Lời mở đầu
Chương I :Tình hình thu hút FDI,vai trò của nó đối với nền kinh tế Việt Nam
1. Sự cần thiết phảo thu hút FDI.
2. Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam .
3. Vai trò tác động của đầu tư trực tiếp .
Chương II : Đặc điểm FDI hiện nay và các tác động của tự do hoá thương mại ASEAN đến quá trình thu hút FDI tại Việt Nam
1. Quá trình tự do hoá thương mại quốc tế va ASEAN
2. Những đặc điểm mới của FDI trong sự tác động của tư do hoá thương mại tại Việt Nam
3. Sự tác động của tự do hoá thương mại ASEAN đến dòng lưu chuyển FDI tại Việt Nam
Chương III : Định hướng và các giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong điêù kiện thực hiện AFTA
1. Định hướng thu hút FDI vào Việt Nam
2. Giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong điêù kiên thực hiên AFTA
Lời kết
Danh mục tài liệu tham khảo
38 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1467 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan điểm và giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong tiến trình tự do hóa thương mại trong Asean, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i biên giới của mỗi quốc gia, sự phân công lao động quốc tế phát triển cả về bề rộng và bề sâu, vai trò của các Công ty đa quốc gia được tăng cường, hầu hết các quốc gia chuyển sang xây dựng mô hình “kinh tế mở” với việc khai thác ngày càng triệt để lợi thế so sánh của mỗi nước. Thế giới ngày nay là một chỉnh thể thống nhất, trong đó các quốc gia là những đơn vị độc lập, tự chủ nhưng phụ thuộc nhau về kinh tế và khoa học công nghệ. Sự phụ thuộc giữa các quốc gia bắt nguồng từ những yếu tố khách quan : do đIều kiện địa lý ,do sự phân bố không đồng đều tàI nguyên thiên nhiên, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới
Lịch sử thế giới chứng minh rằng không có quốc gia nào có thể phát triển nếu thực hiện chính sách tự cấp tự túc. Ngược lại, những nước có tốc độ tăng trưởng cao đều là các nước dựa vào kinh tế đối ngoại để thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển, biết sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ để hiện đại hóa nền sản xuất, biết khai thác những nguồn lực nước ngoài để phát huy các nguồn lực trong nước.
Trước đây, nền kinh tế các nước tuy có kiên hệ là giao lưu nhưng chỉ dụa trên quan hệ là song phương la chính , chưa hợp thành một chỉnh thể toàn cầu . Trong thập kỷ cuối của thế kỷ XX , việc quốc tế hoá đời sống kinh tế bước vào giai đoạn mới . Nền kinh tế các nước không chỉ liên hệ giao lưu lẫn nhau mà còn đan dệt vào nhau ,dung hợp lẫn nhau để hình thành một nền kinh tế toàn cầu trên cơ sỏ phát triển mạnh mẽ cách mạng khoa học công nghệ và vai trò then chốt của các công ty xuyên quốc gia.
Qúa trình tự do hóa thương mại được thể hiện rõ nét qua việc hình thành các liên kết kinh tế quốc tế như các khối mậu dịch tự do, đồng minh thuế quan, liên minh kinh tế , liên minh tiền tệ và các tổ chức kinh tế quốc tế. Hiện nay đã có mấy chục khu vực kinh tế khác nhau về cấp độ, qui mô, nội dung. Tây Âu, Bắc Mũ, Châu á - Thái Bình Dương, Trung Đông, Châu Phi, Mỹ La Tinh đều có các khu vực kinh tế và thương mại tự do. Tiêu biểu như Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ (NAFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) góp phần vào thúc đẩy sự tăng trưởng của thương mại thế giới, theo thống kê của tổ chức thương mại (WTO), cho đến nay trên thế giới có tới 144 tổ chức kinh tế mang tính chất khu vực. Các tổ chức kinh tế – tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) có vai trò toàncầu, thúc đẩy tự do hóa thương mại phát triển mạnh mẽ. Trong các tổ chứcnày, quan trọng nhất là tổ chức thương mại thế giới được coi là “Liên hiệp quốc về thương mại” với hơn 140 thành viên, chiếm hơn 90% giá trị thương mại thế giới, đang là tổ chức thúc đẩy các quốc gia phối hợp các chính sách kinh tế , thực hiện tự do hóa thương mại, dịch vụ, đầu tư, tài chính, tiền tệ để tăng cường các quan hệ kinh tế quốc tế. Với việc các nước thamgia ngày càng nhiều vào các tổ chức kinh tế quốc tế, tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và các tổ chức kinh tế khu vực, toàn cầu gần đây đều có xu hướng muốn đẩy nhanh tốc độ, rút ngắn thời hạn thực hiện các cam kết để đẩy nhanh quá trình tự do hóa kinh tế giữa các nước thành viên đã khiến cho quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng, với tốc độ ngày càng tăng.
Đóng góp cho sự phát triển của tự do hóa thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài, người ta không thể không nói đến vai trò của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, vốn là nhân công đã đẩy mạnh sự phát triển của lực lượng sản xuất thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ nửa cuối thế kỷ XX đã làm cho khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cơ sở kỹ thuật của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia công nghiệp phát triển, đã có sự thay đổi về chất, nền sản xuất đạt được năng suất lao động cao chưa từng thấy và đã tạo ra một khối lượng của cải khổng lồ với hàm lượng tri thức cao. Khoa học công nghệ đã góp phần tới 50-60% vào tăng trưởng kinh tế , trong đó 60% là do tăng năng suất lao động trên cơ sở những thành tựu khoa học công nghệ.
Cuộc cách mạng kỹ thuật đặc biệt là cách mạng về thông tin đã hình thành hệ thống mạng thông tin trên khắp toàn cầu . Việc xây dựng mạng Intểnt và siêu lộ thông tin xuyên quốc gia đã làm cho vô tuyến, đIện thoại , máy tính liên kết thành một khối ,thế giới rộng lớn trở nên nhỏ bé, Các phương tiện vận tảI ,thông tin liên lạc hiện đại phá vỡ bức tường ngăn cách không gian và thời gian giữa các khu vực trên khắp hành tinh , tạo sự xích lại gần nhau giữa các quốc gia , giữa mọi người trên thế giới . Các sản phẩm trở thành sản phẩm mang tính quốc tế của nhiều hãng khác nhau do các quốc gia đều có thể phát huy ưu thế kỹ thuật lao động . Cũng do sự phát triển kỹ thuật thông tin nên người quản lýcó thể nắm được tình hình thị trường ở nhiều nơI trên thế giới và tinh toán cần thiết để tìm ra cơ hội thuận lợi trong việc bố trí sắp xếp nguồn lực sao cho có lợi nhất . Chính do sự phát triển của khoa học công nghệ mà nhu cầu về tự do hoá thương mại trở nên mạnh mẽ hơn và bức thiết hơn.
Do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, sự phát triển không đồng đều về kinh tế, khoa học kỹ thuật giữa các quốc gia đòi hỏi họ phải mở rộng phạm vi hợp tác và trao đổi. Điều đó đã khiến cho phân công lao động phát triển. Nhu cầu tiêu dùng ở mỗi quốc gia ngày càng tăng về số lượng, chất lượng và chủng loại nên việc một vài quốc gia đơn lẻ có thể sản xuất hàng hóa để cung ứng cho thị trường trở nên không còn thiết thực. Việc phân công lao động trên bề rộng, giữa các quốc gia sẽ đem lại hiệu quả và lợi nhuận cao hơn, tỷ lệ thuận với nhu cầu của người tiêu dùng. Những chuyển biến quan trọng mà trong đó vai trò của lực lượng sản xuất là một trong những yếu tố quyết định nền sản xuất thế giới đã được cơ cấu lại theo hướng linh hoạt hóa trên cơ sở chu chuyển tư bản xuyên quốc gia được thực hiện dễ dàng và linh hoạt. Điều này đã làm nảy sinh và đẩy mạnh thương mại xuyên quốc gia, khiến cho thương mại thế giới về hàng hóa và dịch vụ tăng vọt, tự do hóa thương mại phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Phân công lao động quốc tế làm đối tượng và phạm vi tham gia vào việc trao đổi quốc tế được mở rộng, đồng thời lợi thế so sánh của các quốc gia được khai thác triệt để, đã thúc đẩy thương mại hàng hóa và dịch vụ phát triển dẫn đến đòi hỏi bức thiết về tự do hóa thưoưng mại và đầu tư lẫn nhau giữa các quốc gia.
Như vậy, qua những phân tích và đánh giá trên có thể nhận thấy một điều rằng, ngày nay, tự do hóa thương mại đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tự do hóa thương mại vừađem lại lợi ích to lớn cho các quốc gia, vừa tạo ra những thách thức lớn trên con đường hội nhập của các quốc gia vào nền kinh tế thế giới. Chính những cơ hội và thách thức đó đã đẩy các quốc gia lại gần nhau hơn, nó đã thúc dục các quốc gia có những sự tương đồng về địa lý, văn hóa, lợi ích kinh tế tập hợp lại trong những tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, hợp tác với nhau để hình thành các liên kết mang tầm khu vực và quốc tế. Các liên kết kinh tế khu vực được hình thành, một mặt tạo điều kiện đẩy nhanh qúa trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới trên cơ sở việc giải quyết nhanh những bất đồng tồn tại giữa các quốc gia có nhiều sự tương đồng. Mặt khác, liên kết kinh tế quốc tế trên một giác độ nào đó cũng có thể được coi như là một phản ứng tự nhiên của các quốc gia mà theo đó họ tập hợp lại trong một khối kinh tế lớn hơn để đề kháng lại những tác động được coi là tiêu cực với các quốc gia trước sự bành trướng quá nhanh của xu hướng toàn cầu hóa về kinh tế. Quá trình này, tuy vậy lại đẩy nhanh hơn tự do hóa thương mại trong nội bộ các quốc gia thuộc khối liên kết. Về lâu dài, đó sẽ là cơ sở vững chắc cho tự do hóa thương mại và đầu tư toàn cầu.
2. Những đặc điểm mới của FDI trong sự tác động của tự do hoá thương mại tại Việt Nam
Từ những phân tích trên ,có thể thấy nguồn FDI vào Việt Nam trong thời gian tới có thể có những đặc điểm sau đây :
Thứ nhất, sẽ có sự chuyển dịch trong cơ chế FDI đổ vào Việt Nam theo sơ đồ phân công sản xuất toàn khu vực. Dưới tác động của AFTA, có thể có những biến động trong cơ cấu FDI mà cụ thể là sự gia tăng lượng FDI vào những ngành mà Việt Nam có lợi thế so với các nước trong khu vực (dệt may, da giầy, chế biến nông lâm sản,). Đồng thời sẽ là sự giảm sút FDI đổ vào những ngành mà Việt Nam không có lợi thế so với các nước ASEAN khác. ở đây cũng cần lưu ý tớimột số ngành mà lợi thế so sánh của từng nước chưa thể hiện sự vượt trội của bất kỳ quốc gia ASEAN nào - đó là mà lợi thế so sánh hiện còn thể hiện dưới dạng tiềm năng ở từng quốc gia. Nguồn FDI đổ vào những ngành có lợi thế so sánh tiềm năng sẽ phụ thuộc nhiều vào những chính sách, thủ tục và sự thuận lợi mang tính chủ quan mà từng nước ASEAN tạo ra cho các nhà đầu tư.
Thứ hai, việc Việt Nam gia nhập khu vực mậu dịch tự do AFTA với sự cắt giảm thuế quan vào năm 2006 sẽ làm cho hàng hóa của các nước trong khối thâm nhập và cạnh tranh gay gắt với nhau hơn. Nếu như Việt Nam không có một môi trường đầu tư có hiệu quả thì sẽ dẫn đến các nhà đầu tư chuyển sang đầu tư tại những nơi thuận lợi hơn rồi chuyển hàng vào tiêu thụ ở Việt Nam.
Một yếu tố khác có thể tác động không nhỏ đến việc giảm sút đầu tư vào Việt Nam đó chính là ảnh hưởng của khủng hoảng sẽ làm cho các nhà đầu tư của Mỹ và Châu Âu dừng hoạt động lại để xem xét tình hình đầu tư lâu dài. Do khủng hoảng mà một số nhà đầu tư đánh giá khu vực này chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro Do đó mà trong những năm tới đầu tư vào Việt Nam không tránh khỏi những khó khăn chung này.
Thứ ba, đầu tư của các nước Châu á vào Việt Nam bị hạn chế bởi những quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước ASEAN gặp nhiều khó khăn tại chính quốc gia họ, dẫn đến những nhà đầu tư của những nước ngày phải tạm dừng hoạt động làm ăn cầm chừng, xin rút giấy phép đầu tư.
Thứ tư, hiện nay các nước trong khu vực đang trong tình trạng phục hồi nền kinh tế dẫn tới họ sẽ áp dụng nhiều biện pháp ưu đãi để thu hút vốn đầu tư. Chính điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến việc thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam do phải cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực. Bởi Việt Nam có rất nhiều điểm tương đồng về lợi thế và điều kiện so với những nước như: Trung Quốc hoặc những nước trong khu vực Đông Nam á.
Trên đây là những yếu tố mang tính chất khách quan tác động vào hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời gian tới. Bên cạnh đó, các yếu tố như cơ cấu đầu tư của Việt Nam chưa hợp lý, điển hình là những đối tác trên thế giới có vị thế chưa xứng đáng trong đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, lĩnh vực sử dụng vốn đầu tư của Việt Nam chưa hợp lý dẫn đến có nhiều ngành còn nhỏ lẻ, hình thức đầu tư chưa thực sự đa dạng.
Sự tác động của tư do hoá thương mại ASEAN đến dòng lưu chuyển FDI vào Việt Nam
Việc tham gia vào AFTA sẽ làm tăng lượng vốn đầu tư trực tiệp nước ngoài vào Việt Nam. Đối với các nhà đầu tư ngoài AFTA , Việt Nam có nhiều lợi thế trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài . Đồng thời , nguyên tắc xuất xứ hàng hoá của AFTA có yêu cầu thập hơn so với yêu cầu của các khu vực mậu dich tự do khác cho nên tham gia vào AFTA còn tạo điêù kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Việc đầu tư sản xuất ở các nước trong AFTA và tiêu thụ sản phẩm ở các nước khác sẽ tạo động lực thu hút mạnh hơn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài . Các nhà đầu tư trong AFTA sẽ chú ý nhiều hơn đến viêc di chuyển một số ngành sản xuất sang Việt Nam do các nước này đang mất dần lợi thế và lao động rẻ. Đồng thời Việt Nam đang có mục tiêu tạo nhiều việc làm cho người lao động ,do đó , việc di chuyển các cơ sở sản xuất từ các nước sang Việt Nam sử dụng nhiều lao động rất phù hợp voứi chiến lược phát triển của Việt Nam .
Hơn nữa, thế mạnh của các nước trong viêc đầu tư ra nước ngoài không phải ở các ngành công nghiệp có công nghệ cao , thậm chí cũng không phảI ở lĩnh vực công nghệ chế biên quy mô lớn .Các nước này cũng đang cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư nước ngoài . Vì vậy , hoạt động đầu tư của các nước trong AFTA sang Viêt Nam sẽ tiếp tục tăng ở các hoạt động dịch vụ , thương mại ,công nghệ chế biến vừa và nhỏ .
Ngoài ra, việc tham gia vào AFTA còn tác động đến việc hình thành và phát triển thị trường tài chính –tiền tệ , mở rộng các hoạt động dịch vụ và nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước.
Chương 3
Định hướng và các giảI pháp tăng cường thu hút fdi vào việt nam trong đIêu kiện thực hiện afta
1. Định hướng thu hút FDI vào Việt Nam
Để xác định phương hướng cho hoạt động thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới, bên cạnh những khó khăn, thuận lợi do tự do hóa thương mại trong ASEAN đem lại, tình hình thế giới cũng cho thấy lượng FDI trên thế giới sẽ có sự suy giảm lớn, đặc biệt khó khăn hơn cho Việt Nam là hầu hết các dự báo đều cho thấy rằng luồng FDI trên thế giới vẫn chưa coi ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng là một điểm đến trên quy mô lớn như ASEAN đã từng được xem xét như vậy từ trước cuộc khủng hoảng năm 1997. Trước tình hình như vậy, việc tìm ra những giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam đòi hỏi phải phát huy nhiều yếu tố tích cực, hạn chế đến mức tối đa mọi sự cản trở, đồng thời cần phải kêu gọi sự nỗ lực từ nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều thành phần trong việc đẩy mạnh thu hút FDI vào Việt Nam trong những năm tới đây.
Trong tiến trình tự do hóa thương mại ASEAN, kết hợp với những nhận định về sự di chuyển của dòng FDI trên thế giới, có thể thấy việc thu hút FDI vào Việt Nam sẽ phải được xem xét, ưu tiên phân tách theo 2 nguồn: FDI từ các nước ASEAN và FDI từ các nước ngoài ASEAN để từ đó có các đối sách thích hợp với mỗi nguồn FDI, và cũng trên cơ sở đó tìm ra những quan điểm mới, hiệu quả trong cuộc cạnh tranh thu hút FDI vào Việt Nam không chỉ với các nước ASEAN mà còn đối với cả các nước ngoài ASEAN.
Đối với luồng vốn từ ASEAN đổ vào Việt Nam, theo như những phân tích trước, dựa trên thế lợi so sánh sẵn có, Việt Nam có thể định hướng và kêu gọi các nhà đầu tư ASEAN chuyển giao công nghệ và đầu tư vào các lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông lâm, hải sản. Với vị trí địa lý và nguồn lực về lao động, tự nhiên dồi dào, Việt Nam có đủ cơ sở để hướng nguồn FDI trong ASEAN vào Việt Nam, biến Việt Nam trở thành quốc gia cung cấp các sản phẩm nông, lâm nghiệp và hải sản cho khu vực cũng như cho thế giới. Điều này là hoàn toàn có cơ sở bởi vì các nước ASEAN phát triển hơn như Singapore, Malaysia, Thái Lan hiện đang có chiến lược thay đổi cơ cấu sản xuất lớn. Họ muốn tập trung nhiều hơn cho hệ thống tài chính, công nghiệp nặng và các ngành công nghệ cao. Chính vì vậy, Việt Nam có thể định hướng thu hút FDI vào những ngành công nghiệp chế biến và có sử dụng nhiều lao động.
Trong tương quan về lợi thế so sánh, hoạt động thương mại và đầu tư của Việt Nam với các quốc gia trong ASEAN, Việt Nam có thể định hướng luồng FDI ngoài ASEAN vào Việt Nam trong một số lĩnh vực như: công nghiệp dệt may – kể cả việc thiết kế mẫu mốt; công nghiệp vật liệu mới – mặc dù là lĩnh vực công nghệ cao, song đây cũng là lĩnh vực mới đối với ASEAN. Hơn nữa, Việt Nam cũng đã có một đội ngũ các nhà khoa học – kỹ thuật cơ bản cũng như ứng dụng được đào tạo khá tốt từ Liên Xô vào Đông Âu trước kia và hiện nay có thể đáp ứng cho ngành công nghiệp chế tạo vật liệu mới. Thành công trong lĩnh vực này, giá trị gia tăng sẽ rất cao, vì vậy chính phủ nên có ưu đãi đặc biệt cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này.
Ngoài ra, các ngành thép, cao su phục vụ cho công nghiệp sản xuất ôtô, xe máy cũng có thể tính đến trong định hướng thu hút FDI vào Việt Nam. Bởi đây là những ngành có thể phát huy thế mạnh của Việt Nam đồng thời có khả năng đem lại giá trị gia tăng cao cho Việt Nam. Mặc dù hiện tại, trình độ sản xuất cũng như cơ sở cho phát triển của ngành công nghiệp ôtô - xe máy của Thái Lan, Malaysia hơn Việt Nam. Song thị trường ASEAN còn lớn, bên cạnh đó Việt Nam còn có thể tính đến thị trường Trung Quốc với những lợi thế về địa lý và hệ thống giao thông. Và trên hết là lộ trình AFTA cho ngành này còn dài, Việt Nam còn có đủ thời gian chuẩn bị để có thể hy vọng là một cực quan trọng trong sản xuất ôtô - xe máy cho thị trường ASEAN. Tuy nhiên để đạt được những thành công như mong muốn thì Việt Nam rất cần có những chính sách và giải pháp thích hợp để không biến những trợ cấp thành gánh nặng, thành sức ỳ và cản trở sự phát triển của ngành công nghiệp này.
Trong chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Việt Nam rất quan tâm tới lĩnh vực điện tử – tin học. Cũng giống như ngành công nghiệp ôtô - xe máy, Việt Nam đi sau các nước ASEAN phát triển khác. Tuy nhiên đây là lĩnh vực công nghệ cao, sự thành công phụ thuộc rất nhiều vào những nghiên cứu mới có tính đột phá và yếu tố con người ở đây rất quan trọng. Yếu tố con người (cả khía cạnh quản lý) ở đây đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Xét về khía cạnh này Việt Nam có đầy đủ khả năng để sánh vai với các quốc gia trong khu vực. Thực tế trong năm 2002 Việt Nam đã đạt nhiều giải thưởng trong lĩnh vực này tại các cuộc thi quốc tế và khu vực. Việt Nam có thể tính đếnmột chiến lược hợp tác với các quốc gia phát triển, và có thể với cả các quốc gia đang phát triển nhưng rất thành công trong lĩnh vực này (Trung Quốc, ấn Độ) thì những hy vọng về hiện tượng “sao đổi ngôi” là hoàn toàn có thể tin cậy để các doanh nghiệp Việt Nam vươn lên. Muốn vậy, cần nghiên cứu những chính sách đặc biệt cho thu hút FDI vào lĩnh vực này.
Trên cơ sở những định hướng thu hút FDI đã đề cập ở trên, đồng thời với những đánh giá về những tác động của AFTA đối với luồng FDI tại Việt Nam và tình hình thực tế của các luồng đầu tư trên thế giới, nội dung tiếp theo đây của luận án cố gắng đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong tiến trình tự do hóa thương mại trong khu vực.
Các giải pháp đưa ra thường xuất phát từ những yếu kém tổng thể của môi trường thu hút FDI vào Việt Nam và những tác động của AFTA đối với luồng FDI này. Do vậy, các giải pháp đã được sắp xếp theo hai nhóm: nhóm giải pháp liên quan đến chính sách theo đòi hỏi của AFTA và nhóm giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh thu hút FDI vào Việt Nam trong điều kiện Việt Nam thực hiện AFTA.
Trong định hướng thu hút FDI vào Việt Nam, cũng cần xem xét đến những nghị định và tuyên bố gần đây của chính phủ liên quan đến các vấn đề thu hút FDI vào Việt Nam. Ngày 28/8/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 09/2001/NQ-CP về việc tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài thời kỳ 2001-2005. Song song với đó là chỉ thị 19/2001/CT-TTg về thực hiện nghị quyết này. Ngày 17/5/2002 Thủ tướng chính phủ ra quyết định 62/2002/QĐ-TTg ban hành Danh mục các dự án này bao gồm các dự án trọng điểm cần gọi vốn đầu tư nước ngoài cho các lĩnh vực kinh tế để triển khai thực hiện cả trong thời kỳ này và thời kỳ tiếp theo. Đây là những dự án đầu tư trong bước đi ban đầu hướng tới mục tiêu: năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Trong đó, công nghiệp dầu khí có 5 dự án; Công nghiệp khai khoáng có 15 dự án; công nghiệp hóa chất – phân bón có 29 dự án, phần lớn dự án cần vốn đầu tư từ 100 USD trở lên; công nghiệp thép có 5 dự án, mỗi dự án cần đầu tư hàng trăm triệu USD; công nghiệp cơ khí có 29 dự án; công nghiệp điện - điện tử có 12 dự án; công nghiệp giấy có 3 dự án; công nghiệp vật liệu xây dựng có 10 dự án; công nghiệp may 15 dự án; công nghiệp da giầy 2 dự án và một số dự án ở các ngành công nghiệp khác.
Chỉ điểm qua từng ấy dự án, phần lớn đều là những dự án có quy mô vốn đầu tư khá lớn, chưa nói tới hàng trăm dự án trong các ngành nông – lâm – thuỷ sản và chế biến thực phẩm, giao thông vận tải, viễn thông, xây dựng, cơ sở hạ tầng, văn hóa – y tế- giáo dục và du lịch dịch vụ ta đã thấy số vốn FDI cần huy động là rất lớn. Trên thực tế 2 năm 2001, 2002 Việt Nam mới chỉ thu hút được hơn 3,8 tỷ USD vốn đăng ký mới. Đặc biệt đáng quan tâm là chỉ có một con số nhỏ dự án “trung đích” của danh mục đã nêu. Rõ ràng là nhiệm vụ thu hút FDI trong thời gian tới là rất nặng nề.
Cuối năm 2002, Bộ kế hoạch và đầu tư đã trình Chính phủ một đề án về đẩy mạnh thu hút FDI thời kỳ 2002-2005. Nội dung chính của đề án đề cập đến việc tăng cường thu hút FDI để Việt Nam trở thành một trong những trung tâm của khu vực về sản xuất điện tử, cơ khí chế tạo và kiến nghị chính phủ xem xét khả năng nới lỏng các điều kiện và mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư, trước hết là mở rộng lĩnh vực được khuyến khích và ưu đãi đầu tư. Ngoài việc đưa ra quan điểm chính thức đối với các lĩnh vực hiện đang tạm dừng hoặc hạn chế cấp giấy phép, Đề án còn cung cấp các giải pháp để thúc đẩy đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường bất động sản, vui chơi giải trí, kinh doanh siêu thị, nới lỏng một số lĩnh vực đầu tư có điều kiện như dự án trồng rừng, du lịch lữ hành, văn hóa, dịch vụ phân phối, mở rộng thêm một số lĩnh vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư.
Trong hội nghị doanh nghiệp Châu á thường niên lần thứ 13 tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải cho biết: ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật và xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò của Nhà nước chuyển mạnh từ kiểm soát và cấp phép sang trợ giúp và tạo điều kiện cho doanh nghiệp, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch và an toàn để các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều tìm được cơ hội và thu lợi xứng đáng. Đó là những thông điệp tốt lành cho một cơ chế thông thoáng và thuận lợi cho việc thu hút FDI vào Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI thời gian tới.
2. Giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong điều kiện thực hiện AFTA
2.1. Nhóm giải pháp thích ứng với đòi hỏi của AFTA
2.1.1. Cải thiện môi trường pháp luật và thủ tục hành chính
Tham gia AFTA cũng có nghĩa là các quốc gia ASEAN phải tạo thuận lợi hóa cho hoạt động thươngmại. Chỉ riêng khía cạnh này thôi thì các quy định về luật pháp và thủ tục hành chính cũng đã phải có sự điều chỉnh cho phù hợp và thống nhất trong toàn khu vực và đơn giản hóa thủ tục cho lưu chuyển hàng hóa trong khu vực. Theo đòi hỏi trên, thì những quy định về luật pháp và thủ tục hành chính cũng sẽ phải điều chỉnh, tạo thuận lợi tối đa cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong thời gian tới Việt Nam cần tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đồng bộ rõ ràng vừamang tính ổn định vừa mang tính linh hoạt trong thời gian dài để nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư cả trong nước cũng như nước ngoài, bổ sung các luật mới như luật về cạnh tranh, bảo hiểm, thị trường chứng khoán tạo môi trường bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Như vậy Việt Nam cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và thủ tục cấp giấy phép đầu tư để tránh phiền hà, nhũng nhiễu, gây khó khăn cho nhà đầu tư. Tạo chủ trương “một cửa, một dấu” chứ không phải là “một cửa, nhiều khóa”. Thêm vào đó cần phải xóa bỏ các ràng buộc các nhà đầu tư về việc phải xác định rõ một địa điểm đầu tư nhất định ngay từ đầu, mà cứ xét duyệt dự án sau đó để nhà đầu tư tự tìm địa điểm xây dựng, triển khai và báo cáo lại. Các cơ quan quản lý Nhà nứoc chỉ nên cần báo cáo lại chứ không nhất thiết phải phê duyệt lại mỗi khi dự án có thay đổi. Như đã phân tích ở trên việc liên doanh của Việt Nam lại chủ yếu với doanh nghiệp Nhà nước và có sự phân biệt đối xử với khu vực tư nhân, do đó cần thiết phải đa dạng hóa và khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia hợp tác liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài và tiến tới cho phép các khu vực kinh tế được bình đẳng khi tham gia liên doanh, làm ăn với nước ngoài.
Việc hoàn thiện luật pháp và cải cách các thủ tục hành chính được nhấn mạnh – mặc dù đây không còn là một vấn đề mới đối với Việt Nam và các nhà nghiên cứu, song nó có tầm quan trọng bởi:
Thứ nhất, nó giải quyết những bất cập trong lĩnh vực này, nhằm tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng và thuận lợi tối đa cho các nhà đầu tư. Bởi như đã phân tích, do cạnh tranh trong thu hút FDI thời gian tới là rất lớn, đồng thời với những khó khăn và thách thức lớn trong quá trình tham gia AFTA, nếu chính phủ không có những cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực này thì sẽ cónguy cơ luồng FDI chuyển sang các nước khác trong ASEAN. Kinh nghiệm này ở trong nước thời gian qua đã cho một kiểm chứng rất rõ ràng. Khi mà thị trường trong nước là thống nhất với các doanh nghiệp ở tất cả các tỉnh thành thì địa phong nào trải thảm đỏ cho các nhà đầu tư, địa phương nào đơn giản hóa thủ tục và tạo điều kiện tối đa cho các nhà đầu tư thì địa phương đó sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn. Từ thực tế trong nước cũng sẽ thấy ngay khi hội nhập AFTA thì vấn đề môi trường luật pháp và thủ tục hành chính là quan trọng đến mức nào.
Thứ hai, việc cải cách thủ tục hành chính và môi trường luật pháp cũng là một điều kiện cần thiết chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế - thương mại trong khu vực, nhằm tạo ra sự đồng nhất và thuận lợi cho các nhà doanh nghiệp Việt Nam cũng như các nhà doanh nghiệp đến từ ASEAN. Trên cơ sở đó, sẽ tăng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0082.doc