Trong phương thức sản xuất phong kiến, chế độ sở hữu là sở hữu ruộng đất thuộc về địa chủ. Người nông dân muốn thuê ruộng để sản xuất thì phải nộp địa tô cho địa chủ. Chế độ sở hữu này tiến bộ hơn chế độ sở hữu trong phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ. Người nông dân được tự do về thân thể, họ thuê đất để tiến hành sản xuất kinh doanh. Sau khi nộp tô cho địa chủ thì phần còn lại họ được hưởng. Tuy nhiên, do năng suất lao động trong thời kỳ này vẫn còn thấp, do kỹ thuật sản xuất thủ công, lạc hậu nên họ cũng chỉ đủ sống do sưu cao thuế nặng. Khi lực lượng sản xuất phát triển, các kỹ thuật sản xuất mới, hiện đại ra đời, sản xuất không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nữa mà mở sang lĩnh vực công nghiệp. Trong xã hội xuất hiện một giai cấp mới đó là giai cấp tư sản, giai cấp này ngày càng lớn mạnh. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ không còn phù hợp nữa, nó kìm hãm sản xuất lớn tất yếu nó sẽ bị thay thế bởi chế độ sở hữu mới tiến bộ hơn và phù hợp hơn đó là chế độ tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, đưa xã hội lên phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn là phương thức tư bản chủ nghĩa.
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1806 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển lực lượng sản xuất với sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quá trình khách quan của sản xuất. Việc sử dụng hợp lý các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất sẽ cho phép toàn bộ hệ thống quan hệ sản xuất có khả năng vươn lên tối ưu. Trong trường hợp ngược lại, các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế, xã hội hiện nay.
Bên cạnh đó, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Quan hệ trong phân phối sản phẩm là quan hệ chặt chẽ với nhau cùng mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không ngừng tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi cho người lao động. Mặc dù còn phụ thuộc vào quan hệ sở hữu, vào trình độ của tổ chức quản lý, song nó có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con người, nên xem nó là “Chất xúc tác” của các quá trình kinh tế-xã hội.
Với tính cách là những quan hệ kinh tế khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất thuộc đời sống xã hội: Quan hệ sản xuất là hình thức của lực lượng sản xuất và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần xã hội. Ba mặt quan hệ đó trong quá trình sản xuất xã hội luôn gắn bó với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất.
CHƯƠNG II:
QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA SỰ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VỚI SỰ ĐA DẠNG HOÁ CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU Ở VIỆT NAM
I. Phạm trù sở hữu và một số vấn đề liên quan:
1. Sở hữu, quan hệ sở hữu và chế độ sở hữu:
Theo quan điểm Mác: “sở hữu được biểu hiện trong những hình thái của quan hệ sản xuất”. Sở hữu là nội dung bên trong của chính thể mang tính thống nhất. Tính hiện thực của sở hữu chỉ được nhận thức một cách gián tiếp thông qua các quan hệ giữa các thành tố của quan hệ sản xuất chứ không thể nhận thức một cách trực tiếp vì sở hữu là tổng hoà giữa các quan hệ sản xuất. Sở hữu bắt nguồn từ sự chiếm hữu giới tự nhiên mang tính chất công đồng, hình thái đầu tiên của quan hệ sản xuất trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đến hình thái kinh tế xã hội sơ tính cá nhân đối lập với cộng đồng và dẫn đến sự tách biệt về sở hữu. Đó là tiến trình từ sở hữu thị tộc, bộ lạc trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đến chế độ sở hữu cá nhân. Sở hữu được hình thành từ sự chiếm hữu đối tượng để tiến hành sản xuất thoả mãn với nhu cầu của con người. Do đó, sở hữu mang tính tất nhiên, sự chiếm hữu mang lại quyền hạn cho chủ sở hữu. Sản xuất phát triển thì quan hệ sở hữu ngày càng phát triển.
Như vậy, sở hữu là mối quan hệ giữa con người với con người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất cùng với các điều kiện sản xuất. Do đó, sở hữu là một mặt của quan hệ sản xuất.
Người ta phân biệt hai loại sở hữu: sở hữu mang tính dân sự và sở hữu tư liệu sản xuất.
Theo những phân tích trên, quan hệ sở hữu được thể hiện qua ba mặt, trong đó mặt cơ bản là quan hệ sở hữu.
Quan hệ sở hữu là một quan hệ sản xuất, là quan hệ giữa người với người, là một thể thống nhất mang tính lịch sử và tương ứng với một giai đoạn nhất định của lực lượng sản xuất. Con người không thể tự do lựa chọn các quan hệ sở hữu một cách chủ quan duy ý chí. Việc xây dựng các hình thức sở hữu trong chủ nghĩa xã hội, nhất là trong giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội cần phải tính đến những sự thay đổi về trình độ của lực lượng sản xuất, của sự phân công lao động và đến lợi ích của người lao động nhằm tạo ra động lực cho quá trình phát triển sản xuất, phát triển xã hội.
Trước đây, chúng ta có những nhận thức chưa đúng, nổi bật là đã tuyệt đối hoá mặt sở hữu về tư liệu sản xuất, đẩy nhanh quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa để xoá bỏ hình thức sở hữu tư nhân và các hình thức khác nhằm xác lập chế độ công hữu dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Đối với sở hữu tập thế, mọi tư liệu sản xuất của người lao động từ cái cày, cái cuốc, con trâu đến ruộng đất đều bị tập thể hoá. Từ đó quá trình sản xuất và phân phối đều do ban quản trị điều hành. Thế nhưng toàn bộ tài sản được tập thế hoá cũng không phải là của xã viên mà cũng không phải của ban quản trị, cũng không phải của nhà nước. Nó chẳng của ai cả, vô hình trung đã trở thành không có chủ đích thực. Quy mô của hợp tác xã càng lớn thì tính vô chủ đối với tư liệu sản xuất càng cao. Do đó, phát sinh tình trạng lãng phí, tham ô khá phổ biến. Từ đó dẫn đến hiệu quả kinh tế ngày càng giảm sút và xã viên không gắn bó cùng hợp tác xã.
Đối với sở hữu toàn dân, loại sở hữu này cũng dẫn đến tình trạng vô chủ vì người lao động trong các doanh nghiệp quốc doanh chỉ là người làm công ăn lương, còn giám đốc tuy do nhà nước bổ nhiệm nhưng họ cũng là người hưởng lương như người lao động.
Đây chính là cơ sở kinh tế xã hội làm phát sinh tình trạng quan liêu, cửa quyền, tham ô. Thực chất của chế độ công hữu với hai hình thức toàn dân và tập thể ở nước ta là như vậy, nhưng chúng ta lại lầm tưởng đó là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và đã cố gắng bảo vệ nó.
Xét về mặt quan hệ sở hữu, nó là nội dung tương đối quan trọng của quan hệ sản xuất. Đó là quan hệ giữa người với người trong sự chiếm hữu hay nói cách khác đó là hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cải. Do đó, cũng như quan hệ sản xuất, sự vận động của quan hệ sở hữu về hình thức, mức độ và phạm vi không phải là ý muốn chủ quan của con người mà là khách quan do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
Chế độ sở hữu: chế độ sở hữu bao gồm 3 nội dung:
Thứ nhất, đối tượng của sở hữu là sở hữu tư liệu tiêu dùng, sở hữu tư liệu sản xuất, sở hữu vốn, sở hữu chất xám, sở hữu bản quyền.
Thứ hai là nội dung kinh tế của sở hữu
Thứ ba là nội dung pháp lý của sở hữu
Ba mặt trên của chế độ sở hữu thống nhất với nhau và chỉ có thể đảm bảo tính thống nhất của ba mặt đó thì chế độ sở hữu mới phát huy đựoc hiệu quả và không trở thành hình thức. Trong chế độ sở hữu, cần phân biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất.
Trong nền kinh tế tự cung tự cấp và trong nền sản xuất hàng hoá nhỏ thì quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất là đồng nhất với nhau. Đó là sở hữu của những nông dân và thợ thủ công. Người sở hữu cũng là người sử dụng tư liệu sản xuất đó.
Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thì quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất lại có những diễn biến đa dạng do sự xuất hiện của nhiều loại hình sở hữu, nhiều chủ thể sở hữu và các cấp độ khác nhau. Do đó, quyền sở hữu và quyền sử dụng có thể thuộc về chủ thể duy nhất, cũng có thể là quyền sở hữu thuộc người này nhưng quyền sử dụng lại thuộc về người khác, tức là có sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng.
Loài người đã trải qua nhiều chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, nhưng trong đó có hai loại hình sở hữu cơ bản, đó là sở hữu công cộng (xã hội) và sở hữu tư nhân. Mỗi chế độ sở hữu lại có nhiều trình độ và hình thức biểu hiện cụ thể khác nhau. Chế độ công hữu có các trình độ và hình thức biểu hiện như: sở hữu công xã, sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể…Chế độ tư hữu cũng có nhiều trình độ và nhiều hình thức như: sở hữu của nông dân cá thể, sở hữu của người sản xuất hàng hoá nhỏ, sở hữu của địa chủ, sở hữu của nhà tư bản.
Sở hữu xã hội là loại hình sở hữu mà trong đó những tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về mọi thành viên trong xã hội. trên cơ sở đó, vị trí bình đẳng trong tổ chức lao động xã hội và phân phối sản xuất. Mục đích sản xuất dưới chế độ công hữu là để đảm bảo đời sống và vật chất của người lao động được nâng cao. Sở hữu xã hội có hai hình thức cơ bản: sở hữu của thị tộc, bộ lạc trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ trong phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ. Sở hữu tập thể (hợp tác xã) và sở hữu toàn dân(quốc doanh) trong phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
2. Sự hình thành, phát triển và biến đổi của sở hữu là một quá trình lịch sử tự nhiên:
Đi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội trong lịch sử, từ phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản, ta thấy tương ứng với lực lượng sản xuất thì cũng có các quan hệ sản xuất khác nhau, từ đó mà cũng tồn tại các quan hệ sở hữu khác nhau. Tức là sự phát triển của sở hữu là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Như phần trên chúng ta đã làm rõ khái niệm sở hữu, sở hữu về tư liệu sản xuất là hình thái xã hội của sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất, là một nội dung chủ yếu trong quan hệ sản xuất xã hội và nền sản xuất xã hội. Hình thức, mức độ, phạm vi và tính đa dạng của sở hữu khhông phải do ý muốn chủ quan của con người quyết định mà nó là một quá trình lịch sử tự nhiên. Điều đó có nghĩa sự xuất hiện, tồn tại, phát triển và chuyển hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất là do tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
Về mặt lý luận, theo Mác, sự biến đổi của các hình thức sở hữu được quyết định bởi quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mác đã dùng quy luật này để lý giải sự ra đời và phát triển của năm phương thức sản xuất xã hội trong lịch sử và coi phương thức sản xuất xã hội là nhân tố có ý nghĩa quyết định. Trong tác phẩm “Tuyên ngôn cộng sản”, Mác đã nhấn mạnh: “Chủ nghĩa cộng sản không xoá bỏ của ai quyền chiếm hữu các của cải mà chỉ xoá bỏ việc dùng những của cải ấy để nô dịch lao động của người khác”(5). Để nhấn mạnh quan điểm về sự biến đổi của các hình thức sở hữu như là quá trình lịch sử tự nhiên, Ăngghen khuyên rằng: ‘Không thể xoá bỏ ngay tư hữu và thiết lập ngay chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” bởi vì sự tồn tại của các hình thức là khách quan, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
Về mặt thực tiễn, chế độ sở hữu đã từng tồn tại trong lịch sử tương ứng với các phương thức sản xuất nhất định.
Trong phương thức sản xuất Cộng sản nguyên thuỷ, chế độ sở hữu là sở hữu tập thể của các thị tộc và bộ lạc về tư liệu sản xuất cũng như của cải kiếm được. Ở chế độ cộng sản nguyên thuỷ, hình thức sản xuất chủ yếu là săn bắt, hái lượm, công cụ sản xuất rất thô sơ, chủ yếu là cung tên, rìu đá. Tổ chức xã hội dưới hình thái các thị tộc, bộ lạc. Do đặc điểm tổ chức xã hội và trình độ phát triển của sản xuất rất thấp như vậy nên hình thức sở hữu trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đó là sở hữu tập thể và các tư liệu sản xuất và từ đó cũng sở hữu tập thể về thức ăn, của cải kiếm được. Mọi người trong bộ lạc đều phải đi săn bắt, hái lượm đem về trong các hang đá, và cùng ăn, cùng hưởng. Như vậy, tương ứng với trình độ phát triển rất thấp của lực lượng sản xuất trong phương thức sản xuất. Khi các công cụ sản xuất dần phát triển, lực lượng sản xuất phát triển thì trong các thị tộc, bộ lạc bắt đầu xuất hiện của cải dư thừa, không tiêu dùng hết. Chúng lại thuộc về các tộc trưởng, từ đó nảy sinh tư hữu. Như vậy, do sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi tương ứng với nó là quan hệ sở hữu hay nói rộng hơn là quan hệ sản xuất phù hợp với nó, đưa xã hội lên một phương thức sản xuất cao hơn đó là phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ.
Trong phưong thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, chế độ sở hữu là sở hữu của các chủ nô về tư liệu sản xuất và cả người nô lệ. Của cải sản xuất ra thuộc toàn bộ về các chủ nô. Ở giai đoạn này, các chủ nô sở hữu các đồn điền, các tư liệu sản xuất khác, mua các nô lệ như các hàng hoá khác và tiến hành tổ chức sản xuất. Hình thức sản xuất chủ yếu không phải là săn bắn, hái lượm nữa mà chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi trong các đồn điền, nông trang. Như vậy, do lực lượng sản xuất phát triển mà đòi hỏi tương ứng với nó phải là hình thức sở hữu, quan hệ sản xuất và hình thức sản xuất phù hợp. Hình thức sở hữu tập thể của các công xã không còn phù hợp nữa, kìm hãm sản xuất tất yếu đòi hỏi chế độ sở hữu mới đó là sở hữu của các chủ nô về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, lực lượng sản xuất không chỉ phát triển đến đó mà nó còn tiếp tục phát triển. Khi mà lực lượng sản xuất phát triển tới một trình độ nhất định thì sở hữu của chủ nô về tư liệu sản xuất và người nô lệ không còn phù hợp nữa, nó kìm hãm sản xuất, người nô lệ không chịu nổi những áp bức bóc lột hà khắc đó nữa, họ đứng lên lật đổ giai cấp chủ nô, đưa xã hội lên một phương thức sản xuất mới là phương thức sản xuất phong kiến tiến bộ hơn.
Trong phương thức sản xuất phong kiến, chế độ sở hữu là sở hữu ruộng đất thuộc về địa chủ. Người nông dân muốn thuê ruộng để sản xuất thì phải nộp địa tô cho địa chủ. Chế độ sở hữu này tiến bộ hơn chế độ sở hữu trong phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ. Người nông dân được tự do về thân thể, họ thuê đất để tiến hành sản xuất kinh doanh. Sau khi nộp tô cho địa chủ thì phần còn lại họ được hưởng. Tuy nhiên, do năng suất lao động trong thời kỳ này vẫn còn thấp, do kỹ thuật sản xuất thủ công, lạc hậu nên họ cũng chỉ đủ sống do sưu cao thuế nặng. Khi lực lượng sản xuất phát triển, các kỹ thuật sản xuất mới, hiện đại ra đời, sản xuất không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nữa mà mở sang lĩnh vực công nghiệp. Trong xã hội xuất hiện một giai cấp mới đó là giai cấp tư sản, giai cấp này ngày càng lớn mạnh. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ không còn phù hợp nữa, nó kìm hãm sản xuất lớn tất yếu nó sẽ bị thay thế bởi chế độ sở hữu mới tiến bộ hơn và phù hợp hơn đó là chế độ tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, đưa xã hội lên phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn là phương thức tư bản chủ nghĩa.
Trong phương thức tư bản chủ nghĩa, tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Các nhà tư bản sở hữu về vốn, tư liệu sản xuất, kỹ thuật đứng ra lập các xí nghiệp tư bản, thuê nhân công và trả lương cho họ, sản phẩm làm ra thuộc về nhà tư bản. Do chế độ tư hữu trong thời kỳ này phù hợp, nó phát huy được tối đa sức sản xuất trong xã hội vì mục tiêu của sản xuất là lợi nhuận. Năng suất lao động dưới chủ nghĩa tư bản cao gấp nhiều lần trong các phương thức sản xuất trước đó, khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản, lực lượng sản xuất vẫn tiếp tục phát triển trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất ngày càng cao tất yếu đòi hỏi quan hệ sở hữu hay quan hệ sản xuất phải thay đổi theo cho phù hợp. Ở thời điểm hiện nay, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn còn tồn tại là do những yếu tố tích cực, hợp lý của nó vẫn còn tồn tại. Theo phân tích của Mác, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ bị thay thế bởi phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà ở đó chế độ sở hữu là sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất.
Giai đoạn chủ nghĩa xã hội, ở giai đoạn này, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa cao như chủ nghĩa cộng sản đòi hỏi quan hệ sở hữu cũng phải phù hợp với lực lượng sản xuất đó. Tuy nhiên trước đây, do nhận thức chưa đúng, chúng ta đã thay đổi quan hệ sở hữu bằng cách công hữu hoá một cách vô hạn đó, công hữu hoá càng nhiều, càng nhanh càng tốt mà không xét đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
3. Cơ cấu sở hữu ở Việt Nam trong các thời kỳ trước:
a) Giai đoạn 1945-1959:
Việt Nam là nước nông nghiệp với tỷ lệ khá lớn dân cư sống nhờ vào ruộng đất nên chế độ sở hữu ruộng đất là vô cùng quan trọng. Dưới chế độ phong kiến thực dân, cuộc sống của người dân là vô cùng khó khăn. Sau khi cách mạng tháng tám thành công, ngày 02/09/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, một nhà nước công-nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á ra đời với mục tiêu xây dựng một chế độ xã hội mới theo con đường phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Nhà nước Việt Nam đã ban hành hiến pháp 1946 để quy định, bảo hộ các quyền công dân. Hiến pháp này đã tạo cơ sở pháp lý và từ đây quyền sở hữu tài sản riêng của công dân trở thành quyền hiến định. Nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc đó phải xoá bỏ quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất quan trọng của thực dân Pháp, của các đế quốc khác, các thế lực phản động và thù địch, của giai cấp địa chủ phong kiến. Điều 12 Hiến pháp ghi: “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt nam được bảo đảm”. Quy định này của Hiến pháp 1946 thật sự dân chủ, nhân quyền, xuất phát từ thực tiễn, yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng khi đó là: “bảo đảm lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”. Nói cách khác, pháp luật giai đoạn này đã tạo ra những tiền đề quan trọng trong việc xác lập quan hệ sở hữu nới dưới chính quyền dân chủ nhân dân. Từ đó, xây dựng cơ sở vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của chế độ mới. Trong giai đoạn này, ta đã dùng chính quyền vô sản làm công cụ cải tạo xã hội thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta coi công hữu là mục tiêu.
b) Giai đoạn 1959-1960:
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc việt Nam được giải phóng, nhân dân miền Bắc xây dựng hậu phương vững mạnh để chi viện sức người, sức của cho đồng bào miền Nam tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam. Điều 11 Hiến pháp quy định: “Ở nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trong thời kỳ quá độ, các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất hiện nay là: hình thức sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ, và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc”.Hiến pháp thời kỳ này xác định chế độ sở hữu, thành phần kinh tế, nguyên tắc quản lý nền kinh tế là chính sách kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhưng phù hợp với điều kiện đất nước có chiến tranh. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất được xác lập cùng với nó là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Hiến pháp 1959 thừa nhận sự tồn tại của bốn hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất, sở hữu của nhà tư sản dân tộc. Nhà nước chỉ trưng mua, trưng dụng, trưng thu khi cần thiết vì lợi ích chung. Trong những năm này, tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng được phân phối theo kế hoạch, cho nên các giao lưu dân sự không phát triển, vì vậy cá nhân có quyền sở hữu đối với tư liệu tiêu dùng để phục vụ nhu cầu sinh hoạt.
c) Giai đoạn 1980-1986:
Sau khi đất nước thống nhất, năm 1980, Nhà nước ban hành Hiến pháp mới. Điều 17 Hiến pháp 1980 quy định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa, các xí nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp quốc doanh; ngân hàng và tổ chức bảo hiểm; công trình phục vụ lợi ích công cộng; hệ thống đường sắt, đường bộ, đường sông, đường biển, đường không; đê điều và công trình thuỷ lợi quan trọng; cơ sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, cơ sở văn hoá và xã hội cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước-đều thuộc sở hữu toàn dân”.
Tóm lại, trước khi tiến hành đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng và hoàn thiện chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa với hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, hơn nữa còn cho rằng sở hữu tập thể chỉ là một bước quá độ để đi đến sở hữu toàn dân. Về tính khách quan, hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể đã đóng góp và phát huy vai trò to lớn nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp kinh tế-xã hội… Thực tế, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, năng suất lao động thấp… Về tính chủ quan, do quá nhiệt tình, cộng với sự thiếu hiểu biết nhận thức không đúng nhiều luận điểm của chủ nghĩa Mác-lênin, nên đã tuyệt đối hoá tính hơn hẳn của sở hữu xã hội chủ nghĩa. Một thời gian dài chúng ta đã định kiến với sở hữu cá nhân của người lao động, thậm chí coi nó là hình thức đối lập với chủ nghĩa xã hội, là mầm mống khôi phục chế độ bóc lột. Thật ra, sở hữu cá nhân không biến thành tư bản, không biến thành công cụ để bóc lột người lao động. Sở hữu cá nhân chủ yếu đối với các vật phẩm tiêu dùng, nhằm thoả mãn các nhu cầu của người lao động phụ thuộc vào trình độ của sở hữu xã hội. Trước tình hình: Năng suất lao động thấp kém, hàng hoá khan hiếm thiếu lương thực, khủng hoảng kinh tế-xã hội, Đảng ta đã nhìn nhận lại, nhận thức lại. Từ đây, đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam được tập trung trong văn kiện Đại hội VI (1986) và tiếp tục sau này được các Đại hội VII, VIII khẳng định là: Chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
II. Sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở Việt Nam
1. Một số vấn đề phát triển lực lượng sản xuất với sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở Việt Nam:
1.1. Một số vấn đề phát triển lực lượng sản xuất:
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, dưới sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển, ảnh hưởng tới sự phát triển nhiều mặt của nước ta.
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều có quy luật vận động và phát triển của nó. Lực lượng sản xuất cũng vậy, biến đổi dần dần về số lượng và biến đổi căn bản từ chất cũ sang chất mới.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất là bước nhảy vọt căn bản, tạo nên một chất lượng hoàn toàn mới trong kết cấu, cấu trúc cũng như trong mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. Sự phát triển trong lực lượng sản xuất có đặc tính làm thay đổi căn bản những tư liệu lao động, quy trình công nghệ cơ sở khoa học của sản xuất, lực lượng sản xuất.
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội trong tình trạng đất nước lạc hậu, trình độ còn thấp kém. Trong sản xuất nông nghiệp: đến năm 80, nền nông nghiệp chưa vượt ra khỏi khuôn khổ của nền sản xuất nhỏ, nó chỉ mới đang ở ngưỡng cửa của sản xuất hàng hóa. Nông nghiệp nước ta chiếm 70% lực lượng lao động xã hội, sức kéo trâu bò mới chỉ đảm bảo được 47% diện tích canh tác, sức kéo bằng máy đảm bảo 37%, còn lại 16% diện tích chưa có sức kéo phải dùng đến sức người để thay thế.
Về trình độ văn hóa và trình độ kỹ thuật của người lao động ở nước ta đang còn thấp, năng lực quản lý còn kém, tỉ lệ cán bộ ở trình độ đại học đạt 3,7%.
Trong lực lượng sản xuất, chúng ta chỉ chú ý đến tư liệu sản xuất, thiếu sự cân xứng cần thiết ở yếu tố con người vả về trình độ lẫn thái độ lao động của con người. Bản thân con người là yếu tố chủ thể quan trọng nhất trong sản xuất, song đặt trong cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp nên trở nên thụ động, năng lực sáng tạo bị ức chế, mất đi một cách tự nhiên. Chính vì vậy, nó đã kìm hãm tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất. Đi lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi tất yếu phải thực hiện hiện đại hóa lực lượng sản xuất, tạo nên sự phát triển cho lực lượng sản xuất.
Con người có thể tác động trực tiếp đến quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, có thể đẩy nhanh hay kìm hãm sự phát triển đó, thông qua những hoạt động phù hợp hay không phù hợp với những quy luật vận động của lực lượng sản xuất với quy luật quan hệ sản xuất.
Tóm lại, lực lượng sản xuất là một yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy, phát triển đất nước.
1.2. Tính tất yếu khách quan của sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở Việt Nam hiện nay
Đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở nước ta là tất yếu khách quan, xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sau:
Trước hết, từ đặc điểm của thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nền kinh tế chưa thể đơn nhất hoá hình thức sở hữu tư liệu sản xuất. Nhận thức tính khách quan của sự tồn tại các loại hình sở hữu trong thời kỳ quá độ, Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII chỉ rõ: “…phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao, với sự đa dạng về hình thức sở hữu”.
Hai là, từ sự phát triển không đều của lực lượng sản xuất giữa các vùng, ngành kinh tế ở nước ta hiện nay.Nền kinh tế ở nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ là phổ biến. Do đó, sự phát triển của lực lượng sản xuất rất không đều nhau giữa các vùng, ngành kinh tế của đất nước. Chính vì thế, đòi hỏi phải có các hình thức sở hữu tương ứng, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở từng vùng miền khác nhau. Điều đó cũng có nghĩa là, với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay chưa thể đơn nhất hoá, mà đa dạng hình thức sở hữu tư liệu sản xuất trở thành tất yếu khách quan.
Ba là, thực tiễn nước ta trước đây và hiện nay. Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ tồn tại hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Sự vượt trước của quan hệ sản xuất trong khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất chưa cho phép, đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất xã hội. Đất nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội,. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã mở ra thời kỳ mới cho đất nước bằng sự nghiệp đổi mới toàn diện xã hội. Thực hiện nhất quán đường lối đa dạng hoá hình thức sở hữu, xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.3. Các hình thức sở hữu ở Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa:
Chúng ta tiến hành công cuộc đỏi mới, tiến hành hoàn thiên quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trước hết là điều chỉnh các hình thức sở hữu vốn có, là kết hợp một cách tối ưu các lợi ích: cá nhân, tập thể và nhà nước. Cơ sở lý luận của việc xác lập tín
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất với sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu ở Việt Nam qua các thời kỳ.doc