của sinh viên. Vì học đại học đồng nghĩa với sự nghiên cứu và thích ứng do đó sinh viên không chỉ miệt mài kinh sử mà còn phải sáng tạo trong quá trình học hỏi của những năm tháng tuổi trẻ, nhằm đáp ứng được nhu cầu mai sau. Và thực tế việc học tập của sinh viên hiện nay đã đạt được nhiều thành quả, tuy nhiên không tránh được những hạn chế sai lầm.
a. Tích cực.
1. Đầu vào của sinh viên các trường đại học có chất lượng ngày càng cao, nhất là các trường sư phạm. Điểm chuẩn vào các trường đại học tăng lên với trước rất nhiều, ví như năm 1999 điểm chuẩn tuyển sinh vào trường sư phạm I-Hà Nội là 28 điểm đối với khoa Hoá, khoa Toán là 24 điểm, trường Thương mại là 18,5 điểm. Điều đó chứng tỏ trình độ của sinh viên ngày càng được chú trọng toàn diện ngay từ ban đầu.
2.Trí tuệ của sinh viên phát triển toàn diện hơn. Trong các cuộc thi, các sân chơi giải trí trên truyền hình ta thấy có nhiều sinh viên, học sinh có sự hiểu biết thật rộng rãi về mọi lĩnh vực trong xã hội từ các môn Toán, Lý, Hoá,Văn, Sử, Địa, Triết, kinh tế đến các vấn đề xã hội như: Lao động tiết kiệm, truyền thống, các tệ nạn xã hội như ma tuý, AIDS trong sân chơi Đường lên đỉnh Olimpia, 7 sắc cầu vồng, SV 96, SV2000. Hay trong các cuộc thi Olimpic quốc tế ta thấy sự xuất hiện của các khuôn mặt trẻ Việt Nam ngày càng nhiều như các giải nhất tin học, toán học. Trong đó có sinh viên lớp cử nhân tài năng Đại học Quốc gia Hà Nội Đỗ Quốc Anh- Huy chương vàng Olimpic toán quốc tế lần thứ 38. Đồng thời, ở tất cả các trường hiện nay đã các cuộc thi Olimpic cho các môn học Triết, Tin, Ngoại ngữ, Lịch sử Đảng nhằm phát huy trình độ của sinh viên và tính toàn diện trong học tập của sinh viên. Có thể nói, toàn bộ sinh viên rất hào hứng đón chờ những cuộc thi này, họ thực sự tìm thấy họ trong cuộc thi đó.
3. Sinh viên ngày càng được đào tạo với chất lượng cao hơn, toàn diện về mọi mặt, trí tuệ cũng như phẩm chất. Chất lượng đào tạo sinh viên tăng, sinh viên học giỏi rất nhiều, tổng kết trên 8,0 tăng, và sinh viên nhận được học bổng ở trong nước và nước ngoài tăng nhanh.
4.Sinh viên ra tiếp cận với cuộc sống ngày càng nhiều, nhạy bén năng động, sáng tạo; hiện tượng sinh viên đi làm thêm để mở mang tri thức và khả năng giao tiếp có chiều hướng tăng như sinh viên các ngành điện tử-tin học, ngoại ngữ xây dựng.
5. Đồng thời sinh viên nhận thức đúng đắn, toàn diện hơn về phương pháp học tập: vừa nghiên cứu, học hỏi vừa áp dụng vào thực tế.
6. Sinh viên Việt Nam ngày càng toàn diện hơn. “Trong số 36 nước có sinh viên học ở AIT, sinh viên Viện Nam được xếp hạng thứ 6 trước năm 1993 và nâng lên thứ 2 (sau ấn Độ) từ năm 1993 đến nay” (Nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học - HN, 1995- b7).
b. Hạn chế.
1.Một thực trạng mà chúng ta nhận thấy dể nhất có lẽ là tình trạng sinh viên học lệch khá nhiều. Đành rằng lên đại học là chúng ta cần đi sâu nghiên cứu những vấn đề trọng tâm, các lĩnh vực chuyên môn. Nhưng, cũng như một cái cây, muốn có cái ngọn có thể phát triển và vươn cao lên được thì nó cũng cần có một bộ rễ thật vững chắc. Chương trình giáo dục toàn diện của Đảng ta yêu cầu phải học tốt (hoặc chí ít cũng nắm được những kiến thức cơ bản) của tất cả các môn khi là học sinh cấp I, cấp II và cấp III. Thế nhưng, thử hỏi xem trong chúng ta có mấy ai là người nắm được toàn bộ những kiến thức ấy? Nhất là trong các trường chuyên ban, nếu theo ban C thì hầu hết là kém ban A và ngược lại. Rồi đến khi bước vào kỳ đại cương của trường đại học cũng vậy. Hầu hết mọi sinh viên lại cho là kiến thức không cơ bản, không phải kiến thức phục vụ cho ngành nghề của mình nên học rất chểnh mảng hoặc đi chăng nữa thì cũng là học máy móc, ép buộc cốt dành lấy học bổng, có thi xong thì quên luôn .
2. Đối lập với tình trạng trên thì lại là sinh viên học tràn man, học liên miên, cái gì cũng học, cũng nghiên cứu. không biết đâu là kiến thức thực sự cần thiết cho mình. ở đây, không phải học nhiều là tốt, là mở mang được tầm nhiều tri thức mà học phải học có trọng điểm, tức là lấy cái nhiều làm nền móng thật vững chắc cho cái ít phát triển. Chúng ta hãy hình dung như khi tiến hành xây một căn nhà chúng ta không thể xây móng như xây tường được, cái nhà như thế sẽ dễ dàng rạn nứt hoặc lún nếu như ta chồng tầng cao. Nhưng nếu chúng ta đã có một cái móng nhà thật vững chắc thì bạn cứ yên tâm mà xây cái tầng cao bao nhiêu tuỳ khả năng của chúng ta. Cái móng vững chắc ấy chính là 12 năm học phổ thông mà mọi sinh viên đã qua cộng với kỳ đại cương trên đại học, còn những cái tầng ấy đang chờ khả năng của từng người.
3. Đồng thời phương pháp học của sinh viên chúng ta hiện nay quá thụ động, ỷ lại nhưng nó lại diễn ra rộng rãi trong giới sinh viên. Hiện tượng sinh viên ngồi im trên giảng đường chờ kiến thức của thầy cô truyền đạt còn tay thì cứ chép lia lịa như sợ kiến thức chạy mất không còn gì là lạ. Không có sự chuẩn bị, tìm hiểu bài học trước, 1tiết trôi qua, 2 tiết trôi qua hết tiết này đến tiết khác hết môn này đến môn khác, mà kiến thức của mỗi buổi dạy đâu có phải ít, vì vậy sinh viên sẽ dễ dàng choáng ngợp trước một bầu trời kiến thức rộng lớn. Họ học vội học vàng để chuẩn bị bước vào kỳ thi thế nên cách học thật máy móc, dập khuôn và không có sức sáng tạo. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng sinh viên quay cóp, nhờ thi hộ, mua điểm.
4. Một cách học nữa của sinh viên cũng đáng bị phê phán, tuy rằng nhiều sinh viên trong số này học rất tốt, rất có khả năng trong tương lai, đó là việc sinh viên chỉ quan tâm tới việc học mà không quan tâm tới sức khoẻ. Đối với họ, đi học thể dục là một cực hình, là một sự tra tấn và làm mất thời gian học của họ. Họ sợ, hoặc tiếc cái thời gian phải ra sân tập chạy, tập nhảy và tập ném bóng. Có thể đa phần trong số họ là lười, là không quen vận động nhưng cũng có một số lớn là chỉ muốn dành thời gian ngồi yên ổn bên bàn học. Suy nghĩ như vậy phải chăng là quá sai lầm? Chúng ta, chắc hầu hết dã nghe qua những câu như: “Sinh viên là tinh hoa của đất nước”,“sinh viên là biểu hiện của sức khoẻ và trí tuệ” (Văn hoá và giáo dục - Học viện chính trị quốc gia 1998, tr 72.114). Vậy thì tinh hoa gì? sức trẻ gì? khi chúng ta gặp những con người lúc nào cũng xanh xao, mắt thâm quầng, dáng vẻ mệt mỏi cho dù họ có mang theo một cái đầu chứa đầy tri thức.
2. Nguyên nhân của những tình trạng trên:
a. Nguyên nhân trước hết phải đề cập đến đó chính là phương pháp học tập của các sinh viên chưa hợp lý, khả năng thích nghi kém, họ còn ngỡ ngàng khi chuyển giao từ cách học phổ thông sang cách học đại học.
b. Nguyên nhân thứ hai là do ý thức học tập của các sinh viên chưa cao, họ chưa biết được mục đích của việc học hoặc đã quá quen dựa dẫm vào gia đình và người thân. Khi gặp sự quản lý lỏng lẻo của nhà trường là họ mặc sức tung hoành và cũng có hể là những sinh viên sống xa nhà, thiếu sự kèm cặp của bố mẹ, bị bạn bè xấu lôi kéo mà trở thành hư hỏng, lười học, bỏ học, nhiễm các tệ nạn xã hội.
c. Ngoài ra, vần đề cần bàn đến ở đây cũng là phương pháp dạy học ở nước ta còn nhiều hạn chế, thiếu phù hợp. Ví như nền giáo dục hiện nay quá trọng khoa học: Trong các trường đại học, cao đẳng mỗi tuần có 33 tiết học thì trong đó có 3 tiết là học thể dục còn 30 tiết là học các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ANHDAO~1.doc