Đề tài Quan điểm lịch sử cụ thể với công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT

 

A. ĐẶT VẤN ĐỀ 2

B. NỘI DUNG 3

1. Quan điểm lịch sử cụ thể. 3

1.1. Cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử cụ thể. 3

1.2. Phương pháp luận của quan điểm lịch sử cụ thể. 4

1.3. Ý nghĩa của việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể. 5

2. Công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam dưới góc nhìn quan điểm lịch sử cụ thể. 5

2.1. Những đặc thù của công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. 5

2.2. Thực trạng xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam trong điều kiện những cụ thể. 8

3. Bài học từ vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 11

3.1. Sự cần thiết việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. 11

3.2. Một số giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 12

C. KẾT LUẬN 15

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 16

 

 

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4784 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quan điểm lịch sử cụ thể với công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể với công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”. NỘI DUNG 1. Quan điểm lịch sử cụ thể. 1.1. Cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử cụ thể. Xuất phát từ hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển. Về mối liên hệ phổ biến, mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, chúng nương tựa, ràng buộc và quy định lẫn nhau. Mọi sự vật đều tồn tại, vận động và phát triển trong không gian, thời gian nhất định và mang dấu ấn của không gian, thời gian đó. Điều này đặt ra yêu cầu khi xem xét và giải quyết một vấn đề cần thiết phải chú ý đúng mức tới hoàn cảnh cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới sự ra đời và phát triển của nó và sự phát triển của nó tới bối cảnh hiện thực cả khách quan lẫn chủ quan. Khi xem xét một quan điểm, một luận thuyết cũng phải đặt nó trong mối quan hệ như vậy. Chân lý sẽ trở thành sai lầm nếu nó bị đẩy ra ngoài giới hạn tồn tại của nó. Nguyên lý về sự phát triển, mọi sự vật, hiện tượng khi đang tồn tại là nó thì trong bản thân nó đã xuất hiện những tiền đề, mầm mống, khuynh hướng của cái mới mà trong những điều kiện nhất định sẽ biến thành cái mới. Do đó khi xem xét, sự vật hiện tượng phải đặt chúng trong quá trình vận động, phát triển không ngừng, phát hiện cái tương lai trong cái hiện tại, tìm thấy những tiền đề mầm mống để nảy sinh cái mới. Đặt sự vật, hiện tượng trong xu thế phát triển của chúng cũng như xu thế của môi trường chứa đựng chúng, để từ đó có những tác động tới môi trường thúc đẩy sự vật hiện tượng phát triển. Cùng một sự vât nhưng nếu tồn tại trong các môi trường khác nhau thì đặc điểm, sự phát triển của chúng cũng khác nhau. Có thể thấy, để nhận thức đúng đắn sự vật, hiện tượng ngoài quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển còn đòi hỏi phải có quan điểm lịch sử cụ thể. Từ hai nguyên lý cơ bản của triết học Mác ta có thể rút ra 3 cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử cụ thể: Một là, mọi sự vật hiện tượng của thế giới hiện thực tồn tại trong những điều kiện, không gian và thời gian nhất định của thế giới vật chất. Các sự vật hiện tượng đều tồn tại trong một hoàn cảnh nhất định không gian và thời gian cụ thể, có điều kiện hình thành và phát triển cụ thể. Hai là, điều kiện, không gian và thời gian của thế giới vật chất chi phối mối liên hệ và sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng. Sự vật, hiện tượng tồn tại trong hoàn cảnh nào đều bị chi phối, ảnh hưởng từ những điều kiện của hoàn cảnh đó. Do đó mọi sự vật, hiện tượng đều mang dấu ấn nhất định của không gian, thời gian mà nó tồn tại. Ba là, cùng một sự vật hiện tượng nếu tồn tại trong những điều kiện, không gian và thời gian khác nhau của thế giới vật chất thì mối liên hệ và sự phát triển của nó cũng khác nhau. Vì mối liên hệ và sự phát triển của sự vật hiện tượng bị chi phối bởi điều kiện, không gian và thời gian, nên môi trường và hoàn cảnh khác nhau thì tạo ra những mối liên hệ và sự phát triển khác nhau. 1.2. Phương pháp luận của quan điểm lịch sử cụ thể. Từ những cơ sở trên, đặt ra vấn đề khi xem xét sự vật hiện tượng đứng trên quan điểm lịch sử cụ thể. Khi phân tích sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong điều kiện không gian và thời gian cụ thể, phải gắn các sự vật, hiện tượng đó với điều kiện lịch sử mà nó tồn tại. Cần phân tích những điều kiện đó ảnh hưởng như thế nào đến đặc điểm, tính chất thậm chí cả bản chất của sự vật, hiện tượng. Khi nghiên cứu một lý luận, một quan điểm cũng phải đặt nó trong mối quan hệ với điều kiện nhất định. Phải phân tích nguồn gốc, xuất xứ, hoàn cảnh làm nảy sinh luận điểm đó. Như vậy mới có thể đánh giá đúng giá trị của luận điểm trong những giai đoạn nhất định. Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn phải tính đến điều kiện cụ thể của nơi vận dụng lý luận đó. Phải căn cứ vào đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của từng thời kỳ, từng không gian mà vận dụng một cách sáng tạo lý luận đó. Quan điểm này đúng đắn khi áp dụng chủ nghĩa Mác Lênin vào cách mạng từng nước. Lênin có nói “ Bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể”. Nghĩa là khi vận dụng chủ nghĩa Mác vào các nước, đòi hỏi Đảng cộng sản phải có quan điểm lịch sử cụ thể. Các Mác phân tích lý luận trên quan điểm chung của cách mạng vô sản, nhưng khi áp dụng tại các nước phải dựa trên hoàn cảnh cụ thể của từng nước mà vận dụng sáng tạo, không biến chủ nghĩa Mác thành giáo điều, cứng nhắc. 1.3. Ý nghĩa của việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể. Xem xét sự vật, hiện tượng trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể có một ý nghĩa to lớn. Nó giúp chúng ta có những bước đi đúng đắn trong hoạch định chính sách, vận dụng sáng tạo những học thuyết, chân lý trong hoàn cảnh cụ thể, đồng thời nắm được những nhân tố ảnh hưởng đến môi trường để có biện pháp cải thiện nó nhằm đạt kết quả như mong muốn. Đứng trên quan điểm lịch sử cụ thể cho ta thấy được hoàn cảnh cụ thể đó, áp dụng những lý luận nào vào thực tiễn cho phù hợp. Thấy được giá trị tích cực của lý luận đó trong hoàn cảnh lịch sử đó. Thấy được những nguyên nhân bên trong và bên ngoài dẫn đến việc duy trì quá lâu một quan điểm, tư tưởng cũ khi mà hoàn cảnh, điều kiện, môi trường đã thay đổi. Từ đó có thể tìm ra giải pháp đúng đắn, thay đổi trong đường lối chính sách phù hợp, thích nghi với hoàn cảnh lịch sử mới. Trong những điều kiện, không gian, thời gian khác nhau thì đặc điểm bản chất sự vật, hiện tượng cũng khác nhau. Xem xét theo khía cạnh này, sẽ giúp chúng ta có những biện pháp tác động đến điều kiện môi trường để các nhân tố tích cực có thể phát triển, kiềm chế những ảnh hưởng xấu của các yếu tố tiêu cực. 2. Công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam dưới góc nhìn quan điểm lịch sử cụ thể. 2.1. Những đặc thù của công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mang những đặc trưng vốn có của tình hình kinh tế xã hội Việt Nam. Để có những đường lối đúng đắn thì phải xuất phát từ những đặc điểm đó để phân tích, cải tạo, và vận dụng một cách sáng tạo. Trên thực tế, nền kinh tế thị trường chỉ mới thành công ở các nước tư bản chủ nghĩa, còn dưới chế độ XHCN, xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường như thế nào thì chưa có một hình mẫu hoàn chỉnh. Có thể coi như đây là một bài toán khó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân tộc Việc Nam phải tự tìm tòi cho chính mình. Ngoài ra, nền kinh tế thị trường bản thân nó luôn có hai mặt, một mặt ảnh hưởng tích cực, kích thích tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế, mặt khác nó là môi trường thuận lợi nuôi dưỡng những tệ nạn xã hội. Do hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nền kinh tế thị trường của Việt Nam, bên cạnh những đặc điểm chung và mang tính phổ biến, còn có cả những nét đặc thù của một nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, chưa có tiền lệ. Những nét đặc thù này đã in đậm dấu ấn lên đời sống mọi mặt của xã hội. Đứng trên quan điểm lịch sử cụ thể, phải xem xét tất cả những điều kiện đặc thù của Việt Nam khi phát triển nền kinh tế thị trường. Do những đặc thù này, nền kinh tế thị trường của nước ta phát triển theo những nét riêng biệt, chịu ảnh hưởng từ chính đặc điểm của môi trường của Việt Nam. Thứ nhất, đối với nước ta việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một quá trình còn quá mới mẻ, phức tạp nên khó tránh khỏi những thiếu sót trong đường đối quản lý. Hơn nữa cũng chưa có một nước xã hội chủ nghĩa nào thực hiện thành công kinh tế thị trường trước đó. Vì vậy, trong quá trình chuyển đổi chúng ta vừa phải tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm các nước phát triển đồng thời chọn cách làm phù hợp với điều kiện đặc thù của đất nước. Thứ hai, chúng ta bước đầu xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, manh mún, lạc hậu, lại thêm cuộc chiến tranh kéo dài, đất nước bị tàn phá nặng nề, cho nên công cuộc trở nên rất khó khăn. Thậm chí chúng ta đã không tránh khỏi việc trả giá đắt cho sự lạc hậu của mình. Do đó xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường phải được tiến hành từng bước, có chính sách khác nhau đối với từng vùng miền, khắc phục dần những hậu quả, đưa nền kinh tế ổn định và phát triển. Việc xuất phát điểm thấp với đa dạng các loại hình sở hữu, chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường bắt đầu từ kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước, định hướng XHCN. Thứ ba, đối với nước ta xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là hoàn toàn phù hợp với điều kiện của thế giới đương đại. Chúng ta coi trọng vai trò của nền kinh tế Nhà nước nhưng đồng thời cũng coi kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, không phân biệt hình thức sở hữu, hình thức tổ chức kinh doanh. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Bởi tất cả đều là bộ phận hợp thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ tư, nền kinh tế thị trường mà Đảng ta chủ trương xây dựng không tách rời sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Nó chứng tỏ những ưu thế nổi bật, là một trong những nhân tố cần thiết cho việc xây dựng và phát triển đất nước. Để tránh sự phát triển của nền kinh tế thị trường đi chệch với định hướng XHCN, thì sự quản lý của Nhà nước phải luôn được kiện toàn và phát huy. Mặt trái của nền kinh tế thị trường càng tác động rõ rệt khi xã hội Việt Nam vốn lạc hậu, trình độ dân trí thấp. Do đó sự quản lý của Nhà nước là không thể tách rời trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Thứ năm, nước ta vốn là một nước nông nghiệp với một nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc, khép kín đã kìm hãm sự phát triển của thị trường hàng hoá. Hơn nữa trong văn hoá truyền thống của nước ta cũng không coi trọng thương nghiệp. Có thể nói rằng “sự thống trị của một quan niệm như vậy sẽ tạo ra moi trường tâm lý hết sức bất lợi cho sự phát triển kinh tế, cho sự đi lên của sản xuất xã hội và sự tiến bộ nói chung. Hậu quả của những sai lầm đó tách đất nước chúng ta ra khỏi xu thế phát triển chung của kinh tế thị trường thế giới và đẩy đất nước vào hàng các nước chậm phát triển”[2.144]. Cho nên, trước khi Việt Nam gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam bị đánh giá là nền kinh tế thị trường phát triển chưa đầy đủ. Những nét đặc thù của nền kinh tế thị trường ở nước ta đặt ra những đòi hỏi đối với định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước ta. Phải xuất phát từ những thực tế, tình hình cụ thể của nước ta, để đề ra những đường lối sát với hiện thực vốn có của Việt Nam. 2.2. Thực trạng xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam trong điều kiện những cụ thể. Giai đoạn 1986-1991: Đây là giai đoạn đầu chúng ta bắt đầu xây dựng nền kinh tế thị trường. Do chưa nhận thức đầy đủ những yếu tố đặc thù của nền kinh tế nước ta, việc áp dụng cứng nhắc những chính sách của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô đã đưa đến một số chính sách sai lầm. Một chính sách sai lầm trong giai đoạn này là tập trung công nghiệp hoá - hiện đai hoá theo hướng ưu tiên cho công nghiệp nặng. Việc áp dụng chính sách này đã không xem xét Việt Nam bấy giờ với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp, nền kinh tế thấp, cơ sở vật chất, công nghệ còn lạc hậu, thiếu đội ngũ các nhà khoa học. Một sai phạm trong đường lối chính sách đã làm mất nhiều thời gian, tiền bạc và nguyên nhân chính là sự áp dụng một cách máy móc việc làm của các quốc gia đi trước vào Việt Nam. Chân lý sẽ trở thành sai lầm nếu nó bị đẩy ra ngoài sự tồn tại của nó. Do đó ưu tiên cho công nghiệp nặng rất thành công ở Liên Xô cũ nhưng lại không phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, và nó trở thành sai lầm nghiêm trọng khi vận dụng không sáng tạo. Trong khi đó, nước ta có đầy đủ điều kiện để phát triển công nghiệp nhẹ. Sự khéo léo cần cù của người dân Việt Nam, sự ưu đãi của thiên nhiên khí hậu tạo nên một danh mục nông sản đa dạng phong phú và nhiều loại hình sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Với những điều kiện đó chúng ta hoàn toàn có thể phát triển những ngành công nghiệp nhẹ mà chỉ cần ít vốn như công nghệ chế biến thực phẩm, đồ gia công mỹ nghệ… Chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhưng trong giai đoạn này lượng hàng hoá của chúng ta còn ít và chất lượng còn chưa tốt. Do đó hàng hoá sản xuất ra không có sức cạnh tranh trên thị trường vì số lượng hàng hoá ít nên phần lớn vẫn phải nhập khẩu và chưa xuất khẩu hàng hoá ra thị trường thế giới. Với điều kiện địa hình phức tạp, hệ thống giao thông vận tải yếu kém nhưng chưa có chính sách phát triển kinh tế phù hợp với từng vùng, từng địa phương. Do đó chúng ta rơi vào tình trạng đầu tư tràn lan, không tập trung gây nên sự bất hợp lý và cân đối giữa các vùng. Cơ cấu giữa các thành phần kinh tế cũng là vấn đề đáng chú ý. Trong giai đoạn này các thành phần kinh tế mới như tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước chưa phát triển, chủ yếu vẫn là thành phần kinh tế Nhà nước. Đó là do nước ta vẫn còn chậm đổi mới các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất đã có trong thời bao cấp cũ và chưa có những chính sách phù hợp để kinh tế tư bản tư nhân và tư bản Nhà nước phát triển. Trong giai đoạn này, mặc dù đã đạt được một số thành tựu kinh tế sau đổi mới nhưng hơi hướng của cơ chế quan liêu bao cấp vẫn tồn tại, nền kinh tế Việt nam chưa thực sự bước ra khỏi khủng hoảng. Đứng trên quan điểm lịch sử cụ thể có thể thấy công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam bị ảnh hưởng từ các quốc gia đi trước, học hỏi kinh nghiệm nhưng chưa áp dụng linh hoạt vào thực tế Việt Nam. Việc duy trì quá lâu tư tưởng, cách làm ăn cũ khi mà hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi, khiến các chính sách trở nên không phù hợp cản trở sự phát triển của đất nước. Giai đoạn từ 1991 đến nay: Do khắc phục được những sai lầm, những chính sách của Đảng và Nhà nước dần điều chỉnh phù hợp với những điều kiện, nhân tố cụ thể của nền kinh tế Việt nam nên thời kỳ này đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Việt Nam vào những năm cuối thập kỷ 70, đầu 80 của thế kỷ XX trong tình trạng trầm trọng nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội: sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt, đất nước bị bao vây về kinh tế, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin bị giảm sút. Nhưng với đường lối đổi mới mà Đại hội Đảng VI đề ra, sau đó được bổ sung và phát triển tại đại hội Đảng VII, nhân dân ta đã thu được những thành tựu bước đầu rất quan trọng cả về kinh tế-xã hội và chính trị. Đặc biệt, khoảng 10 năm sau đổi mới “kinh tế tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước bình quân hàng năm thời kỳ 1991-1995 đạt 8.2%. Lạm phát bị đẩy lùi từ 774.7% năm 1986 xuống còn 67.1% năm 1991, 12.7% năm 1995. Đầu tư toàn xã hội bằng nguồn vốn trong và ngoài nước so với GDP năm 1990 là 15.8% năm 1995 là 27.4%. Lương thực không những đủ ăn mà còn xuất khẩu được mỗi năm khoảng hai triệu tấn gạo. Nhiều công trình thuộc kết cấu hạ tầng và cơ sở công nghiệp trọng yếu được xây dựng” [4.10]. Thị trường phong phú và đa dạng, mua bán và tiêu dùng ngày càng thuận tiện, xã hội giàu có hơn lên. Nếu tính từ khi đất nước đổi mới, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường cho đến nay, hơn 20năm, chúng ta đã được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và có sự thay đổi toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang được đẩy mạnh. Đặc biệt giai đoạn 2001-2005, GDP năm sau cao hơn năm trước, bình quân trong 5 năm đạt mức kế hoạch đề ra (7.51%). Trong đó hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có bước tiến mới rất quan trọng. Một số sản phẩm đã có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Xuất nhập khẩu có tốc độ tăng trưởng khá, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 50% GDP. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tăng liên tục qua các năm. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng. Thị trường hàng hoá phát triển tương đối nhanh: một số loại thị trường mới đã hình thành. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, nền kinh tế thị trường phát triển năng động theo hướng toàn cầu hoá. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử đó không chỉ thể hiện tinh thần nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân mà còn chứng tỏ sự đúng đắn, sáng tạo trong đường lối lãnh đạo của Đảng và sức sống của nền kinh tế thị trường. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, nước ta cũng đạt được một thành tựu quan trọng: trong điều kiện kinh tế thế giới với sự cạnh tranh khốc liệt gây ra sự phân cực giàu nghèo mạnh mẽ với nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, nhưng Đảng ta đã kịp thời rút kinh nghiệm và đã có những đường lối chính sách định hướng cho nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng XHCN, hướng thị trường hàng hoá vào quỹ đạo cạnh tranh lành mạnh cùng phát triển. Chính vì vậy mà nền kinh tế thị trường của nước ta không những không xảy ra khủng hoảng mà còn tránh được ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực năm 1997 mà gần đây là cuộc đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta so với khu vực và thế giới vẫn là một nền kinh tế kém phát triển, chưa theo kịp các quốc gia khác trong khu vực và thế giới. Có thể thấy khi công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, thì quan điểm lịch sử cụ thể ngày càng được vận dụng một cách hiệu quả hơn. Những đường lối chính sách đề ra phù hợp với hoàn cảnh thực tế của đất nước, xu hướng của thời đại. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn phải luôn luôn phân tích những thay đổi ngày một nhanh của hoàn cảnh thực tế, để có những biện pháp linh hoạt, thích ứng nhanh hơn. Nền kinh tế thị trường đã ra đời và phát triển trải qua nhiều giai đoạn của lịch sử đến bây giờ vẫn là kiểu kinh tế xã hội tiến bộ nhất. Công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam cũng trải qua nhiều thăng trầm trong lịch sử. Cả công cuộc là những bước đi đầu tiên, mới mẻ là sự tìm tòi, tự đúc rút kinh nghiệm, vận dụng sáng tạo của Đảng ta. Có thể thấy, công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ngày càng phức tạp, đòi hỏi sự phân tích kỹ lưỡng tình hình thực tế, nhanh nhạy với những thay đổi hàng ngày trong nền kinh tế Việt Nam và thế giới. Quan điểm lịch sử cụ thể phải luôn được quán triệt gắn liền với công cuộc này, vừa đảm bảo phát triển được nền kinh tế thị trường, vừa đúng hướng xã hội chủ nghĩa. 3. Bài học từ vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 3.1. Sự cần thiết việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Có thể thấy nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng là một dạng vật chất. Do đó nền kinh tế thị trường của Việt Nam cũng tồn tại, vận động và phát triển theo những nguyên lý của triết học Mác Lênin trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Muốn đạt được những thành tựu trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN cần thiết phải đứng trên quan điểm lịch sử cụ thể để phân tích, áp dụng đường lối chính sách. Một đường lối chính sách đúng đắn phải xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và tác động đến những nguyên nhân chi phối đến đặc điểm của sự vật, hiện tượng trong điều kiện đó. Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hơn hai thập kỷ qua đã góp phần thay đổi bộ mặt của đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân. Tuy nhiên đó chưa phải là đích của Đảng và nhân dân ta, bởi nền kinh tế nước ta vẫn chậm phát triển. Khi chúng ta chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, từ một nền kinh tế kém hiệu quả, lạc hậu với hệ thống quản lý với những cán bộ mang nặng tư tưởng ỷ lại của thời kỳ cũ sang nền kinh tế thị trường năng động do đó khó tránh khỏi những vấp váp, sai lầm. Thêm nữa việc chúng ta đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường là muộn so với các nước trên thế giới và khu vực. Do đó cần thiết phải nghiên cứu, phân tích kỹ tình hình thực tiễn của nền kinh tế Việt Nam, khu vực và thế giới để có những đường lối chính sách đúng đắn với công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường của Việt Nam. Việc thành công của những chính sách là sự áp dụng tinh tế phù hợp với từng không gian, thời gian nhất định. Chính vì lẽ đó phải đứng trên quan điểm lịch sử cụ thể để nghiên cứu, hoạch định chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 3.2. Một số giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chúng ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động phức tạp, khó lường nhưng dù trong hoàn cảnh nào thì vẫn phải đảm bảo định hướng XHCN vì đó không chỉ là yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, mà có tạo tiền đề chấn hưng văn hiến dân tộc. Đó là một nền kinh tế phải tuân theo các nguyên tắc và quy luật phổ biến của nền kinh tế thị trường, đồng thời phải mang định hướng xã hội chủ nghĩa và tạo ra chất lượng mới của sự phát triển. Trước hết, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta cần thiết phải có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Bởi bất kỳ một nền kinh tế thị trường nào cũng có sự can thiệp của Nhà nước ở các mức độ khác nhau. Đặc biệt nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn chuyển đổi, với nhiều yếu tố mang tính tự phát như nước ta thì vai trò của Nhà nước ngày càng trở nên quan trọng. Nhà nước cần phải xây dựng một hệ thống chính sách kinh tế - xã hội phù hợp để quản lý tốt nền kinh tế định hướng các thành phần kinh tế phát triển theo đúng quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường bao gồm nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Trong đó phải đặc biệt chú trọng việc xây dựng một mô hình kinh tế phù hợp với đặc điểm chính trị xã hội của đất nước, chủ động phát huy những mặt tích cực, khắc phục những tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Tạo môi trường thuận lợi để tác động lên những yếu tố, thành phần của nền kinh tế có thể phát triển đúng hướng. Hai là, xây dựng nền kinh tế thị trường theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong quá trình đó đòi hỏi chúng ta quan tâm tạo lập một môi trường lành mạnh, nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng nhằm khắc phục những mặt yếu kém. Ba là, chúng ta xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra rất mạnh mẽ. Cho nên, việc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường ở nước ta không những phải phù hợp với tình hình đất nước mà còn phải hoà nhập với thị trường khu vực và quốc tế. Thực tế đó đang đòi hỏi chúng ta trong quá trình hội nhập, cần nâng cao năng lực, lợi thế cạnh tranh. Coi trọng nội lực để khai thác và phát triển mọi tiềm năng thế mạnh của đất nước một cách hiệu quả nhất; đồng thời tranh thủ tối đa những nguồn lực bên ngoài tăng thu hút đầu tư bằng cách cải thiện môi trường đầu tư, đổi mới chính sách đầu tư. Tiếp thu, kế thừa, học hỏi những thành tựu của các nước xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường trên thế giới, đồng thời vận dụng sáng tạo vào mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bốn là, xây dựng phát triển kinh tế thị trường không chỉ đơn thuần là tăng trưởng kinh tế mà phải kết hợp phát triển kinh tế với thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với nâng cao đời sống của xã hội nhất là công bằng xã hội. Nghĩa là kinh tế phát triển thì chất lượng đời sống của con người cũng phải được đảm bảo, góp phần định hướng đúng XHCN và xây dựng các quan hệ xã hội lành mạnh, tạo cơ sở cho sự đi lên của cả đất nước. Năm là, trong quá trình phát triển, cần phải hoàn chỉnh lại các thị trường mà nước ta còn thiếu hoặc không đồng bộ như thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ… Quan điểm của Đảng ta là cần phải “tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường để các giao dịch trên thị trường diễn ra phù hợp với các nguyên tắc của thị trường. Hoàn thiện hệ thống quy tắc vận hành của các tổ chức tham gia thị trường đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế” [5.240]. Tóm lại, để thực hiện các chính sách nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một cách hiệu quả, cần phải đứng trên quan điểm lịch sử cụ thể. Trong những hoàn cảnh khác nhau, áp dụng sáng tạo những luận điểm khác nhau một cách linh hoạt không cứng nhắc. Vì môi trường kinh doanh chi phối toàn bộ hoạt động của các thành phần trên thị trường đó do đó phải tác động đến các điều kiện, môi trường đó. Trong những hoàn cảnh khác nhau thì sự vật, hiện tượng phát triển khác nhau, do đó một môi trường lành mạnh sẽ đưa nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng mà Đảng đã đề ra. KẾT LUẬN Đứng trên quan điểm lịch sử cụ để để nghiên cứu, hoạch định con đường xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng X

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc112340.doc
Tài liệu liên quan