Sau 17 năm thực hiện đường lối của Đảng, tình hình kinh tế - xã hội đã có những chuyển biến sâu sắc và toàn diện. Nền kinh tế nước ta tăng trưởng liên tục với tốc độ cao, GDP tăng bình quân hàng năm thời kỳ 1986 - 1990 là 3,9%, thời kỳ 1991 - 1995 là 8,2%, thời kỳ 1996- 2000 là 7% thấp hơn thời kỳ 1991 - 1995 là do khủng hoảng tài chính khu vực, năm 2001 là 6,89% và năm 2002 là 7,04% đây là tốc độ tăng cao thuế hai ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương chỉ sau Trung Quốc. Kết thúc năm 2000, GDP bình quân đầu người đạt gần 400 USD/năm, tăng gấp đôi năm 1990. Quy mô kinh tế năm 2002 đã gấp 2,4 lần năm 1990.
Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng năm sau đều cao hơn năm trước. Vì thế, đời sống của dân cư được cải thiện rõ rệt, trừ những vùng thiên tai nặng hoặc những gia đình quá khó khăn. Thu nhập ở khu vực thành thị, nông thôn và 7 vùng sinh thái đều tăng, tuy nhiên ở khu vực nông thôn tốc độ tăng thu nhập có thấp hơn mức bình quân chung.
43 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2130 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan điểm và giải pháp tăng cường vai trò của nhà nước trong phân phối thu nhập nhằm thực hiện định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và thu nhập quốc dân tạo cơ sở tài chính của Nhà nước để Nhà nước thực hiện các chức năng của mình. Chính sách tài chính điều hoà các quan hệ phân phối lợi ích cơ bản giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, giữa trung ương và địa phương, giữa các địa phương, giữa các nghành, giữa các tầng lớp dân cư. Chính sách tài chính, một mặt, thông qua thu chu của NSNN điều tiết cân bằng tổng thể của nền kinh tế, cân bằng cung - cầu xã hội, mặt khác, thông qua các hình thức cụ thể của cơ chế tài chính như thuế, trợ cấp,.... nhằm điều tiết hành vi của các chủ thể kinh tế, điều hoà thu nhập giữa các tầng lớp dân cư.
Chính sách tài chính có vai trò quan trọng như vậy, nên Đại hội IX của Đảng yêu cầu phải hoàn thiện chính sách tài chính quốc gia theo hướng" thực hiện nguyên tắc công bằng, hiệu quả trong chính sách phân phối và phân phối lại thu nhập trong xã hội"
1.3.3. Điều tiết của Nhà nước đối với thu nhập cá nhân
Nhà nước điều tiết thu nhập cá nhân thông qua các chính sách:
Chính sách thuế, trong đó có thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp, được coi là công cụ điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giữa các đơn vị kinh tế để tạo nguồn thu cho NSNN và thực hiện công bằng xã hội, Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã được ban hành và thực hiện từ năm 1991, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay thế thuế lợi tức năm 1999
- Chính sách việc làm. Người lao động không có việc làm không chỉ bị tước mất quyền bình đẳng được làm việc để phát huy năng lực của mình, mà còn không có thu nhập để đảm bảo cuộc sống. Vì thế, Nhà nước phải có chính sách giải quyết việc làm, tạo cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động. Đảng ta khẳng định bảo đảm công ăn, việc làm cho dân là mục tiêu xã hội hàng đầu.
- Chính sách bảo đảm xã hội là chính sách điều tiết thu nhập cá nhân nhằm cải thiện đời sống của những người có hoàn cảnh khó khăn, giảm mức chênh lệch giàu nghèo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách bảo đảm xã hội bao gồm chính sách bảo hiểm xã hội (kể cả bảo hiểm y tế) nhằm giúp đỡ về vật chất cho những người lao động khi họ tạm thời hoặc vĩnh viễn mất cơ hội lao động và chính sách cứu trợ xã hội nhằm giúp đỡ những người gặp phải những khó khăn, rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống, hoà nhập cộng đồng.
Chương 2
Thực trạng vai trò điều tiết của Nhà nước đối với phân phối thu nhập trong thời gian qua ở nước ta
2.1. Thực trạng các chính sách phân phối thu nhập trong thời gian qua.
Sự điều tiết của Nhà nước đối với phân phối thu nhập là một vấn đề rộng lớn, phức tạp. ở đây, nó được xem xét, đánh giá qua thực trạng các chính sách phân phối thu nhập.
2.1.1. Thực trạng chính sách tiền lương
Chính sách tiền lương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phân phối thu nhập. Có thể nói nó là tụ điểm của mọi vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, công bằng xã hội. Vì thế, Đảng và nước ta luôn coi trọng chính sách tiền lương, từ năm 1993 đến nay đã 4 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu.
Năm 1993 Nhà nước thực hiện cải cách chính sách tiền lương. Mục tiêu chính sách tiền lương tối thiểu năm 1993 là tạo ra lưới an toàn cho người lao động trong cơ chế thị trường; làm căn cứ để xây dựng hệ thống trả công lao động cho các khu vực, ngành nghề, tính mức lương cho các loại lao động, làm cơ sở cho thoả thuận ký kết hợp đồng lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động. Đánh giá khách quan và tổng quát về cải cách và điều chỉnh tiền lương ở nước ta trong thời gian qua, chúng ta thấy:
Về mặt tích cực:Thứ nhất, mức lương tối thiểu năm 1993 và việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu theo mức độ trượt giá đã tăng thu nhập cho người lao động làm công ăn lương, cải thiện đời sống của họ. Tiền lương tối thiểu đã tạm được coi là lưới an toàn cho người lao động làm công ăn lương trong xã hội. Chế độ tiền lương đó phù hợp với khả năng của nền kinh tế còn thấp kém và gánh nặng đảm bảo xã hội lớn của nước ta. Thứ hai, tiền lương tối thiểu cùng với việc mở rộng bội số từ 1- 3,5 lên 1- 10 đã khắc phục ở mức độ nhất định tính chất bình quân trong chế độ tiền lương, bước đầu tiếp cận được với nguyên tắc phân phối theo lao động. Thứ ba, bước đầu hình thành hệ thống lý luận mới về tiền lương trong điều kiện kinh tế thị trường. Điểm thay đổi cơ bản trong cải cách tiền lương năm 1993 là tiền tệ hoá tiền lương và thay đổi cơ cấu tiền lương đã xoá bỏ về cơ bản chế độ bao cấp; tách tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh tự lo nguồn trang trải với khu vực hưởng lương từ NSNN. Thứ tư, tạo điều kiện đơn giản hoá tổ chức lao động và trả lương. Tiền lương tối thiểu đã trở thành căn cứ để xây dựng các mức lương tối thiểu theo ngành, vùng, hệ thống tiền lương trong các khu vực, tạo cơ sở cho sự thoả thuận về tiền lương trong hợp đồng lao động; tạo điều kiện thúc đẩy hình thành và phát triển thị trường lao động.
Về mặt hạn chế: Thứ nhất, mức tiền lương tối thiểu đặt ra thấp, không đủ chi phí cho nhu cầu thiết yếu của người lao động và chậm được điều chỉnh. Thứ hai, tiền lương tối thiểu được áp dụng chủ yếu đối với những đối tượng hưởng lương từ NSNN, khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nên tác dụng của nó bị hạn chế, chưa thực sự trở thành lưới an toàn cho những người lao động trong toàn xã hội. Thứ ba, chưa phân biệt tiền lương thấp nhất của cán bộ công chức hưởng lương từ NSNN với tiền lương tối thiểu của khu vực có quan hệ lao động theo cơ chế thị trường. Thứ tư , tiền lương tối thiểu chậm được điều chỉnh cho phù hợp với mức độ trượt giá và tăng trưởng kinh tế, nên tiền lương thực tế có xu hướng giảm. Thứ năm, việc điều chỉnh tiền lương vẫn chưa có tính chủ động, mà thường do "áp lực xã hội " và vẫn coi nó là gánh nặng của NSNN, biến tiền lương thành phạm phù phân phối cho tiêu dùng cá nhân đơn thuần, và chưa coi tiền lương là đầu tư cho nguồn nhân lực.
2.1.2. Thực trạng chính sách thuế đối với phân phối thu nhập
Chính sách thuế là một trong những chính sách chủ yếu về phân phối. Một trong những chức năng cơ bản của thuế là chức năng phân phối tổng sản phẩm quốc dân và thu nhập quốc dân. Chức năng đó liên quan chặt chẽ với chức năng điều tiết kinh tế và thực hiện công bằng xã hội.
Qua cải cách thuế, hệ thống chính sách thuế Việt Nam đã được đổi mới về cơ bản, hình thành một hệ thống thuế thống nhất, được luật hoá, bao gồm Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) thay thế thuế doanh thu, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay thế thuế lợi tức, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế xuất, nhập khẩu, Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất, Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Pháp lệnh phí và lệ phí.
Thuế GTGT là thuế đánh vào hành vi tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng tại Việt Nam; đối tượng nộp thuế là các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Vì vậy, thuế GTGT bao quát hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, nên đã điều tiết trên một phạm vi rộng các nguồn thu nhập, do đó tạo nguồn thu lớn, ổn định, kịp thời cho NSNN.
Thuế thu nhập doanh nghiệp đã thay thế cho thuế lợi. Luật thuế này quy định mọi cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập đều phải nộp thuế thu nhập; thu nhập chịu thuế là toàn bộ thu nhập của cơ sở nhận được sau khi trừ đi các khoản chi phí để tạo ra thu nhập đó. Qua thực hiện luật thuế thu nhập doanh nghiệp số thu về thuế thu nhập doanh nghiệp tăng dần qua các năm, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng số thu về thuế và phí: năm 1999 là 18,3%, năm 2000 là 24%, năm 2001 là 25,4%. Chính sách thuế thu nhập đã thực sự trở thành công cụ điều tiết thu nhập, động viên nguồn thu tương đối lớn vào NSNN, góp phần đảm bảo công bằng trêm phạm vi toàn xã hội.
Pháp lênh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao được ban hành nhằm góp phần thực hiện công bằng xã hội, động viên một phần thu nhập của những người có thu nhập cao vào NSNN. Pháp luận này quy định mọi công dân Việt Nam có thu nhập và người nước ngoài làm việc tại Việt Nam có thu nhập đều phải nộp thuế với các mức thuế suất luỹ tiến từng phần. Tuy nhiên thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao có hai biểu thuế suất: một biểu áp dụng cho người Việt Nam và một biểu áp dụng cho người nước ngoài với mức khởi điểm chịu thuế khác nhau. Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là công cụ của Nhà nước để giảm sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư.
Thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế tiêu dùng đánh vào một số hàng hoá, dịch vụ đặc biệt. Mục tiêu của thuế tiêu thụ đặc biệt là hướng vào việc điều tiết thu nhập của các tầng lớp có thu nhập cao khi tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ đặc biệt, thực hiện điều tiết thu nhập công bằng, hợp lý.
Như vậy, qua hai đợt cải cách thuế, hệ thống thuế của nước ta đã hình thành tương đối đầy đủ các sắc thuế cần thiết và đã thể hiện rõ vai trò của nó đối với phân phối thu nhập. Có thể nêu lên những kết quả sau đây: Một là, việc đổi mới hệ thống thuế đã làm tăng nguồn thu cho NSNN, số thu về thuế và phí tăng nhanh qua các năm và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu trong nước, Hai là, hệ thống chính sách thuế được áp dụng chung thống nhất cho các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư đã tạo nên sự bình đẳng và công bằng về nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước. Ba là, thông qua chính sách miễn giảm thuế GTGT, thuế thu nhập, thuế xuất, nhập khẩu... và sự ưu đãi về thuế đối với một số đơn vị kinh tế mới thành lập, đầu tư chiều sâu, các đối tượng thuộc chính sách xã hội... đã thể hiện vai trò của thuế đối với điều tiết thu nhập và thực hiện công bằng xã hội.
Tuy nhiên hệ thống thuế Việt Nam còn những hạn chế : Một là, phạm vi tác động của chính sách thuế còn bị hạn chế. Hệ thống chính sách thuế còn chưa bao quát được hết các nguồn thu đã phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế thị trường như thuế thu nhập chưa đánh trên thu nhập chuyển nhượng cổ phần, chuyển nhượng tài sản....; thuế thu nhập cá nhân chỉ mới đánh vào những con người có thu nhập cao, nên diện chựu thuế hẹp. Hai là, tính công bằng của hệ thống thuế chưa cao. Tỷ trọng thuế trực thu trong tổng thu về thuế, phí nhỏ hơn thuế gián thu cho thấy mức độ công bằng về thuế giữa các tầng lớp xã hội còn bị hạn chế. Thuế thu nhập cá nhân mới chỉ điều tiết đối với các cá nhân có thu nhập cao, chứ chưa điều tiết đối với đại bộ phận dân cư, còn có sự phân biệt mức khởi điểm chịu thuế giữa người Việt Nam và người nước ngoài. Ba là, thuế thu nhập doanh nghiệp còn có sự phân biệt doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, còn có sự ưu đãi về thuế đối với các DNNN làm giảm tính cạnh tranh của chúng. Bốn là, hệ thống thuế hiện nay còn nhiều điều chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, nổi bật là những quy định về thuế nhập khẩu, việc bảo hộ thuế còn tràn lan, thiếu trọng điểm.
2.1.3. Thực trạng một số chính sách xã hội
* Chính sách việc làm
Vấn đề thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn của nước ta là hết sức trần trọng vì thế, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến chính sách giải quyết việc làm. Chính phủ đã thông qua Chương trình quốc gia về việc làm với ba hướng cơ bản: phát triển kinh tế tạo nhiều chỗ làm việc; cố gắng giữ chỗ làm việc đã có; hỗ trợ cho người muốn tìm kiếm việc làm. Chương trình này đã được cụ thể hoá bằng các Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, Thông tư liên Bộ và thành lập Quỹ quốc gia về việc làm.
Nhờ có chính sách đúng đắn và sự tham gia tích cực của các tổ chức và nhân dân, nên việc giải quyết việc làm đã có chuỷen biến tích cực. Trong giai đoạn 1991 - 2000 đã huy động được 57 tỷ USD vốn đầu tư, nhờ đó tạo thêm việc làm. Quỹ quốc gia giải quyết việc làm hình thành năm 1992 đến nay đã có khoảng 2000 tỷ đồng, doanh số cho vay là 4000 tỷ đồng, thu hút được 3 triệu lao động. Từ năm 1991 - 2001 số người có việc làm ở nước ta tăng từ 30,9 triệu lên 40,6 triệu tăng 32,2%, bình quân hàng năm tăng khoảng 2,9%.
Những thành tựu về việc làm nói trên bắt nguồn từ đường lối đổi mới của Đảng, đổi mới tư duy trong lĩnh vực lao động - việc làm phù hợp với kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, khuyến khích người lao động tạo việc làm cho mình và thu hút lao động xã hội. Tuy nhiên, việc giải quyết việc làm cũng còn những hạn chế, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn cao, cơ cấu lao động chuyển dịch chậm, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp.
* Chính sách xoá đói giảm nghèo.
Xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản. Đảng ta chủ trương khuyến khích làm giầu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo. Và xác định xoá đói giảm nghèo là một trong những chương trình phát triển kinh tế - xã hội vừa cấp bách trước mắt vừa cơ bản lâu dài. Chủ trương đó được cụ thể hoá bằng các chính sách, Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, các thông tư liên Bộ.
Chính phủ đã đưa ra và thực hiện nhiều chương trình, dự án tham gia thực hiện xoá đói giảm nghèo như chương trình 135, dự án trồng 5 triệu ha rừng, chương trình 773, chương trình quốc gia về việc làm, chương trình giáo dục - đào tạo, chương trình y tế, chương trình bảo vệ và chăm sóc trẻ em, các chương trình, dự án quốc tế có mục tiêu tham gia xoá đói giảm nghèo.... Nhờ thực hiện các chương trình đó đã huy động các nguồn lực góp phần phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, nhất là người nghèo. Tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh (theo tiêu chuẩn Việt Nam ) từ 30% năm 1992 xuống còn 11% năm 2000. Nếu theo tiêu chuẩn mới, thì tỷ lệ nghèo đói năm 2000 là 17,5%, năm 2001 là 16%, năm 2002 là 14,3%. Tỷ lệ nghèo đói giảm đi ở cả thành thị và nông thôn.
Tuy nhiên, tỷ lệ đói nghèo ở nước ta còn cao, sự phân hoá giầu nghèo trong xã hội cũng ngày càng tăng, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em còn lớn, tỷ lệ tái đói nghèo còn cao.
* Chính sách bảo hiểm xã hội
BHXH là một bộ phận cơ bản của hệ thống an sinh xã hội. Trong thời gian qua, hệ thống BHXH được đổi mới và hoàn thiện, tập trung vào 4 lĩnh vực chủ yếu; bảo hiểm xã hội , bảo hiểm y tế, bồi thường tai nạn lao động và chính sách trợ cấp thôi việc. Chính sách bảo hiểm xã hội trong thời gian qua đã được đổi mới theo hướng mở rộng đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế (năm 2002 số lao động tham gia bảo hiểm gấp 2 lần năm 1995); thực hiện nguyên tắc cùng chia sẻ trách nhiệm về BHXH và BHYT: người lao động và người sử dụng lao động đều có trách nhiệm đóng góp vào hai quỹ đó, do đó đã giảm đáng kể gánh nặng cho NSNN về BHXH và BHYT, số thu BHXH tăng lên (năm 2002 số thu BHXH gấp 3 lần số thu 1996); việc tách hai quỹ BHXH và BHYT Việt Nam đã bắt đầu hoạt động có hiệu quả.
Tuy nhiên, mặc dù đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội có tăng, nhưng nhìn chung còn rất hạn chế. Trong tổng số gần 40 triệu lao động ở nước ta đến nay chỉ mới có 12,6% lực lượng lao động tham gia BHXH, quỹ BHXH còn thất thu lớn, chi cho BHXH vẫn chủ yếu chi từ NSNN chiếm trên 80%.
* Chính sách trợ cấp Nhà nước
Trợ cấp Nhà nước là một trong những bộ phận hợp thành của hệ thống an ninh xã hội nhằm đảm bảo cho những người yếu thế trong xã hội có thể vượt qua được khó khăn, có được cuộc sống bình thường. Chính sách trợ cấp Nhà nước bao gồm chính sách trợ cấp đột xuất và chính sách trợ cấp thường xuyên. Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm đến công tác cứu trợ xã hội, điều đó thể hiện qua việc ban hành một loạt các văn bản về cứu trợ xã hội, nguồn NSNN hàng năm luôn dành tỷ lệ cao cho công tác này (khoảng 3 - 5% tổng chi NSNN cả Trung ương và địa phương). Do đó, trong thời gian qua, chính sách trợ cấp của Nhà nước đã thực sự là chỗ dựa, cưu mang cho những người thuộc nhóm người yếu thế, giúp họ ổn định cuộc sống, hoà nhập với xã hội.
2.2. Đánh giá kết quả chung và những vấn đề đặt ra đối với sự điều tiết của Nhà nước về phân phối thu nhập.
2.2.1. Thu nhập và mức sống
Sau 17 năm thực hiện đường lối của Đảng, tình hình kinh tế - xã hội đã có những chuyển biến sâu sắc và toàn diện. Nền kinh tế nước ta tăng trưởng liên tục với tốc độ cao, GDP tăng bình quân hàng năm thời kỳ 1986 - 1990 là 3,9%, thời kỳ 1991 - 1995 là 8,2%, thời kỳ 1996- 2000 là 7% thấp hơn thời kỳ 1991 - 1995 là do khủng hoảng tài chính khu vực, năm 2001 là 6,89% và năm 2002 là 7,04% đây là tốc độ tăng cao thuế hai ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương chỉ sau Trung Quốc. Kết thúc năm 2000, GDP bình quân đầu người đạt gần 400 USD/năm, tăng gấp đôi năm 1990. Quy mô kinh tế năm 2002 đã gấp 2,4 lần năm 1990.
Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng năm sau đều cao hơn năm trước. Vì thế, đời sống của dân cư được cải thiện rõ rệt, trừ những vùng thiên tai nặng hoặc những gia đình quá khó khăn. Thu nhập ở khu vực thành thị, nông thôn và 7 vùng sinh thái đều tăng, tuy nhiên ở khu vực nông thôn tốc độ tăng thu nhập có thấp hơn mức bình quân chung.
Sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao tuy còn có khó khăn, tồn tại, nhưng đã có nhiều đổi mới và tiến bộ. Cơ sở hạ tầng ở nông thôn được xây dựng, nâng cấp, cải tạo.
Như vậy, trong thời gian qua, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư nói chung và của nông dân nói riêng được cải thiện rõ rệt. Theo ý kiến đánh giá của 2,5 vạn hộ được điều tra ở 61 tỉnh, thành phố về đời sống năm 1999 thì số hộ trả lời đời sống khá hơn năm 1993 là 74,8%, số hộ, đời sống ít thay đổi là 19% số hộ, chỉ có 6,2% số hộ trả lời đời sống giảm đi.
2.2.2. Đánh giá chung về sự đổi mới các chính sách phân phối và điều tiết thu nhập của Nhà nước.
- Về chính sách chi tiêu của NSNN đã có sự biến đổi tích cực. Thu của NSNN so với GDP trong thời kỳ 1991- 1999 trung bình đạt 20,2%, trong cơ cấu thu của NSNN, thu trong nước chiếm tỷ trọng lớn. Chi tiêu của NSNN được cơ cấu lại theo hướng xoá bỏ bao cấp trong chi của NSNN, tăng chi cho đầu tư phát triển, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, giáo dục - đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học. Thời kỳ 1996 - 2000 tổng chi NSNN bình quân 24,2% GDP, trong đó chi cho đầu tư phát triển 27% và chi thường xuyên 59% tổng chi NSNN. Chính phủ đặc biệt ưu tiên chi NSNN cho giáo dục - đào tạo từ 1276,7 tỷ đồng năm 1991 tăng lên 15.086 tỷ đồng năm 2000, gấp 11 lần, cũng trong thời kỳ đó, chi cho y tế tăng gấp 4,2 lần, chi cho văn hoá - thể thao tăng gấp 5,1 lần. Nguồn chi cho trợ cấp xã hội hàng năm chiếm từ 3 - 5% tổng chi Ngân sách Trung ương và địa phương.
Như vậy, chính sách chi tiêu NSNN đã có sự biến đổi tích cực, đó là nhân tố cơ bản đảm bảo sự phân phối thu nhập ngày càng công bằng hơn và tiến bộ xã hội ở nước ta trong thời gian qua.
- Về chính sách tiền lương. Xem xét quá trình cải cách tiền lương từ năm 1993 đến nay, chúng ta thấy chính sách tiền lương đã được đổi mới về căn bản. Bước đầu hình thành hệ thống lý luận mới về tiền lương trong kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tiền lương đã được tiền tệ hoá và xoá bỏ về cơ bản chế độ bao cấp qua tiền lương. Nó được quan niệm là giá cả sức lao động và được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động. Đây là điểm thay đổi cơ bản trong cải cách chính sách tiền lương. Tiền lương tối thiểu được coi là lưới an toàn cho người làm công ăn lương, tuy nhiên, mức tiền lương tối thiểu hiện nay vẫn còn thấp. Bước đầu hình thành cơ chế quản lý tiền lương mềm dẻo, linh hoạt.
Như vậy, cải cách và hoàn thiện chính sách tiền lương thời gian qua đã bước đầu làm cho tiền lương thích hợp với cơ chế thị trường và từng bước làm cho nó trở thành công cụ chủ yếu của Nhà nước trong phân phối thu nhập.
- Về chính sách thuế. Nhìn tổng thể, qua hai đợt cải cách thuế, hệ thống thuế Việt Nam đã được đổi mới căn bản, chuyển từ cơ chế thu ngân sách trong kinh tế kế hoạch hoá tập trung, không dựa trên nền tảng thuế sang thu ngân sách chủ yếu dựa vào các luật thuế. Về cơ bản, chúng ta đã xây dựng được một hệ thống thuế thống nhất, được luật hoá và áp dụng bình đẳng đối với các thành phần kinh tế. Nhờ vậy, cùng với sự tăng trưởng kinh tế số thu về thuế và phí tăng nhanh qua các năm. Xét về cơ cấu, đã hình thành tương đối đầy đủ các sắc thuế cần thiết của hệ thống thuế hiện đại, trong đó các sắc thuế gián thu đã được trú trọng hoàn chỉnh hơn các sắc thuế trực thu. Bước đầu cải thiện sự công bằng về thuế giữa các tầng lớp xã hội, tạo sự bình đẳng trước pháp luật thuế giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Hệ thống thuế đã trở thành công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế; kích thích xuất khẩu, kích thích đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng nguồn thu cho NSNN, giải quyết các vấn đề xã hội.
Như vậy, cải cách hệ thống thuế trong thời gian vừa qua đã từng bước làm cho hệ thống thuế phù hợp hơn với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, trở thành công cụ chủ yếu của Nhà nước để phân phối và điều tiết thu nhập và là công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu của Nhà nước.
- Về các chính sách xã hội.
+ Nhờ chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước về giải quyết việc làm, sự tham gia tích cực của các tổ chức và nhân dân, nên việc giải quyết việc làm đã có những chuyển biến tích cực, đạt kết quả đáng ghi nhận, từ năm 1991- 2001 số người có việc làm đã tăng từ 30,9 triệu người lên 40,6 triệu người, tăng 32,2%.
+ Chính sách xoá đói giảm nghèo, trợ cấp xã hội, đền ơn đáp nghĩa là một trong những chính sách xã hội được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và được thực hiện trên phạm vi cả nước với sự tham gia tích cực của các tổ chức và nhân dân. Vì thế, chúng ta đã đạt được thành tựu nổi bật được cộng đồng quốc tế thừa nhận, dù tính theo tiêu chuẩn nào thì tỷ lệ đói nghèo ở nước ta cũng giảm nhanh. Chính sách trợ cấp Nhà nước đã thực sự trở thành chỗ dựa cho những người yếu thế trong xã hội, giúp họ ổn định cuộc sống.
+ Chính sách bảo hiểm xã hội được đổi mới phù hợp với kinh tế thị trường định hướng XHCN. Những kết quả quan trọng nhất của sự thực hiện chính sách BHXH và BHYT trong những năm qua là số người tham gia BHXH, BHYT tăng đáng kể, góp phần ổn định cuộc sống của người lao động.
Tóm lại, các chính sách phân phối của Nhà nước đã từng bước đổi mới và hoàn thiện phù hợp với kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng đã trở thành công cụ đắc lực của Nhà nước trong việc thực hiện chủ trương của Đảng: gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.
2.2.3. Những vấn đề đặt ra đối với sự điều tiết của Nhà nước về phân phối thu nhập.
* Sự phân hoá giầu - nghèo
Cùng với quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, thì cũng diễn ra sự phân hoá giầu nghèo. Theo kết quả điều tra năm 1993, tính chung khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa nhóm giầu và nhóm nghèo là 6,2 lần. Còn theo kết quả điều tra năm 1999, thì khoảng cách chênh lệch là 8,9 lần. Hệ số chênh lệch thu nhập giữa nhóm giầu và nhóm nghèo đều tăng qua các năm ở cả khu vực thành thị, nông thôn và các vùng. Hệ số Gini ở nước ta tăng qua các năm, nhưng không lớn ( năm 1999 là 0,39). Tỷ lệ thu nhập của 40% số hộ có thu nhập thấp nhất trong tổng thu nhập của các hộ năm 1999 là 18,7%. Các chỉ số trên cho thấy Việt Nam đã rơi vào mức bất bình đẳng trung bình so với các nước. Do đó vấn đề đặt ra là cần tăng cường vai trò của Nhà nước đối với phân phối thu nhập nhằm ngăn chặn sự dãn rộng khoảng cách giầu nghèo, từng bước thực hiện phân phối thu nhập công bằng.
* Những vấn đề đặt ra đối với sự hoàn thiện các chính sách phân phối thu nhập
Trong thời gian qua các chính sách phân phối đã được đổi mới về cơ bản và đã đưa lại những kết quả tích cực. Tuy nhiên, hiện nay các chính sách đó còn những hạn chế cần được giải quyết trong quá trình hoàn thiện chúng.
- Chính sách tiền lương. Hiện nay tiền lương tối thiểu còn thấp chưa đảm bảo tái sản xuất sức lao động và còn mang tính chất bình quân, chưa bảo đảm tốt nguyên tắc phân phối theo lao động. Vì thế tiền lương chưa thực hiện được tốt các chức năng của nó. Tiền lương cũng chưa thực sự là giá cả sức lao động được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động. Do đó vấn đề đặt ra là cần tiếp tục cải cách chính sách tiền lương với mục tiêu là đảm bảo cho tiền lương thực hiện được các chức năng của nó và phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Chính sách thuế là công cụ chủ yếu để Nhà nước tiến hành phân phối và tái phân phối, thực hiện công bằng xã hội. Nhưng hiện nay hệ thống thuế cũng còn những hạn chế. Hệ thống thuế còn chưa bao quát được hết các nguồn thu, tính công bằng của hệ thống thuế chưa cao, tỷ trọng thuế trực thu nhỏ hơn thuế gián thu cho thấy mức độ công bằng về thuế giữa các tầng lớp dân cư còn hạn chế, thuế thu nhập cá nhân mới chỉ điều tiết đối với những cá nhân có thu nhập cao, còn có sự phân biệt và thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hệ thống thuế còn nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Do đó, vấn đề đặt ra là cần tiếp tục cải cách hệ thống thuế theo hướng đảm bảo cho hệ thống thuế thực hiện được các chức năng của nó, tăng tỷ trọng của thuế trực thu trong tổng số thu về thuế vào NSNN, đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế.
- Các chính sách xã hội là công cụ của Nhà nước để giảm bớt sự phân hoá giầu ghèo, thực hiện công bằng xã hội. Trong thời gian qua, việc giải quyết việc làm đạt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50203.doc