Mục lục
Lời mở đầu.
Phần I: Những vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường.
1.1. Các nền kinh tế đã trải qua.
1.2. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường.
1.3. Cơ chế thị trường.
Phần II: Nội dung cơ bản về quản điểm toàn diện của
triết học Mác - Lênin.
2.1. Quan điểm siêu hình về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và
hiện tượng trong thế giới.
2.2. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về mối liên hệ phổ biến giữa
các sự vật và hiện tượng trong thế giới.
2.3. ý nghĩa việc nghiên cứu về mối liên hệ phổ biến của các sự vật,
hiện tượng trong hoạt động nhận thức và thực tiển.
Phần III: Phát triển nền kinh tế thị trường đinh hướng
xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay.
3.1. Sự cần thiết khách quan chuyển sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3.2. Vai trò Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường.
3.3. Nội dung phát triển toàn diện nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3.3.1. Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế với nhiều hình thức kinh doanh.
3.3.2. Phát triển kinh tế bền vững đi đôi với việc thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
3.3.3. Phát triển đồng bộ các ngành kinh tế, các khu vực kinh tế.
3.3.4. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập
nền kinh tế quốc tế.
3.3.5. Phát triển đồng bộ các loại thị trường.
3.3.6. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đi liền với đổi mới cải cách
hành chính và bộ máy quản lý nhà nước.
3.4. Đánh giá quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta.
3.5. Giải pháp cơ bản tiếp tục phát triển nền kinh tế hị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Kết luận.
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2975 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan điểm toàn diện và sự vận dụng trong xây dựng nền kinh tế Việt Nam hôm nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t triển kinh tế, đến mức biến nó thành lực cản cho sự phát triển nền kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế không có một quốc gia nào tại một thời điểm mà lại chỉ có một hình thức kinh tế vận động. Mà ở đó phải có sự hỗn hợp, đan xen giữa hình thức kinh tế tự nhiên, kinh tế thị trường, kinh tế kế hoạch hóa. Điều quan trọng ở đây là, trong sự hỗn hợp ấy, sự vận động của hình thức kinh tế nào đóng vai trò chủ yếu quyết định.
1.2. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường.
Khác với nền kinh tế tự nhiên và nền kinh tế kế hoạch hóa, nền kinh tế thị trường là một hệ thống có cấu trúc phức tạp và vận hành trên những nguyên tắc, những quy luật riêng có của nó. Bởi vậy, nền kinh tế thị trường có những đặc trưng cơ bản như sau:
Nền kinh tế thị trường là một chỉnh thể thống nhất và vận hành đồng bộ. Đó là một tổ hợp hữu cơ các thị trường riêng biệt (Thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường trong nước, thị trường quốc tế...), cũng như các quan hệ kinh tế - xã hội, các quan hệ kinh tế - xã hội, các quy luật kinh tế ... Sự vận hành của nền kinh tế là tổng hòa của sự vận hành các thị trường, các quan hệ và các quy luật kinh tế.
Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở, không bị giới hạn bởi các ranh giới không gian chật hẹp. Điều đó được quyết định bởi bản chất các quan hệ giá trị, thị trường là không bị giới hạn bởi các ranh giới địa lý, hành chính. Hệ thống kinh tế thị trường về nguyên tắc là một hệ thống mở, chứ không khép kín, cục bộ địa phương.
Nền kinh tế thị trường hoạt động vừa có tính tự phát, vừa mang tính tự điều tiết bởi những quy luật kinh tế khách quan của nó. Do vậy, trong quản lý và hoạt động kinh doanh đòi hỏi con người phải nhận thức đúng và vận dụng khoa học các quy luật kinh tế khách quan ấy. Mọi sự nhận thức phiến diện, hoạt động trái quy luật đều phải nhận lấy những hậu quả khó lường.
1.3. Cơ chế thị trường.
Cơ chế kinh tế là một tổng thể các phương thức, phương pháp và hình thức hoạt động của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế - xã hội. Nền kinh tế thị trường có một cơ chế vận hành phức tạp, được coi là cơ chế thị trường. Nó bao gồm các phạm trù, các quy luật vận động của nền kinh tế thị trường. Các yếu tố cơ bản của cơ chế đó là hàng hóa, tiền tệ, giá cả, thị trường, cung - cầu, lợi nhuận, cạnh tranh...
Nền kinh tế thị trường, nhìn bề ngoài hoạt động của nó thường xuyên sôi động và hỗn tạp của nhiều xu hướng vận động khác nhau. Song bên trong đó chứa đựng một cơ chế rất tinh vi, nhằm điều chỉnh mọi hoạt động dường như tự phát của mỗi người, để liên kết, phối hợp chúng một cách thống nhất trên phạm vi toàn xã hội. Cơ chế thị trường có thể làm được điều đó thông qua cơ chế hình thành giá cả và phương thức cạnh tranh với tư cách là phương thức hoạt động cơ bản của thị trường.
**************
Phần II
Nội dung cơ bản về quan điểm toàn diện của
triết học Mác - Lê Nin
2.1. Quan điểm siêu hình về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng trong thế giới.
Phương pháp siêu hình được phổ biến rộng rãi trước hết trong khoa học tự nhiên và sau đó là trong triết học suốt các thế kỷ XVII, XVIII. Khi nghiên cứu và bàn luận về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng trong thế giới, phương pháp siêu hình coi các sự vật hiện tượng trong thế giới tồn tại trong trạng thái biệt lập, tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia, hết cái này đến cái kia. Giữa chúng không có mối liên hệ ràng buộc, quy định và chuyển hóa lẫn nhau, nếu có, chỉ là những liên hệ có tính ngẫu nhiên, hời hợt bên ngoài.
Như vậy, những quan niệm trên đây của phương pháp siêu hình đã phủ nhận hoàn toàn mối liên hệ phổ biến của các sự vật, đồng thời cũng dẫn đến những sai lầm về thế giới quan triết học, dựng lên những ranh giới giả tạo giữa các sự vật và hiện tượng, đối lập một cách siêu hình giữa các ngành nghiên cứu khoa học. Chính bởi sự hạn chế của trình độ khoa học tự nhiên ở phương pháp sưu tập tài liệu, nghiên cứu tách rời từng bộ phận riêng rẽ, phương pháp siêu hình đã không có khả năng phát hiện ra cái chung, cái bản chất và quy luật của sự vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng trong thế giới.
2.2.1. Cơ sở lý luận của quan điểm.
Trong các học thuyết triết học duy vật trước Mác, vật chất được coi là vật thể, cơ sở đầu tiên bất biến của tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Chỉ có một thế giới duy nhất tồn tại là thế giới vật chất, không thể có thế giới tinh thần ở ngoài hoặc bên cạnh thế giới vật chất. Vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình bằng vận động, hay nói cách khác vận động là phương thức tồn tại của vật chất, vật chất thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình.
Là thuộc tính không tách rời của vật chất, nên không thể có vật chất nếu không có vận động và ngược lại. F. Ăng-ghen trong "Biện chứng của tự nhiên" đã viết: "Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy". Giữa các sự vật để có sự vận động thì sự vật phải tác động và ràng buộc lẫn nhau, tức là phải có liên hệ. Mọi mối liên hệ đều là sự tác động của các sự vật hiện thực của thế giới vật chất, các mối liên hệ đó được con người phản ánh dưới hình thức các khái niệm, phạm trù. Như vậy con người không thể sáng tạo ra các mối liên hệ mà nó là cái vốn có của thế giới vật chất, liên hệ là khách quan, nó không phải do Thượng đế sinh ra hay ngẫu nhiên mà có, không phải là sự thể hiện của bất cứ một ý niệm tuyệt đối nào. Thế giới vật chất là muôn hình muôn vẻ tồn tại dưới nhiều dạng cụ thể khác nhau, nhưng không tách rời biệt lập mà liên hệ thống nhất với nhau. Tất cả các sự vật và hiện tượng tồn tại bằng cách tác động nhau, ràng buộc nhau, quy định và chuyển hóa lẫn nhau. F. Ăng-ghen đã viết:" Tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ thống, một tập hợp gồm các vật thể khăng khít với nhau...Việc các vật thể ấy đều có liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác động lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động."
2.2.2. Nội dung quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng.
Căn cứ vào thực tiễn đời sống xã hội và sự phát triển của khoa học, triết học Mác – Lê Nin đã khẳng định: Bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Mọi sự vật, hiện tượng, bộ phận khác nhau của thế giới đều có sự liên hệ vật chất với nhau, nhưng không cái nào tồn tại riêng lẻ, biệt lập, mà hợp thành một chỉnh thể, một hệ thống thống nhất và tồn tại một cách khách quan, vĩnh hằng.
Không có sự vật nào lại không có mối liên hệ với các sự vật và hiện tượng khác, ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì vẫn phải có sự tác động, liên hệ và ràng buộc lẫn nhau giữa các mặt và các yếu tố. Sự vật có vô vàn mối liên hệ. Mối liên hệ tồn tại cả trong thế giới vĩ mô và vi mô, cả trong thế giới vô cơ và hữu cơ, cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Ví dụ, trong tự nhiên, giữa động vật và thực vật, giữa cơ thể sống và môi trường có mối quan hệ với nhau. Trong đời sống xã hội, giữa cá nhân và các tập đoàn người, giữa các quốc gia có quan hệ với nhau. Trong lĩnh vực nhận thức tư duy, giữa các hình thức của nhận thức, giữa các giai đoạn của nhận thức cũng có quan hệ với nhau…
Mối liên hệ của các sự vật và hiện tượng trong thế giới là đa dạng và nhiều vẻ. Mỗi sự vật khác nhau có mối liên hệ khác nhau, mỗi một mối liên hệ lại có vị trí, vai trò khác nhau trong sự vận động của sự vật. Lại tiếp tục căn cứ vào vai trò, tính chất và phạm vi các mối liên hệ người ta lại chia thành các mối liên hệ sau: liên hệ bên trong, liên hệ bên ngoài; liên hệ trực tiếp, liên hệ gián tiếp; liên hệ không gian, liên hệ thời gian; liên hệ chủ yếu, liên hệ thư yếu; liên hệ cơ bản, liên hệ không cơ bản; liên hệ chung nhất và liên hệ đặc thù…
Mặc dù sự phân loại các liên hệ này chỉ có ý nghĩa tương đối, song sự phân loại các mối liên hệ lại rất cần thiết, vì rằng vị trí của từng mối liên hệ trong việc quy định sự vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng không hoàn toàn như nhau. Những hình thức riêng biệt, cụ thể của từng mối liên hệ là đối tượng nghiên cứu của từng ngành khoa học cụ thể. Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất, phổ biến nhất của thế giới, tác động trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Các khoa học cụ thể khác nghiên cứu các mối liên hệ đặc thù. Vì thế, F. Ăng-ghen viết: “Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến.”
2.3. ý nghĩa việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Như ta đã biết, các sự vật và hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và nhiều vẻ, bởi vậy muốn nhận thức và tác động vào chúng, chúng ta phải có quan điểm toàn diện, khăvs phục quan điểm phiến diện một chiều.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật phải đặt nó trong mối quan hệ với sự vật và hiện tượng khác, phải xem xét tất cả các mặt, các mắt trung gian, gián tiếp, các yếu tố cấu thành nên sự vật, đồng thời cũng phải xác định được vai trò của các mối liên hệ trong hệ thống các mối liên hệ của sự vật.
Trong hoạt động thực tiễn, quan điểm toàn diện giúp chúng ta tránh những sai lầm và sự cứng nhắc, chống lại quan điểm siêu hình coi sự vật là cái gì riêng lẻ, biệt lập. Tuy nhiên, quan điểm toàn diẹn không có nghĩa là các xem xét cào bằng, tràn lan, mà phải thấy được vị trí của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố trong tổng thể của chúng. Có như thế chúng ta mới thực sự nắm được bản chất của sự vật. Vì vậy, quan điểm toàn diện, bản thân nó đã bao hàm quan điểm lịch sử, cụ thể.
**************
Phần III
Phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
3.1. Sự cần thiết khách quan chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp với những đặc trưng cơ bản của nó như: Nhà nước quản lý nề kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính, can thiệp quá nhiều vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, xem nhẹ quan hệ hàng hóa tiền tệ và hiệu quả kinh tế, bộ máy Nhà nước cồng kềnh và kém hiệu quả…Điều đó đã kìm hãm đáng kể sự phát triển nền kinh tế – xã hội. Để hạn chế tối đa những yếu kém trong cơ chế kế hoạch hóa tập trnng, đồng thời phát huy tối đa ưu thế của cơ chế thị trường trong phát triển kinh tế; Đại hội Đảng lần thứ VI khẳng định “Tiếp tục xóa bỏ cơ chế quan liêu, bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”.
3.2. Vai trò của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường.
Nói chung, trong mọi nền kinh tế, Nhà nước đều đóng vai trò quan trọng đối với các hoạt động kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, mỗi thời đại khác nhau thì vai trò của Nhà nước được thể hiện ở những phương pháp và hình thức khác nhau.
Trong nền kinh tế thị trường, cùng với sự gia tăng của quá trình xã hội hóa sản xuất, vai trò điều tiết của Nhà nước ngày càng được mở rộng. Bởi lẽ, cơ chế thị trường, bên cạnh những ưu thế của nó, còn có những khuyết tật không nhỏ. Để khắc phục những khuyết tật đó, làm tăng tính hữu hiệu của các giải pháp thị trường, bên cạnh sự tác động của “bàn tay vô hình”, phải có sự can thiệp của “bàn tay hữu hình”, tức là sự tác động của Nhà nước. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô tác động vào nền kinh tế nhằm giải quyết ba mục tiêu cơ bản: hiệu quả, công bằng và ổn định.
3.2.1. Mục tiêu hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trường, trên giác độ vĩ mô thì hoạt động thị trường nhiều khi cũng dẫn đến thất bại bởi những ứng xử vi mô không phù hợp. Nguyên nhân chính là do sự độc quyền, các yếu tố tác động không theo nguyên tắc thị trường, thiếu định hướng và hỗ trợ của Nhà nước. Để tăng cường hiệu quả hoạt động nền kinh tế, Nhà nước phải sử dụng một loạt các chính sách, các giải pháp kinh tế để khắc phục những vấn đề trên.
Trong nền kinh tế, sự độc quyền thường dẫn đến triệt tiêu động lực cạnh tranh, gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Tình trạng độc quyền về giá cả, khống chế khối lượng sản xuất, cản trở áp dụng khoa học kỹ thuật… sẽ dẫn đến thất bại thị trường xét trên tổng thể. Do vậy, can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế nhằm hạn chế sự thao túng của độc quyền, tăng hiệu quả hoạt động của “bàn tay vô hình” là cần thiết.
Ngoài ra, sự tác động mạnh mẽ đến hiệu quả hoạt động kinh tế – xã hội nói chung còn phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài như tình trạng khan hiếm nguồn, ô nhiễm môi trường sinh thái…Thường những nhân tố này không nằm trong phạm vi tự điều chỉnh của thị trường. ở đây, việc Nhà nước quy định các luật lệ nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của các yếu tố bên ngoài là rất quan trọng.
Mặt khác, việc Nhà nước đưa ra những định hướng phát triển thông qua các chiến lược tổng thể, đầu tư hỗ trợ phát triển các lĩnh vực trọng yếu, là yếu tố cực kỳ quan trọng để tăng hiệu quả vĩ mô của nền kinh tế.
3.2.2. Mục tiêu ổn định.
ổn định luôn là cơ sở cho sự phát triển bền vững nền kinh tế – xã hội. Trong nền kinh tế thị trường thì tính chu kỳ của sự phát triển là một đặc trưng nổi bật, lạm phát và thất nghiệp là những căn bệnh kinh niên. Trước những vấn đề mang tầm cỡ vĩ mô này, không một chủ thể tư nhân nào có thể giải quyết được. Chỉ có Nhà nước, với quyền lực tổng hợp và sức mạnh tập trung mới có thể giải quyết được các căn bệnh nói trên. Với vai trò quản lý của Nhà nước, hiện nay nhiều quốc gia đã thu được nhiều thành tựu trong các chương trình chống suy thoái kinh tế, chống lạm phát, chống thất nghiệp...
3.2.3. Mục tiêu công bằng.
Cơ chế thị trường không chỉ có những khuyết tật về mặt kinh tế, mà còn đẻ ra nhiều vấn đề xã hội to lớn. Không thể phủ nhận được tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”, sự phân hóa giàu nghèo như những sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường , của sự cạnh tranh. Để hạn chế bớt tình trạng này, Nhà nước phải sử dụng các chính sách, các công cụ trong tay Nhà nước để tiến hành phân phối và phân phối lại sản phẩm xã hội. Các chính sách chủ yếu ở đây là: chính sách tài chính quốc gia, chính sách thuế, chính sách trợ cấp, chính sách xã hội...
3.3. Nội dung phát triển toàn diện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta được bắt đầu từ Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IV (9/1979), được đúc kết và khẳng định trong Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986), tiếp tục hoàn thiện và nâng cao tại Đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991). Nội dung cơ bản của công cuộc đổi mới là: xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
3.3.1.Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức tổ chức kinh doanh.
Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân; hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp nhằm phát huy tổng hợp mọ nguồn lực sẵn có trong nền kinh tế. Quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta chỉ rõ, mọi thành phần kinh tế, mọi công dân đều được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh đều được khuyến khích phát triển lâu dài, ổn định, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và đều là các bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong đó bao gồm:
Kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế: nắm những vị trí then chốt, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là một công cụ quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ; đi đầu về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật.
Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các hộ xã viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn hoạt động.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị đều được khuyến khích, Nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ; đặc biệt trong việc phát triển kinh tế ruộng, vườn, trang trại, vườn rừng...
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi về quy mô trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh, khuyến khích hợp tác, liên doanh với nhau và với doanh nghiệp Nhà nước.
Kinh tế tư bản Nhà nước phát triển dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội gắn với thu hút công nghệ cao, tạo thêm nhiều công ăn việc làm.
3.3.2. Phát triển kinh tế bền vững đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Nền kinh tế là một tổng hòa các quan hệ kinh tế - xã hội. Bất cứ một nền kinh tế nào muốn phát triển bền vững đều phải tăng nhanh năng suất lao động xã hội và nâng cao chất lượng sản phẩm. Điều đó đòi hỏi tăng nhanh năng lực khoa học và công nghệ trong nước, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ tốt yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và từng bước tiếp cận với nền kinh tế tri thức. Mặ khác, cần phát huy nhân tố con người, mở rộng cơ hội cho mọi người đều có điều kiện để phát huy mọi tài năng, tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng những thành quả của sự phát triển, góp phần thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội daan chủ, công bằng và văn minh. Phát triển nền kinh tế phải luôn luôn đi đôi với bảo vệ môi trường, coi bảo vệ môi trường trong sạch là điều kiện quan trọng để tăng trưởng kinh tế bền vững và xã hội ổn định, lành mạnh.
3.3.3. Phát triển đồng bộ các ngành kinh tế, các khu vực kinh tế.
Nền kinh tế bao gồm hoạt động của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau, được phân bổ theo các khu vực kinh tế khác nhau và chúng thưỡnguyên có tác động qua lại, hỗ trợ cho nhau. Phát triển đồng bộcc ngành, các khu vực kinh tế sẽ phát huy cao độ lợi thế vốn có và khắc phục những khuyếm khuyết của nó.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, do vậy Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tuy nhiên, trong định hướng phát triển kinh tế, chúng ta phải từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ lệ nông nghiệp, tăng tỷ lệ công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm xã hội.
Đi liền với các ngành, chúng ta chú trọng phát triển kinh tế giữa các vùng, các khu vực, nhằm tận dụng tối đa những ưu thế, những điều kiện sẵn có để tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, chính trị, xã hội.
3.3.4. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay đang diễn ra nhanh chóng, không một nền kinh tế nào phát triển mà không có sự hội nhập với kinh tế quốc tế. Xu hướng chung hiện nay trong sự phát triển kinh tế là các nước đều tiến hành cải cách kinh tế theo hướng mở cửa, tham gia vào thị trường khu vực và thế giới. Trong tiến trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nước ta đã gia nhập vào Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN), thành viên Diễn đàn Châu á - Thái Bình Dương (APEC), tham gia khu vực mậu dịch tự do của ASEAN (AFTA), chuẩn bị gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, trc hết là độc lập về đường lối phát triển kinh tế – xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy nhanh nhịp độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế bảo đảm hiệu quả kinh tế trong nước và tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đi đôi với phát triển vững chắc các ngành, các thành phần kinh tế trong nước, cần chủ động từng bước hội nhập kinh tế quốc tế trên nguyên tắc giữ vững chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hóa dân tộc, bình đẳng và cùng có lợi. Trong quá trình hội nhập kinh tế cần phát huy những lợi thế sẵn có của mình, tăng khả năng cạnh tranh, nâng coa hiệu quả, giảm dần hàng rào thuế quan, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, có cơ chế khuyến khích xuất khẩu. Phát triển mạnh những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có khả năng cạnh tranh cao, giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm thô, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm đã chế biến, nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Đồng thời, phát triển du lịch quốc tế, xuất khẩu lao động và các dịch vụ ngoại tệ khác, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại và thanh toán quốc tế.
3.3.5. Phát triển đồng bộ các thị trường.
Kinh tế thị trường bao gồm một hệ thống thị trường đồng bộ: thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường tài chính...
Trong điều kiện hiện nay của nước ta, việc phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Bởi lẽ, nền kinh tế thị trường thực chất là một nền kinh tế tiền tệ hay một nền kinh tế hàng hóa được tiền tệ hóa một cách cao độ. Trên thị trường tài chính, cần được quan tâm phát triển đồng bộ các thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán...
3.3.6. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đi liền với đổi mới cải cách hành chính và bộ máy quản lý Nhà nước.
Để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự vận hành thông suốt của cơ chế thị trường, tất yếu đòi hỏi phải cải cách hành chính. Trước hết là giảm bớt các thủ tục hành chính, các văn bản pháp quy của Nhà nước phải rõ ràng, nhất quán, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra, kiểm soát.
Bên cạnh đó, cần đổi mới bộ máy hành chính Nhà nước nhằm mục tiêu gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả; nâng cao năng lực, phẩm chất đội ngũ cán bộ, công chức; đẩy lùi quan liêu, tham nhũng, cửa quyền...
3.4. Đánh giá quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Sau 15 năm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể; đặc biệt 10 năm 1991 – 2000. Điều đó được thể hiện qua một số chỉ tiêu tổng quát sau đây:
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) sau 10 năm tăng gấp đôi, sản lượng sản xuất các ngành đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra, đặc biệt là sự phát triển vượt bậc về nông nghiệp. Sản lượng lương thực bình quân đầu người từ 330kg năm 1990 tăng lên 370kg năm 1995 và 435kg năm 2000. Từ chỗ thiếu lương thực, nay chúng ta là nước thứ ba xuất khẩu lương thực cao nhất thế giới. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế từ chỗ không đáng kể đã đạt 25% so với GDP; đầu tư phát triển so với GDP tăng từ 11,2% năm 1990 lên 28% năm 2000.
Cơ cấu kinh tế đã có những chuyển biến đáng kể. Nền nông nghiệp đã có xu hường chuyển sang sản xuất hàng hoá, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm còn 25% trong GDP. Trong khi đó, công nghiệp tăng từ 22,7% năm 1990 lên 34,5% năm 2000; tương ứng dịch vụ tăng từ 38.6% lên 40,5% trong GDP.
Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, nước ta đã từng bước hội nhập với linh tế khu vực và quốc tế; bình thường hoá và mở rộng quan hệ kinh tế, tài chính, tiền tệ với các nước, các tổ chức kinh tế, tiền tệ quốc tế. Kim ngạch xuất khẩu sau 10 năm tăng gấp 6 lần, đặc biệt là gạo, cà phê...; đầu tư trực tiếp của nước ngoài 10 năm khoảng 15 tỷ USD.
Trình độ dân trí, chât lượng nguồn nhân lực được nâng rõ rệt. Đến nay cơ bản đã hoàn thành mục tiêu xoá nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước; số sinh viên đại học, cao đẳng sau 10 năm tăng gấp 5,7 lần...
Đời sống các tầng lớp dân cư được cải thiện đáng kể. Bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho 1 triẹu lao động. tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 30% xuống 11%; tuổi thọ trung bình từ 65 lên 68 tuổi...
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đó, trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vẫn còn nhiều mặt yếu kém, cần khắc phục, biểu hiện ở các điểm sau đây:
Nhịp độ tăng trưởng mấy năm gần đây chậm lại, nền kinh tế hoạt động còn kém hiệu quả và kém sức cạnh tranh, một số hàng hoá khó tiêu thụ. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế và sức mua còn thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, cơ chế bao cấp còn nặng nề.
Môi trường đầu tư nhiều vướng mắc, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, các yếu tố thị trường chưa được tạo lập đồng bộ, các thành phần kinh tế chưa yên tâm đầu tư lâu dài vào sản xuất, đầu tư nước ngoài giảm mạnh.
Một số cân đối nền kinh tế còn thiếu vứng chắc như thu chi ngân sách nhà nước, xuất nhập khẩu, tích luỷ - tiêu dùng...
Đời sống một bộ phận dân cư còn thấp, nhất là ở vùng núi, vùng sâu hải đảo; còn có sự phân hoá giàu nghèo khá lớn.
3.5.Giải pháp cơ bản tiếp tục phát tri
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21508.doc