LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN I: NHẬN THỨC CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 3
I.1. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI. 4
I.1.1. Mức chênh lệch lạm phát giữa các quốc gia 4
I.1.2. Tình trạng cán cân thanh toán quốc tế. 4
I.1.3. Sự chênh lệch mức lãi suất. 4
I.2. CÁC CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI. 4
I.2.1. Chế độ tỷ giá hối đoái cố định. 5
I.2.2. Chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt. 6
PHẦN II: TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM. 7
II.1. GIAI ĐOẠN TỪ 1954 - 1989. 8
II.2. GIAI ĐOẠN TỪ 1989 ĐẾN NAY. 9
II.2.1 Thời kỳ từ năm 1989 - 1993: 10
II.2.2. Thời kỳ năm 1993 - 1996: 15
II.2.3. Thời kỳ điều hành tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước từ năm 1997 đến nay. 18
PHẦN III: XÂY DỰNG HỆ THỐNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI THẢ NỔI CÓ SỰ QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM. 21
III.1. CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI. 21
III.1.1. Hiện trạng kinh tế tài chính đất nước. 21
III.1.2. Bối cảnh kinh tế - chính trị và tài chính thế giới . 22
III.2. NHỮNG MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ. 23
III.3. NHIỆM VỤ CỦA CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI. 24
III.4. NHỮNG NGUYÊN LÝ CẦN TUÂN THEO KHI ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI THẢ NỔI CÓ SỰ QUẢN LÝ. 25
III.5. CƠ CHẾ VẬN HÀNH CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ THẢ NỔI CÓ QUẢN LÝ. 25
III.5.1. Xác định cung cầu trên thị trường ngoại hối. 25
III.5.2. Kết hợp chính sách quản lý ngoại hối với chính sách lãi suất. 26
III.5.3. Cơ chế điều chỉnh lãi suất từ từ dần tiến tới một sự cân bằng hợp lý. 26
III.5.4. Điều chỉnh tỷ giá theo mức độ và cơ chế cung ứng tiền. 27
KẾT LUẬN 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan hệ giữa tỷ giá hối đoái với cán cân thương mại và một số giải pháp xây dựng tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rất xa với tỷ giá thực tế (giá trị thị trường). Tuy chênh lệch tỷ giá đã được ấn định sát với thị trường hơn trong việc tự tạo ra một tỷ giá chính thức bóp méo so với thực tế đã không phản ánh được các quan hệ kinh tế quốc tế và làm cho các quan hệ kinh tế chưa đạt được hiệu quả mong muốn.
Chính sách giữ tỷ giá hối đoái thấp của Việt Nam đã đánh giá cao đồng tiền việt một cách giả tạo. Tỷ giá USD/VNĐ do ngân hàng Nhà nước ấn định chỉ bằng 1/3, 1/2 so với giá thị trường.
Năm
Tỷ giá hình thức
Tỷ giá thị trường
Chênh lệch
1985
15
115
7,6 lần
1986
80
425
5,6 lần
1987
368
1270
3,5 lần
1988
3000
5000
1,7 lần
1899
3900
4100
1,1 lần
Sự áp đặt tỷ giá giao dịch chính thức tưởng là giữ được giá trị đồng Việt Nam với các đồng ngoại tệ nhưng đã đẩy xuất khẩu Việt Nam vào ngõ cụt. Không khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, đẩy mạnh nhập khẩu làm cho cán cân thương mại bị nhập siêu nghiêm trọng.
Việc tự ý nâng cao giá trị đồng tiền một cách thiếu cơ sở đã khiến các công ty xuất khẩu phản ứng lại bằng cách thực hiện phương châm “dùng lãi hàng nhập bù lỗ hàng xuất” nguyên nhân của tình trạng đồng nội tệ bị đánh giá quá cao là do khi xác định tỷ giá chính thức đã loại bỏ yếu tố lạm phát. Tỷ giá chính thức của đồng Việt Nam với ngoại tệ không được điều chỉnh tương ứng với lạm phát. Tuy nhiên những tác động tiêu cực của tỷ giá hối đoái trên chưa được biểu hiện rõ trong nền kinh tế đóng trong cơ chế độc quyền về ngoại thương vì quan hệ ngoại thương của Việt Nam thời kỳ này chủ yếu với các nước SEV. Tuy cán cân thương mại đã có những chuyển biến tích cực song tình trạng nhập siêu vẫn là phổ biến tỷ lệ xuất /nhập khẩu của giai đoạn 1975 - 1980 là 1/ 4,2 ; giai đoạn 1981 - 1985 là 1/1,28; giai đoạn 1986 - 1990 là 1/ 1,8.
II.2. Giai đoạn từ 1989 đến nay.
Nhà nước đã xoá bỏ các tỷ giá hối đoái trước đây như tỷ giá kết toán nội bộ và thực hiện chế độ một tỷ giá. Tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh gần sát với thị trường. Nhà nước đã giao cho ngân hàng Trung ương công bố tỷ giá chính thức giữa đồng Việt Nam với các ngoại tệ mạnh đặc biệt là USD và cho phép các ngân hàng thương mại được xây dựng tỷ giá hàng ngày với mức chênh lệch 5% so với tỷ giá chính thức. Ngoại trừ sự đột biến về tỷ giá vào cuối năm 1991 và đầu năm 1992 thì giao động của tỷ giá hối đoái là tương đối ổn định. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa dao động từ khoảng 4.500 đồng/ 1USD lên khoảng gần 13.000 đồng vào cuối năm 1991 đầu năm 1992. Ngân hàng Việt Nam đã can thiệp nâng giá đồng Việt Nam, đồng thời giữ ổn định tỷ giá ở mức 10.000 - 11.000 đồng/ 1USD trong suốt thời gian từ 1992 đến hết 1996. Đầu năm 1997 đến nay ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá chính thức, nới rộng liên độ giao dịch từ - 5%, rồi - 10% đưa tỷ giá giao dịch từ 10970 đồng/ 1USD năm 1996 lên đến 12984 đồng/ 1USD vào quí II năm 1998.
Nhờ áp dụng tỷ giá hối đoái mới nên đã mang lại những kết quả thiết thực và quan trọng cho ngoại thương Việt Nam. Kinh doanh xuất nhập khẩu được đẩy mạnh đặc biệt là khuyến khích xuất khẩu góp phần tăng nhanh doanh số xuất nhập khẩu cải thiện cán cân thương mại. Chế độ tỷ giá cũng có những thay đổi căn bản. Nhà nước đã áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của Nhà nước nhưng việc điều hành của Nhà nước trong từng năm có khác nhau, ta có thể tạm thời chia làm 3 thời kỳ.
II.2.1 Thời kỳ từ năm 1989 - 1993:
Trong giai đoạn này tình hình tỷ giá hối đoái lạm phát và xuất nhập khẩu được thể hiện qua bảng số sau:
Tỷ giá USD/VNĐ
Tỷ lệ lạm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Năm
Giá chính thức Nhà nước
Giá thị trường tự do
Tăng giảm %
phát%
(Triệu USD)
(Triệu USD)
1
2
3
4
5
6
7
1989
4.200
4.570
+8,80
34,7%
1946
2.566
1990
6.650
7.550
+13,550
67,50
2.404
2.752
1991
12.720
12.550
-0,02
68,00
2.087
2.338
1992
10.720
10.550
-0,02
17,50
2.581
2.541
1993
10.835
10.736
-0,01
5,20
2.989
3.879
Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy tỷ giá USD/ VNĐ qua các năm có biến động lên xuống, tuy nhiên nhìn tổng thể trong thời gian này tỷ giá USD/VNĐ có khuynh hướng tăng và được Nhà nước điều chỉnh sát với thị trường tự do làm cho khuynh hướng xuất nhập khẩu tăng theo tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1989 là 4.512 triệu USD và năm 1993 là 6.868 triệu USD tăng 1,5 lần tuy rằng cả thời kỳ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên song tình trạng nhập siêu vẫn là phổ biến dẫn đến cán cân thương mại luôn ở trong tình trạng thâm hụt năm 1989 thâm hụt là 620 triệu USD; năm 1990 là 348 triệu USD; năm 1991 là 251 triệu; năm 1993 là 890 triệu USD, ngoại trừ trường hợp năm 1992 có thặng dư 40 triệu USD.
Qua bảng số liệu trên cũng cho ta thấy tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do của đồng đô là trong những năm 1990 ít thay đổi. Sự lên giá của đồng đô la trong những năm 1991 (đặc biệt là những tháng cuối năm) làm tỷ giá này dâng lên rõ rệt, và sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá Việt Nam được cải thiện. Tuy nhiên xu hướng hạ giá đồng đô la trong năm 1992 làm cho giá trên thị trường giảm mạnh làm xấu đi khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Đáng tiếc là xu hướng này vẫn được tiếp tục duy trì trong khi tỷ giá danh nghĩa của đồng đô la so với đồng Việt Nam biến động không đáng kể so với năm 1992. Hay nói cách khác đồng nội tệ hiện vẫn trong tình trạng bị đánh giá cao so với đồng ngoại tệ. Mặt khác khi tỷ giá thực tế (tỷ giá trên thị trường) thay đổi nó không lập tức ảnh hưởng ngay đến cán cân thương mại mà cần phải có một thời gian nào đó để những nhà xuất khẩu và nhập khẩu mới thay đổi được quyết định của mình cho phù hợp với sức ép của tỷ giá. Sự thay đổi tỷ giá thực tế từ năm 1989 - 1991 đã có lợi cho khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam năm 1992 đã có thặng dư 40 triệu USD. Tuy nhiên số liệu về cán cân thương mại trên chưa thực sự phản ánh tình trạng mậu dịch của Việt Nam với các quốc gia khác. nó đã bỏ qua những hoạt động xuất nhập khẩu ngầm, trong đó lượng hàng hoá xuất nhập khẩu bất hợp pháp chắc chắn là đáng kể. Tính đến cả điều này thì kết luận về tính bất lợi của tỷ giá danh nghĩa ngày càng được khẳng định. Ngay cả tỷ giá thực tế những năm 1989 - 1990 vẫn chưa đủ để đảm bảo sự thăng bằng trong cán cân thương mại.
Do tỷ giá hối đoái hình thành và vận động căn cứ vào hàng loạt yếu tố cộng với hoàn cảnh điều kiện Việt Nam trình độ phát triển kinh tế thấp, kim ngạch ngoại thương nhỏ và thường xuyên trong tình trạng nhập siêu thì mức tỷ giá hối đoái được hình thành căn cứ vào những yếu tố. Chính đó là giá vốn xuất khẩu cung cầu thị trường trên thị trường nội địa và chính sách đối với đồng nội tệ, tình hình lạm phát.
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải phấn đấu thực sự để có chi phí xuất nhập khẩu thấp hơn tỷ giá hối đoái hình thành trên thị trường, chênh lệch giữa tỷ giá trên thị trường và chi phí xuất khẩu càng lớn thì doanh nghiệp càng có lợi. Điều này có nghĩa là với khả năng tiết kiệm chi phí bị giới hạn thì đồng nội tệ càng mất giá thì xuất khẩu càng có lợi. Đối với nhập khẩu thì ngược lại. Hàng hoá nhập về được bán với giá càng cao bao nhiêu so với tỷ giá chuyển đổi tiền tệ thì doanh nghiệp nhập khẩu càng có lợi bấy nhiêu. Hay đồng nội tệ càng có giá thì người nhập khẩu càng có lợi bấy nhiêu. Như vậy mức tỷ giá hợp lý phải nằm giữa giới hạn tỷ giá xuất khẩu và tỷ giá nhập khẩu.
Tỷ giá xuất xuất khẩu< Tỷ giá hối đoái <Tỷ giá nhập khẩu.
Tương quan nói trên giữa tỷ giá hối đoái với giá vốn xuất khẩu, tỷ giá xuất khẩu và tỷ giá nhập khẩu (tỷ giá đạt được thông qua mua bán hàng nhập khẩu thu đồng nội tệ) ở nước ta thời kỳ này diễn ra như sau:
Năm
Tháng
1
3
6
9
12
Năm 1991
1. Tỷ giá hàng nhập
7.500
8.839,4
10.200
10.541
11.300
2. Tỷ giá hàng xuất
6.456
7.160,0
7.750
9.293
9.200
3. Tỷ giá USD/VNĐ
- Mua vào
7.012,5
7.375
8.250
10.790
12.720
- Bán ra
7.048
7.407
8.290
10.845
12.915
Năm 1992
1. Tỷ giá hàng nhập
12.038
11.520
11.262
11.312
11.264,5
2. Tỷ giá hàng xuất
9.200
9.600
9.820
9.890
9.686
3. Tỷ giá USD/VNĐ
- Mua vào
11.667,5
11.370
11.111,2
10.760
10.642,2
- Bán ra
11.880,0
11.550
11.260,0
10.960
10.764,1
Năm 1993
1. Tỷ giá hàng nhập
11.880
11.460
12.3301
11.840
11.000
2. Tỷ giá hàng xuất
10.456
10.400
10.110
10.700
10.600
3. Tỷ giá USD/VNĐ
- Mua vào
- Bán ra
10.500
10.530
10.585
10.750
10.835
Tương quan tỷ giá xuất khẩu, tỷ giá nhập khẩu và tỷ giá hối đoái được minh hoạ qua sơ đồ sau đây.
USD/1.000VNĐ
Nguồn số liệu: Tạp chí ngân hàng số 11 năm 1994 trang 52.
Qua bảng trên so sánh tỷ giá xuất khẩu với tỷ giá hối đoái tại các thời điểm đồng Việt Nam mất giá mạnh so với USD thấy rõ xuất khẩu tại các thời điểm trên được khuyến khích mạnh mẽ. Đó là vào giai đoạn cuối 1991 đầu năm 1992 khi tỷ giá hối đoái tăng quá mức 1.200 VND/USD là tỷ giá hàng nhập khẩu có thể đạt được tại cùng thời điểm trong khi tỷ giá xuất khẩu, nhóm hàng nông - lâm - thuỷ sản chỉ xấp xỉ 9000 VNđ/USD. Chênh lệch gần 30% giữa tỷ giá xuất khẩu (thấp hơn) và tỷ giá hối đoái đã dẫn đến xuất siêu trong 6 tháng đầu năm 1992. Mặc dù 6 tháng cuối năm lại nhập siêu nhưng cả năm vẫn có xuất siêu (thặng dư cán cân thương mại gần 40 triệu USD. Đây là lần đầu tiên có thặng dư thương mại. Tuy nhiên do tác dụng kích thích xuất khẩu vì đồng nội tệ mất giá lại kéo theo tác dụng kìm hãm nhập khẩu. Cũng lấy ví dụ cuối năm 1991 đầu năm 1992 trong khi chênh lệch giữa tỷ giá xuất khẩu với tỷ giá hối đoái gần 30% thì chênh lệch tỷ giá nhập khẩu với tỷ giá hối đoái chỉ khoảng 15%. Khoảng cách hẹp giữa tỷ giá nhập khẩu và tỷ giá hối đoái đãn làm cho các nhà nhập khẩu ở vào thế bất lợi so với các nhà xuất khẩu. Mức tỷ giá hối đoái VNĐ/USD cao đã phản ánh vào giá vốn hàng nhập làm cho giá bán hàng nhập tại thị trường nội địa tăng lên kéo theo lạm phát cao ở cuối năm 1991, đầu năm 1992. Như vậy vào những thời điểm đột biến giá ngoại tệ (USD) lạm phát cũng tăng cao. Mức lạm phát cả năm 1991 vẫn cao (68%) còn lạm phát ở 3 tháng đầu năm 1992 thì gấp đôi 9 tháng còn lại và ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái VNĐ/USD đến giá vốn hàng nhập khẩu và hàng hoá sản xuất từ nguyên liệu vật tư nhập khẩu ỏ nước ta là rất đáng kể nếu tính đến tỷ trọng cao của giá trị vật tư nguyên liệu nhập khẩu trong giá thành. Nếu như chưa tính đến các yếu tố khác thì lợi ích do tăng xuất khẩu nhờ phá giá đồng Việt Nam là nhỏ so với tổn thất do lạm phát gây ra cho nền kinh tế trong các năm 1991 - 1992. Do giai đoạn cuối năm 1992 tương quan tỷ giá hối đoái và tỷ giá nhập khẩu bị đảo ngược do đồng Việt Nam lên giá đã khiến cho xuát khẩu bị chững lại dẫn tới dẫn tới nhập siêu 890 tỷ USD. Đường biễn diễn tỷ giá hối đoái VNĐ/USD từ chỗ sát với đường biễu diễn tỷ giá nhập khẩu giai đoạn đầu năm 1992 đã chuyển sang sát với đường biểu diễn tỷ giá nhập khẩu từ đầu năm 1993 (quý II/1993). Khi xu hướng giảm giá USD được ngăn chặn và đồng Việt Nam được phá giá dần dần thì lạm phát cũng đồng thời được kiểm soát. Một yếu tố quan trọng khác cũng chưa được xem xét một cách thoả đáng đó là tác động của cung và cầu ngoại tệ nên đã có tình trạng cân đối ngoại tệ không thiếu ở mức bình thường song vẫn xảy ra đột biến. Đó là những năm 1990 - 1991 trong khi tài khoản ngoại tệ của các tổ chức kinh tế tại ngân hàng ngoại thương lên đến 600 - 700 triệu USD nhưng do cơ chế quản lý ngoại tệ cứng nhắc nên ngoại tệ được gửi ở ngân hàng nước ngoài chứ không dùng để điều hoà tín dụng cho xuất nhập khẩu. Có thể khẳng định rằng đồng Việt Nam bị phá giá quá mức trong giai đoạn này là có căn cứ xét theo góc độ trên. Trong những năm 1992 - 1993 xảy ra cơn sốt đầu tư vào Việt Nam và do đó có một lượng ngoại tệ đáng kể của người Việt Nam ở nước ngoài chuyển về Việt Nam dưới nhiều hình thức. Theo báo chí nước ngoài dự đoán hàng năm người Việt Nam ở nước ngoài gửi về ít nhất là 500 triệu USD (Phần lớn số tiền này không qua kênh ngân hàng). Trong khi đó, thống kê của hệ thống ngân hàng cho thấy có bội thu cán cân thanh toán. Mức thặng dư về cung này gây ra giảm giá đô la vào cuối năm 1992 đầu năm 1993. Giữa đầu năm 1993 do có sự can thiệp của ngân hàng nên tỷ giá hối đoái tăng dần. Bên cạnh lý do sự can thiệp của ngân hàng tỷ giá VNĐ/USD tăng còn do một lượng cầu đáng kể được đầu tư vào bất động sản trong thời gian này. Vào thời gian những năm 1989 - 1991 giá trị đồng Việt Nam không ổn định, lạm phát cao bội chi ngân sách lớn lại được bù đắp bằng nguồn phát hành việc cung ứng tiền tệ không được kiểm soát hợp lý, quản lý ngoại tệ vừa lỏng lẻo vừa cứng nhắc hành chính đã góp phần làm chao đảo tỷ giá hối đoái VND/USD , tạo nên những cơn sốt ngoại tệ làm trầm trọng thêm lạm phát và ảnh hưởng không nhỏ đến cán cân thương mại. Từ năm 1992 - 1993 những đổi mới trong chính sách tài chính tiền tệ như chấm dứt bù đắp thiếu hụt ngân sách bằng phát hành, duy trì lãi suất tiết kiệm, đồng nội tệ cao hơn USD áp dụng tỷ giá hối đoái thị trường, quản lý lượng cung ứng tiền tệ theo tốc độ tăng trưởng và mục tiêu chống lạm phát... Do vậy đã ổn định được sức mua của đồng Việt Nam. Lạm phát giảm từ 67,5% năm 1990- 1991 xuống còn 17.5% trong năm 1992 và 5,2% trong năm 1993.
II.2.2. Thời kỳ năm 1993 - 1996:
Trong thời kỳ này Nhà nước đã chủ động can thiệp và giữ tỷ giá hối đoái ổn định trong suốt khoảng thời gian 1993 -1996 với mức biến động rất nhỏ được thể hiện qua bảng sau:
Lạm phát và tỷ giá của Việt Nam qua các năm 1993 -1996.
Năm
Tỷ giá USD/VNĐ
So sánh % năm trước
Tốc độ lạm phát
1
2
3
4
1993
1083500
100,00%
5,2%
1994
1105000
+1,98%
14,4%
1995
1104000
0%
12,7%
1996
1106000
+0,18%
4,5%
Nguồn: Tạp chí phát triển kinh tế số 93 tháng 7/1998 trang 14.
Do tỷ giá chính thức của Nhà nước và tỷ giá thị trường tự do trong thời kỳ này chênh lệch không nhiều nên ta chọn tỷ giá chính thức của Nhà nước làm cơ sở tính toán. Qua số liệu trên ta thấy tốc độ tăng của tỷ giá hối đoái chậm hơn tốc độ tăng của lạm phát vì phụ thuộc vào quan hệ cung cầu ngoại tệ, vào cụm các nhân tố kinh tế đối ngoại việc duy trì tỷ giá ổn định trong một thời gian dài đã đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố sức mua của đồng Việt Nam, kìm chế được lạm phát, góp phần đẩy mạnh thu hút vốn nội tệ vào ngân hàng, khuyến khích đầu tư nước ngoài ... Tuy nhiên, tỷ giá ổn định từ 1993 - 1996 đã không khuyến khích được xuất khẩu, làm cho ngoại thương kém phát triển và được biểu hiện qua bảng số liệu sau:
Số liệu xuất nhập khẩu qua các năm 1993 - 1996
(Đơn vị tính: Triệu USD)
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
So sánh
1
2
3
4
1993
2.989
3.879
-890
1994
4.054
5.825
-1771
1995
5.448,9
8,155,4
-2.706,5
1996
7.255
11.143
-3.888
Nguồn: Tạp chí phát triển kinh tế số 93 tháng 7/1998.
Tình trạng nhập siêu liên tục trong giai đoạn này đã tác động xấu đến xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu, gây thâm hụt cán cân thương mại dẫn tới tình trạng phải tiêu giảm dự trữ ngoại hối quốc gia hoặc phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân thanh toán. Tuy cơ cấu nhập khẩu có thay đổi tỷ trọng nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ ngày càng tăng nhưng nhập siêu vẫn kéo dài đã làm đất nước lún sâu vào nợ nần, khó khăn cho nền tài chính quốc gia.
Trở lại bảng số liệu ta thấy qua 4 năm phát triển kinh tế đất nước (1993 - 1996) tốc độ lạm phát đã tăng tổng cộng là 36,8% trong khi tỷ giá VNĐ so với USD chỉ tăng 2% đưa đến thực tế giá bán hàng nội địa đã tăng trên 30% so với hàng nhập ngoại. Hàng nhập ngoại trở nên rẻ hơn và được nhập vào thị trường nước ta với số lượng lớn, cạnh tranh với hàng nội địa, thể hiện qua sự thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của nước ta trong những năm 1993 - 1996 từ nhập siêu 890 triệu USD năm 1993 lên 1,7 tỷ USD năm 1994 lên 2,7tỷ USD năm 1995 và 3,8 tỷ USD năm 1996. Một điều dễ nhận thấy là tốc độ xuất khẩu cao trong những năm qua là kết quả của nỗ lực thay đổi cơ cấu kinh tế hướng xuát khẩu, theo chính sách mở rộng quan hệ với các quốc gia, chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và mặt bằng tỷ giá đủ đảm bảo khuyến khích xuất khẩu sang để duy trì được chính sách tỷ giá tăng phụ thuộc vào phản ứng của xuát nhập khẩu đối với tỷ giá thực. Tốc độ phát triển kinh tế trong nước, cơ cấu kinh tế, cơ cấu nhập khẩu của các nền kinh tế trên thế giới đều tác động đến xuất nhập khẩu. Trong giai đoạn 1993 -1996 nền kinh tế Việt Nam phát triển với tốc độ cao, tốc độ tăng xuất nhập khẩu hàng năm bình quân là 27% - 37% nhưng thâm hụt cán cân thương mại ngày càng tăng nếu tính theo GDP thâm hụt thương mại của Việt Nam năm 1993 là 7,3% năm 1994 là 11,7% năm 1995 là 13,3% và năm 1996 là 17%. Tốc độ tăng của xuất khẩu là khá cao 30%, do trọng tâm của chính sách là khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm và dịch vụ xuất khẩu, nâng cao chất lượng sản phẩm đầu tư vào công nghiệp chế biến và công nghiệp chế tạo theo nhiều hình thức khác nhau mà lợi thế về tiền lương, lao động vẫn còn là nhân tố lớn trong sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Khác với xuất khẩu, nhập khẩu bị tác động mạnh bởi các yếu tố thay đổi tỷ giá thực và tăng trưởng kinh tế trong nước. Nhân tố đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra một nhu cầu lớn về nhập khẩu, và đây có thể giải thích cho lý do tốc độ tăng trưởng nhập khẩu cao. Nhu cầu xăng dầu, nguyên vật liệu cần nhập khẩu trong nước cũng cao. Đời sống dân chúng được nâng cao trong những năm qua, tạo nên sự thay đổi trong nhu cầu đối với nhập khẩu các hàng hoá tiêu dùng đặc biệt là hàng hoá điện tử. Việc nhập khẩu cao, đặc biệt là thâm hụt cán cân thương mại là không thể tránh khỏi được với một nước có nền kinh tế đang phát triển có nhu cầu lớn về vốn nước ngoài, nhưng thâm hụt cán cân vàng lại trên 7% GDP là mức báo động với một nền kinh tế.
Tình trạng nhập siêu 17% GDP năm 1996 có đặc điểm khác với các năm trước là do có 2 tỷ USD L/C trả chậm chiếm 18% giá trị nhập khẩu. Vì vậy, nếu không có L/C trả chậm thì nhập siêu đã ở mức 8,5% GDP. Nhưng khối lượng L/C trả chậm lớn là nhằm đáp ứng nhu cầu nhập khẩu thiết bị máy móc và nguyên vật liệu, đồng thời đã tăng đáng kể tổng cung nên chỉ số giá hàng hoá và dịch vụ đã giảm xuống 4,5% cho cả năm 1996. Năm 1996 thâm hụt cán cân thương mại trừ L/C nhập khẩu đã được bù đắp bởi thu từ xuất khẩu, viện trợ, vay nợ và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vậy tổng giá trị L/C trả chậm đến hạn cuối năm 1996 đầu năm 1997 đã tăng nhu cầu mua ngoại tệ trong nước để trả nợ đến hạn, và nó chính là nguyên nhân gây nên áp lực giảm giá đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la (tức là tăng tỷ giá danh nghĩa).
Tỷ giá thực thấp sẽ khuyến khích mạnh nhập khẩu thiết bị máy móc, như vậy nền kinh tế sẽ hướng vào các ngành thiên về đầu tư vốn, giảm sử dụng tỷ lệ lao động, xu thế sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu sẽ tăng lên. Đồng thời giảm các ngành sản xuất hướng xuất khẩu, và do đó không tạo được nhiều công ăn việc làm đáp ứng cung lao động ngày càng cao. Tình hình trên sẽ dẫn đến nợ chồng chất mà hiệu quả sản xuất của khu vực sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu lại không cao, về trung hạn sẽ dẫn đến việc mất khả năng thanh toán nợ nước ngoài. Ví dụ đầu tư cho dự án sản xuất các loại hàng hoá thay thế nhập khẩu, như nhà máy đường, nếu nhập khẩu toàn bộ thiết bị máy móc sẽ tích tụ nợ nước ngoài, trong khi sản xuất không hiệu quả hơn là nhập khẩu đường và trong dài hạn, sản lượng đường trên thế giới đang thừa, giá đường giảm. Nhưng nếu đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm trung gian cho các ngành khác ví dụ: xi măng,sắt, thép có nhu cầu cao cho các ngành kinh tế khác, thì sẽ tăng được cung cấp hàng hoá cho đầu tư phát triển.
Từ năm 1997 đến nay Nhà nước đã có những chỉ đạo:
* Chỉ đạo xử lý nợ quá hạn từ năm 1994, hạn chế kịp thời tình trạng mở L/C thanh toán một cách tràn lan và cuối năm 1996 thông qua khống chế mức mở L/C At Sight là chủ yếu, hạn chế mở L/C trả chậm, xem xét cho nhập khẩu những mặt hàng cần thiết chủ yếu là những mặt hàng về tư liệu sản xuất, dựa vào huy động vốn trung và dài ngày càng được nâng cao và huy động vốn bằng mọi biện pháp thông qua mức ký quỹ bắt buộc.
* Điều hành tỷ giá theo tín hiệu thị trường.
Nhà nước thực hiện chính sách thả nổi có kiểm soát.
II.2.3. Thời kỳ điều hành tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước từ năm 1997 đến nay.
Giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng như thị trường ngoại tệ nói chung bị giảm sút. Thực tế 6 tháng cuối năm 1997 nhu cầu mua ngoại tệ luôn luôn cao hơn nhu cầu bán ngoại tệ và hoạt động của thị trường có lúc bị ngừng chệ. Doanh số mua 6 tháng cuối năm 1997 đạt 2,5 tỷ USD giảm 5% so với 6 tháng đầu năm 1997 doanh số bán đạt 2,6 tỷ USD giảm 1% so với 6 tháng đầu năm 1997 nhiều doanh nghiệp xuất khẩu không mua được ngoại tệ đã phải mua với giá cao và chịu lỗ rất lớn do tỷ giá tăng đột biến. Ngoại tệ tăng giá mạnh làm tăng nhu cầu vay vốn VNĐ do lãi suất thấp hơn và không chịu rủi ro về tỷ giá đã gây mất cân đối cung, cầu VNĐ trên thị trường.
Nhà nước đã mở rộng biên độ giao dịch của các ngân hàng thương mại từ 1% đến 5% rồi đến 10% những giải pháp này đã kịp thời góp phần giảm sức ép đối với tỷ giá hối đoái VNĐ.
Năm 1997 chủ nợ L/C ngắn hạn chỉ còn gần 700 triệu USD so với 1,4 tỷ USD vào tháng 6/1996. Tuy nhiên một yếu tố đã gây tác động không nhỏ đến tỷ giá hối đoái đó là cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu á gây sức ép đối với VNĐ do yếu tố tâm lý đầu cơ trên thị trường do vậy đã đẩy tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do tăng mạnh có lúc lên đén 14.600 VNĐ/USD. Sự biến động của tỷ giá hối đoái được mô tả dưới bảng sau:
Năm
Quý I
Quý II
Quý III
Quý IV
1997
11.645
11.660
11.714
12.921
1998
12.964
12.984
Mặc dù có những biến động phức tạp về tỷ giá song tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1997 vẫn tăng năm 1997 đạt được 20.050 triệu USD mức tăng xấp xỉ 9% chỉ tính riêng ở tháng đầu năm 1998 đã đạt 8.463 triệu USD. Thâm hụt cán cân thanh toán vẵng lai đạt 8,6% GDP. Trong điều kiện dự trữ ngoại tệ không nhiều, việc quản lý những khoản ngoại tệ lớn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn sang năm 1997 Việt Nam đã đạt được một số thành công đáng kể. Chính sách tỷ giá đã được điều chỉnh từng bước linh hoạt, một mặt tạo điều kiện cho giá trị đồng VNĐ phản ánh tương đối xác thực cung , cầu ngoại tệ, góp phần kìm chế lạm phát một mặt đáp ứng khả năng hỗ trợ xuất khẩu mặc dù giá cao su giảm 42% dầu thô giảm 30%, giày da và may mặc cũng giảm mạnh. Riêng mặt hàng gạo trong năm qua bị thiên tai lũ lụt do cơn bão số 5 gây ra nhưng ta vẫn cố gắng khắc phục và đã nhanh chóng duy trì việc xuất khẩu gạo. Một nguyên nhân dẫn tới nhập siêu trong năm qua là do ngân hàng điều hành tỷ giá đồng cứng, đúng là tỷ giá có tác động lớn đến xuất và nhập khẩu bởi nó là giá cả của hoạt động mua (nhập khẩu) và hoạt động bán (xuất khẩu).
Tỷ giá trên thực tế là giảm so với biến động giá trong nước do đó dẫn đến tình trạng mua bán với giá thấp. Bán với giá thấp sẽ không khuyến khích bán, ngược lại giá thấp lại kích thích mua làm cho cán cân thương mại thâm hụt. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như định hướng xuất khẩu yếu kém, tình trạng nhập lậu tràn lan, trốn thuế chưa được quản lý. Sang đến năm 1998 tình hình tỷ giá hối đoái trong nước ngày càng biến động phức tạp, tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD ngày càng tăng, thậm chí có ngày thay đổi vài lần điều này đã ảnh hưởng không tốt tới đời sống xã hội. Nhiều doanh nghiệp cố gắng nắm giữ ngoại tệ trong tài khoản chờ tăng giá để kiếm chênh lệch. Một số doanh nghiệp khác có nhu cầu ngoại tệ để trả nợ, mua máy móc, thiết bị hoặc L/C đến hạn thanh toán nhưng lại không giám vay vì sợ tỷ giá biến động đột biến sẽ không trả được nợ. Đồng ngoại tệ đóng băng, các ngân hàng không mua, không bán hoặc cho vay bằng ngoại tệ được. Trước tình hình đó Chính phủ đã ra quyết định 37/1998/QĐ - TTg (ngày 14/2/1998) về một số biện pháp quản lý ngoại tệ và đã kiểm soát được lượng ngoại tệ, ngăn chặn cơn sốt tỷ giá. Tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá trên thị trường có tổ chức (thị trường liên ngân hàng, ngân hàng) đã sát lại gần nhau.
Ngân hàng đã kiểm soát được 90% lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường.
Phần III: Xây dựng hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý ở Việt Nam.
III.1. Cơ sở hoạch định chính sách tỷ giá hối đoái.
Việc hoạch định chính sách tỷ giá hối đoái cần phải xuất phát từ nhiều cơ sở khác nhau, trong đó quan trọng nhất là phải xem xét hiện trạng và chiến lược phát triển kinh tế tài chính đất nước, bối cảnh kinh tế và chính trị quốc tế.
III.1.1. Hiện trạng kinh tế tài chính đất nước.
Mặc dù trong những năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu kinh tế rất đáng kể song thực trạng kinh tế vĩ mô còn nhiều khó khăn và chưa đứng những nguy cơ bất ổn. Trong lĩnh vực tài chính sự đổi mới diễn ra chưa đồng bộ triệt để, cơ chế quản lý tài chính vẫn mang tính chất quá độ bên cạnh đó thâm hụt ngân sách Nhà nước còn lớn khả năng thu hẹp thâm hụt ngân sách Nhà nước trong tương lai gần là rất khó do nhu cầu đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước còn cao và cơ chế bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước là yếu tố trực tiếp tác động đến tỷ giá hối đoái. Thực trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước một mặt hạn chế khả năng và trình độ phối hợp các công cụ khác để điều chỉnh tỷ giá hối đoái mặt khác mỗi phương thức bù đắp sẽ có một hiệu ứng khác nhau đối v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34998.doc