Đề tài Quan hệ kinh tế EU - Asean

 

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ HỢP TÁC EU - ASEAN 3

1. Lợi ích chung 3

2. Với Liên minh Châu Âu EU 5

3. Với ASEAN 6

II. QUAN HỆ KIN TẾ EU - ASEAN 8

III. NHỮNG THÁCH THỨC ĐẶT RA CHO QUAN HỆ KINH TẾ EU - ASEAN 13

1. Vấn đề đối với ASEAN 14

2 . EU mở rộng - một khó khăn mới cho hợp tác kinh tế EU- ASEAN 16

KẾT LUẬN 20

MỤC LỤC 21

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2063 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan hệ kinh tế EU - Asean, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o vị thế chính trị cũng như tạo nền tảng và điều kiện để thực hiện được mục tiêu đưa EU trở thành một liên bang trong tương lai. Trong bối cảnh quốc tế nhiều bất ổn như hiện nay, nhất là cùng với đó là sự mở rộng về thành viên thì phát triển kinh tế càng trở nên quan trọng đối với EU, giúp EU giải quyết được bất ổn chính trị, an ninh trong khu vực và đối với những lợi ích liên quan, cũng như giảm khoảng cách phát triển kinh tế giữa thành viên cũ và thành viên mới. Phát triển kinh tế cũng có ý nghĩa đặc biệt đối với ASEAN- nhóm các nước mới phát triển và đang phát triển ở Đông Nam Á. Một trong những mục tiêu hàng đầu của ASEAN đó là giúp các nước thành viên phát triển kinh tế, từ đó tạo nên một nền kinh tế khu vực phát triển mạnh. Nằm trong khu cực kinh tế tiềm năng của thế giới, nhưng kinh tế lại chưa phát triển, hơn lúc nào ASEAN rất muốn hợp tác để phát triển kinh tế khu vực. Vị trí của các nước ASEAN trên bản đồ kinh tế thế giới là rất mờ nhạt, trong khi đó tiềm năng tự nhiên và con người là rất lớn điều này khiến cho phát triển kinh tế là mục tiêu được ASEAN rất ưu tiên. Tận dụng lợi thế của nhau thông qua hợp tác để cùng phát triển kinh tế là điều mà cả EU và ASEAN đều quan tâm. Với EU thì đó là những tiềm năng chưa khai thác của ASEAN, còn với ASEAN đó là những kinh nghiệm trong quá trình phát triển kinh tế của EU, là việc tận dụng nhưng hạn chế của đối tác để phục vụ cho thế mạnh của mình . Như đã nói, phát triển kinh tế không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế mà quan trọng hơn nó còn ảnh hưởng đến vị thế chính trị của mỗi bên.Tuy ASEAN chưa có tiếng nói quan trọng trên trường quốc tế nhưng trong tương lai sẽ khác, vì thế với EU phát triển kinh tế với ASEAN không chỉ là phát triển quan hệ kinh tế với một đối tác nhiều tiềm năng mà còn qua đó thiết lập quan hệ và ảnh hưởng của EU trên nhiều lĩnh vực khác ở khu vực này. Với ASEAN cũng vậy, phát triển kinh tế với một liên minh kinh tế lớn mạnh nhất không chỉ là cơ hội tốt để nâng cao vị thế kinh tế mà quan đó còn góp phần đưa ASEAN lên vị trí cao hơn trong các vấn đề quốc tế và khu vực trước hết là trong lĩnh vực kinh tế. Hợp tác kinh tế EU- ASEAN cũng có ý nghĩa với cả hai bên khi không phải mọi nước thành viên của hai khối đều đã gia nhập WTO. Sư hợp tác giữa hai bên sẽ tạo thêm thuận lợi trong quá trình đàm phán gia nhập WTO của các nước thành viên. Như vậy là cơ sở quan trọng giúp hình thành và phát triển quan hệ kinh tế EU-ASEAN đó là lợi ích chung về kinh tế, mỗi quan hệ này giúp cả hai thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế là lợi ích chung của cả hai bên tuy nhiên với mỗi bên thì phát triển kinh tế lại có vai trò và ảnh hưởng khác nhau đối với các vấn đề thuộc khối. Sự khác nhau này còn được biểu hiện ở những lợi ích mà mối quan hệ này mang lại cho mỗi bên hay chính là lợi ích riêng của EU, ASEAN trong hợp tác kinh tế giữa hai bên. 2. Với Liên minh Châu Âu EU Là nền kinh tế lớn mạnh của Thế giới nhưng không vì thế mà kinh tế EU không chứa đựng trong nó những hạn chế. Hợp tác với một đối tác mạnh hay yếu trong kinh tế không quan trọng bằng việc đối tác đó đem lại lợi ích gì? Quan hệ đó giúp giải quyết những hạn chế của nền kinh tế đến đâu. EU vẫn sẵn sàng hợp tác và phát triển quan hệ đó với nền kinh tế yếu hơn là ASEAN là vì: EU có những lợi thế, thế mạnh to lớn mà khi hợp tác với ASEAN sẽ giúp EU tận dụng triệt để, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, đó là : có kinh nghiệm phát triển kinh tế đặc biệt trong các lĩnh vực như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, khoa học công nghệ, xây dựng cơ sở hạ tầng, ...Trong khi đó đây lại là những lĩnh vực còn yếu của ASEAN, hợp tác với EU sẽ giúp cho ASEAN tăng cường được năng lực kinh tế của mình. ASEAN gồm nhiều quốc gia đang phát triển, có nhu cầu về phát triển công nghệ sản xuất, vì thế EU coi ASEAN là thị trường tiềm năng về thiết bị sản xuất công nghiệp. Trong cơ cấu kinh tế của EU thì những ngành đòi hỏi nhiều nhân công như may mặc, giày da, chế biến thuỷ hải sản,.. không chiếm vị trí quan trọng, trong khi đó với dân số hơn 530 triệu dân, trình độ chưa cao thì ASEAN có thể trở thành thị trường lao động tiềm năng cho EU, cũng như là nơi cung cấp các sản phẩm công nghệ thấp cho EU. Ngược lại, ASEAN cũng là một thị trường lớn cho các sản phẩm thế mạnh của EU như công nghiệp, điện tử, viễn thông, hàng không... Đầu tư là một trong những thế mạnh của EU nhất là khi EU cho lưu hành đông tiền chung Euro. EU muốn thông qua sức mạnh tài chính thể hiện ở đầu tư nước ngoài để tìm kiếm cơ hội mới cho phát triển kinh tế. Trong khi đó với ASEAN dòng vỗn đầu tư quốc tế là một trong những nhân tố góp phần thúc đẩy nền kinh tế khối phát triển. Mặc dù kinh tế Châu Á, trong đó có ASEAN trong những năm qua trải qua nhiêu đợt khủng hoảng, khó khăn, đặc biệt là khủng hoảng tài chính năm 1997, và mới đây là do đại dịch SARS nhưng thông qua những nghiên cứu phát triển ngắn hạn và dài hạn trong thương mại thế giới, EU dễ dàng để nhận thấy cho đến 2050 Châu Á- Thái Bình Dương vẫn là nơi hấp dẫn nhất của nền kinh tế thế giới, trong đó ASEAN nổi lên như một nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới. Một ASEAN nhiều tiềm năng và ảnh hưởng kinh tế trên bản đồ kinh tế Thế giới ngày càng tăng là lý do để EU có sự hợp tác kinh tế với ASEAN. Nói chung quan hệ giữa EU và ASEAN đó là quan hệ giữa một khối kinh tế mạnh nhất thế giới với một nên kinh tế khu vực còn đang trên đà phát triển tuy vậy EU vẫn coi trọng quan hệ này bởi nó đem lại lợi ích cho nền kinh tế EU. 3. Với ASEAN ASEAN là nhóm các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có những quốc gia phát triển như Singapore, Thái Lan, Indonesia, cũng có những nước kém phát triển hơn hầu hết là các nước thành viên mới. Mức độ phát triển kinh tế của ASEAN không chỉ không đồng đều mà còn ở mức thấp so với các khối kinh tế khác, chẳng hạn như với EU, vì thế phát triển kinh tế là một trọng tâm trong hợp tác của ASEAN. Hợp tác với EU là sự hợp tác “được” nhiều cho ASEAN. Phát triển quan hệ kinh tế với EU sẽ tạo điều kiện cho ASEAN dễ dàng tiếp cận thị trường EU, một thị trường có mức độ tiêu dùng cao, với dân số hiện nay khoảng 450 triệu người. Điều này càng có ý nghĩa với ASEAN khi là một nhà xuất khẩu lớn của thế giới trong tương lai và hiện đang duy trì nền kinh tế lấy xuất khẩu là trọng tâm. Nhiều lĩnh vực kinh tế ASEAN còn yếu thì hiện là thế mạnh của EU đặc biệt là ngành tài chính, ngân hàng. Trong đợt khủng hoảng tài chính năm 1997, một trong những yếu tố giúp các nước ASEAN khắc phục được hậu quả và phục hồi nhanh hơn là do có sự hợp tác mạnh mẽ với các nền kinh tế của EU. EU là một trong những nhà đầu tư quốc tế lớn nhất thế giới với khoảng 500 tỷ USD đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hàng năm sẽ là một hấp dẫn không thể bỏ qua với khu vực đang cần vốn đầu tư như ASEAN. Hầu hết các nước ASEAN đều coi FDI là một trong những động lực phát triển của nền kinh tế, là nguồn cung cấp chủ yếu cho các kế hoạch phát triển kinh tế ở cả tầm vi mô hay vĩ mô. Hợp tác với EU - một nền kinh tế có nhiều kinh nghiệm trong phát triển sẽ giúp ASEAN học hỏi được nhiều cho quá trình đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của mình. Quan hệ này càng quan trọng hơn đối với ASEAN khi ASEAN muốn học tập mô hình liên kết kinh tế của EU, mong muốn EU giúp thành lập cộng đồng kinh tế ASEAN. Tiềm năng lớn về nguồn lao động của ASEAN sẽ phục vụ tốt cho phát triển kinh tế khi được sử dụng vào các ngành đòi hỏi nhiều nhân công, cung cấp những mặt hàng thiết yếu cho thị trường EU. Quan hệ với EU sẽ là thuận lợi cho ASEAN tận dụng những ưu điểm về lao động, về tài nguyên thiên nhiên, về vị trí địa lý cho việc phát triển kinh tế khu vực Đông Nam Á. Việc quan hệ kinh tế với một đối tác lớn mạnh như EU sẽ giúp cho ASEAN nâng cao được vị trí của mình trên bản đồ kinh tế thế giới, giảm bớt sự phụ thuộc vào một số nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ. Quả đúng là có vẻ như ASEAN cần EU hơn vì ASEAN có được nhiều từ quan hệ với EU nhưng thực tế cho thấy, ASEAN gặp phải không ít khó khăn khi duy trì mối quan hệ với EU-một nền kinh tế phát triển cao và rất nhiều kinh nghiệm. Vậy nên muốn cho quan hệ này có mang lại giá trị tích cực cho kinh tế ASEAN thì ASEAN phải biết khắc phục những hạn chế này. Tóm lại quan hệ kinh tế EU- ASEAN có ý nghĩa nhất định với cả hai bên, tuy rằng mỗi bên tìm được những lợi ích riêng cho mình nhưng lợi ích chung lớn nhất đối với cả hai bên là phát triển kinh tế, tận dụng triệt để những điểm mạnh và hạn chế và khắc phục những mặt yếu. Đây cũng chính là cơ sở giúp hình thành quan hệ hợp tác kinh tế EU- ASEAN. II. QUAN HỆ KIN TẾ EU - ASEAN Sáng kiến hợp tác thương mại khu vực EU-ASEAN (TREATI), đã góp phần tích cực vào mở rộng thương mại, tăng dòng đầu tư vào ASEAN cũng như thiết lập cơ chế đối thoại có hiệu quả về hợp tác trên lĩnh vực thương mại, thị trường, đầu tư giữa hai khu vực. TREATI cũng là một trong những điều kiện quan trọng để hai bên tiến đến hiệp định thương mại tự do song phương. Về thương mại, năm 2002, thương mại hai chiều EU-ASEAN chiếm 5,1% tổng thương mại thế giới. EU hiện là đối tác thương mại lớn thứ 3 của ASEAN chiếm 14% thương mại của ASEAN. Đáng kể tới là 16% giá trị xuất khẩu của ASEAN là nằm ở EU, chính EU đã góp phần đáng kể đưa ASEAN trở thành nhà xuất khẩu lớn thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ. Do trước khi EU mở rộng, phần nhiều thương mại của EU với nước ngoài là của các nước sắp gia nhập, vậy nên khi EU mở rộng ASEAN bớt một đổi thủ trên “danh nghĩa” và trở thành đối tác thương mại lớn thứ 3 của EU, trước cả Mỹ. Một trong những quan tâm của EU ở Châu Á đó là phát triển ngành ngân hàng, một ngành cần cho nhu cầu đang phát triển của Châu Á nhưng các nước Châu Á lại chưa có nhiều kinh nghiệm. Vì lẽ đó mà trong đợt khủng hoảng tài chính năm 1997, EU là đối tác chịu nhiều tổn thất nhất, nhưng cũng chính nhờ sự hợp tác với một đối tác nhiều tiềm lực như EU mà kinh tế Châu Á, các nước ASEAN mới nhanh được phục hồi hơn. Thương mại giữa EU và ASEAN đã có chiều hướng giảm vào năm 2003, do những nguyên từ phía EU đang chuẩn bị kết nạp thành viên mới, đẩy mạnh thương mại với các nước này thông qua hiệp định thương mại ặư do ký trước đó với một số nước. ASEAN cũng gặp phải một số vấn đề về an ninh khu vực, chịu hệ quả lan chuyền của vụ khủng bố 11 tháng 9. Năm 2003, thương mại hai chiều giảm 3,3% so với năm 2002 trong khi so với năm 2000-năm thương mại hai chiều đạt mức cao nhất thì vẫn sụt giảm đáng kể. THƯƠNG MẠI EU- ASEAN 2002 Đối tác nhập khẩu chính của ASEAN Các nước còn lại 49% Trung Quốc :7% EU: 12% Nhật Bản:18% Mỹ: 14% Đối tác nhập khẩu chính của EU Các nước còn lại: 50% ASEAN:6% EFTA:11% Các ứng viên:15% Mỹ:18% Đối tác nhập khẩu chính của ASEAN Mỹ: 19% EU:18% Nhật Bản: 14% Trung Quốc 6% Các nước còn lại 45% Đối tác nhập khẩu chính của EU Các nước còn lại 45% ASEAN 4% EFTA:10% Các ứng viên: 17% Mỹ: 24% Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, hầu hết các đối tác và đối thủ kinh tế chính của EU đều tìm kiếm những con đường để phát triển kinh tế của cả khối hoặc riêng từng nền kinh tế thành viên. Với ASEAN cũng vậy, để không bị phụ thuộc hoàn toàn vào một đối tác, ASEAN cũng có những hợp tác đồng thời với nhiều đối tác tiềm năng khác như Trung Quốc, Mỹ. ASEAN và Trung Quốc ký hiệp định thương thương mại tự do đến 2010, Singapore ký với Mỹ hiệp định tự do thương mại năm 2002, điều này khiến EU phải có chiến lược mới trong quan hệ kinh tế với ASEAN và với từng thành viên ASEAN để vừa nâng cao được vị trí của mình với đối tác tiềm năng ASEAN, vừa bảo đảm được những lợi ích hiện có ở khu vực này. Những chỉ số tăng trưởng gần đây của kinh tế ASEAN cũng như những nỗ lực của các nền kinh tế thành viên trong việc cải thiện môi trường đầu tư đã khiến ASEAN trở thành địa chỉ hấp dẫn không chỉ đối với các nhà đầu tư của EU. THƯƠNG MẠI EU-ASEAN (1996-2002). Đơn vị tỷ euro Nguồn: Eurostat EU xuất sang ASEAN EU nhập từ ASEAN Cán cân xuất nhập khẩu Tuy nhiên trong tổng lượng đầu tư gần 500 tỷ USD hàng năm của EU ra nước ngoài, ASEAN chỉ giành được số ít và lại có xu hướng giảm từ sau khủng hoảng tài chính. Nếu như FDI đạt đỉnh cao vào năm 2000 thì đã sụt giảm mạnh trọng năm tiếp theo. Nảm 2003, lượng FDI vào ASEAN tăng trở lại, tăng gần 48% so với 2002, đạt 16,8 tỷ euro, trong đó EU đóng góp 35% tương đương 5,9 tỷ euro nhỉnh hơn một chút so với FDI vào ASEAN năm 2000. Một trong những nguyên nhân dẫn đến lượng FDI vào ASEAN sụt giảm đó là mặc dù FDI vào Châu Á tăng nhưng lại tập trung nhiều vào Trung Quốc, với cơ chế khuyến khích đầu tư hiệu quả, Trung Quốc hiện chỉ đứng sau Mỹ về lĩnh vực thu hút vốn đầu tư. Trung Quốc hiện là thách thức lớn đối cho ASEAN trong thu hút vốn đầu tư từ EU cũng như từ các đối tác thương mại khác cũng có quan hệ với Trung Quốc. Để giải quyết được khó khăn này, ASEAN đang nỗ lực tăng cường đối thoại với các đại diện kinh tế của EU thông qua các diễn đàn đa phương, chính phủ các nước cũng đang tạo những thuận lợi to lớn cho các nhà đầu tư EU thông qua cải cách luật, thủ tục hành chính, các chín sách ưu tiên cụ thể với EU. Đặc biệt việc ASEAN thành lập được khu vực thương mại tự do AFTA vào tháng 1 năm 2003 đã chứng tỏ cho nỗ lực của ASEAN trong tăng cường mức độ hội nhập cảu các nền kinh tế thành viên, tạo môi trường tự do kinh tế cho sự phát triển hợp tác quốc tế. Đến nay, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng dòng FDI vào ASEAN đã tăng trở lại, thương mại của ASEAN sang EU cũng tăng 3,3% trong quý I của 2004, cùng với đó là những chỉ số kinh tế tăng trưởng khả quan của ASEAN khiến đây vẫn được EU coi là đối tác quan trọng, chiến lược ở Châu Á. Tuy nhiên để cho ASEAN trở thành khu vực thương mại tự do thực sự, theo đúng nghĩa của nó thì cần phải nỗ lực nhiều hơn, hiện EU đang sẵn sàng trao đổi những kinh nghiệm của mình trong lĩnh vực này cho ASEAN thông qua các hội nghị, diễn đàn khu vực và song phương, thông qua các chương trình hợp tác về luật, kinh tế, giáo dục, các chương trình phát triển năng lực làm việc của các ngân hàng ở khu vực ASEAN. Dòng FDI chính vào ASEAN, 1991-2001 Nhật Bản Các nước khác Mỹ Đơn vị: Tỷ đôla Từ 2003, TREATI được khởi động và được cả EU và ASEAN nỗ lực đưa vào thực hiện. Có thể nói, TREAETI là mốc lớn trong quan hệ kinh tế EU- ASEAN, tạo cơ sở để xây dựng một quan hệ bền chặt và hiệu quả hơn trong tương lai, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại đầu tư. Đây cũng là bước đi cần thiết để tiến đến việc xây dựng hiệp định thương mại tự do. Ngoài những hợp tác cụ thể ở lĩnh vực thương mại, đầu tư giữa EU và ASEAN còn có các chương trình hợp tác khác cũng rất có ý nghĩa, như : Chương trình hợp tác EU-ASEAN về vấn đề tiêu chuẩn, chứng chỉ quản lý chất lượng bắt đầu từ 2004 đến 2005, với vốn đầu tư khoảng 9 tỷ euro; hợp tác trong lĩnh vực phát triển năng lượng sạch từ 2002 đến 2006, tổng giá trị 18 tỷ euro; hợp tác trong lĩnh vực về quyền sở hữu trí tuệ từ 1999 đến 2005, tổng dự án là 8 tỷ euro.. Với Việt Nam, quan hệ với EU đặc biệt có ý nghĩa. Những vụ tranh chấp về hải sản chế biến giữa Việt Nam và Bộ thương mại Hoa Kỳ đã cho thấy không thể chỉ dựa vào một thị trường mà phải luôn mở rộng và tìm kiếm thị trường mới. EU tuy không phải là thị trường mới nhưng việc EU kết nạp thêm 10 thành viên đã khiến EU trở thành một thị trường đầy tiềm năng mới đối với xuất khẩu của Việt Nam. Các nhà đầu tư uy tín của EU như: Pháp, Đức, Thuỵ Điển, Anh, Hà Lan,.. đã trở nên quen thuộc với Việt Nam thông qua các hình thức hợp tác, đầu tư rất đa dạng. Chính phủ Việt Nam cũng có những chính sách cụ thể để khuyến khích các nhà đầu tư từ EU, tăng cường các cơ chế hợp tác thông qua các diễn đàn khu vực, quốc tế như ASEAM, APEC,.. để giúp hai nền kinh tế hiểu nhau và hợp tác có hiệu quả hơn. Sau những bất ổn an ninh ở khu vực Đông Nam Á, việc Việt Nam vẫn có nền chính trị và an ninh ổn định đã tạo sức hấp dẫn không nhỏ đối với các nhà đầu tư EU. Ngoài ra những nỗ lực ở tầm vĩ mô của chính phủ Việt Nam cùng những chỉ số tăng trưởng kinh tế rất khả quan đã khiến cho không chỉ EU mà cácđốitáckhác của Việt Nam cũng thấy yên tâm để tiếp tục hợp tác và phát triển hoạt động ở ViệtNam. Tóm lại quan hệ kinh tế EU- ASEAN trong thời gian qua đã trải qua nhiều thăng trầm. Sau năm 2000 đỉnh cao về hợp tác, đầu tư và thương mại hai chiều EU-ASEAN thì do nhiều yếu tố khách quan, chủ quan thực tế các chỉ số phát triển kinh tế qua hợp tác song phương đã không phản ánh được tiềm năng và mong muốn của hai bên. Tuy nhiên sau những năm sụt giảm (2001, 2002), quan hệ hai bên đã đạt được nhiều thành tựu nhất định, hứa hẹn một hợp tác hiệu quả và chặt chẽ hơn trong tương lai. Có được thành công này là do nỗ lực của cả hai bên cả ở tầm hoạch định chính sách và hợp tác cụ thể, điều này cũng chứng tỏ sự hợp tác đã mang lại những lợi ích nhất định cho cả hai bên không chỉ ở lĩnh vực kinh tế. III. NHỮNG THÁCH THỨC ĐẶT RA CHO QUAN HỆ KINH TẾ EU - ASEAN Sáng kiến phát triển thương mại EU- ASEAN (TREATI) đã tạo ra sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa hai khối trong lĩnh vực thương mại, đầu tư, ngoài ra cùng với những cuộc gặp gỡ ở cấp bộ trưởng tại các diễn đàn ASEM, APEC, những chiến lược phát triển của mỗi bên,.. đều tạo ra nhiều thuận lợi cho quan hệ EU- ASEAN. Tuy nhiên trong quá trình hợp tác, mối quan hệ này không phải là không gặp phải những khó khăn, đó có thể là từ những nguyên nhân gián tiếp như hệ thống chính trị, an ninh, hoặc những nguyên nhân trực tiếp như mức độ phát triển và hội nhập của nền kinh tế, cơ chế tài chính, pháp luật, trình độ phát triển khoa học kỹ thuật.. Dưói đây xin đề cập đến hai khó khăn, một là đối với các nước ASEAN, một là đối với EU. 1. Vấn đề đối với ASEAN ASEAN đang không ngừng nỗ lực để phát triển nền kinh tế của khu vực. Hợp tác là một trong những giải pháp quan trọng, nhất là với một khối kinh tế mạnh hơn và nhiều kinh nghiệm như EU, nhưng cũng chính vì thế mà để sự hợp tác EU- ASEAN thực sự hiệu quả thì có nhiều vấn đề đặt ra cho ASEAN. ASEAN với tiềm năng lớn về cung cấp các sản phẩm từ thực vật với lợi thế về khí hậu và nguồn lao động dồi dào, giá rẻ. EU là thị trường lớn, nhu cầu phong phú về các sản phẩm loại này vì thế EU muốn ASEAN sẽ là nhà cung cấp thực phẩm cho EU. Tuy nhiên có những khó khăn mà ASEAN phải giải quyết được nếu muốn phát triển thương mại thực phẩm với EU Đảm bảo an toàn và vệ sinh trong trồng trọt và chế biến rau quả. Xuất khẩu rau quả sang thị trường EU của các nước ASEAN đều có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi nước vậy nên nhất thiết phải đáp ứng được những tiêu chuẩn về vệ sinh của EU cho dù EU nổi tiếng là thị trường khó tính về thực phẩm. Để giải quyết được khó khăn này, các nước ASEAN phải hiểu rõ về hệ thống tiêu chuẩn chất lượng của EU, phải nâng cao chất lượng quy trình sản xuất và tiêu thụ, nâng cấp máy móc thiết bị. Những vấn đề này đều cần đến sự đầu tư không nhỏ về chất xám và tài chính vì thế càng không đơn giản với nhiều nước ASEAN vốn chưa quen với sự nghiêm ngặt trong quản lý chất lượng. Nếu như EU là thị trường phát triển hoàn thiện về sự thống nhất trong tiền tệ, thuế quan, thương mại.. thì ASEAN vẫn còn là một thị trường có mức độ hội nhập chưa cao, ngay giữa các nước thành viên của ASEAN cũng còn nhiều vẫn đề chưa thống nhất trong chiến lược phát triển kinh tế. Những hạn chế này về mức độ hội nhập của ASEAN đã là cản trở đối với quan hệ với EU, đòi hỏi ASEAN phải sớm khắc phục. EU là một nhà đầu tư quốc tế hàng đầu, những kinh nghệm của EU và những tiềm năng của ASEAN khiến cho EU rất muốn đầu tư vào ASEAN tuy nhiên với ASEAN hiện nay ngoài các nguyên nhân cố hữu thì còn những nguyên nhân mới từ an ninh, các nạn dịch, những bất ổn về chính trị khiến cho quan hệ của EU với ASEAN gặp nhiều hạn chế. Ảnh hưởng tiêu cực từ những nguyên nhân này đã thể hiện cụ thể thông qua lượng FDI của EU vào ASEAN giảm (năm 1999 là 7,8 tỷ euro, 2000: 6,4 tỷ euro). Trong xu thế hợp tác toàn cầu phát triển như hiện nay, mọi quốc gia mọi khu vực đều cố gắng tận dụng ưu thế của mình để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, phát triển kinh tế. Một trong những nguyên nhân có thể ảnh hưởng đến quan hệ với EU của ASEAN đó là sự nổi lên như một hiện tượng của kinh tế thế giới-Trung quốc, hiện Trung Quốc chỉ đứng sau Mỹ về nguồn FDI, Trung Quốc hiện là địa chỉ đầu tư hấp dẫn và an toàn cho các nhà đầu tư quốc tế kể cả từ EU. Ngoài ra các khu vực khác như Nam Mỹ, vùng Caribê với nhiều thế mạnh về tài nguyên, tự nhiên cũng đang có sức hút nhất định với không chỉ các nhà đầu tư EU. Một trong những giải pháp cho vấn đề này là nâng cao năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế thành viên của ASEAN, điều này đòi hỏi chính phủ các nước phải cố gắng rất nhiều trong các vấn đề liên quan đến thuế quan, thủ tục hành chính, mức độ bảo hộ cho các ngành kinh tế trong nước, hay cả vấn đề an ninh và ổn định chính trị trong nước. Trình độ phát triển của các nền kinh tế cũng như kinh nghiệm trong các lĩnh vực kinh tế cụ thể như tài chính, ngân hàng của ASEAN cũng là một vấn đề. Mức độ phát triển khác nhau khiến cho kết quả hợp tác toàn khối sẽ không cao, không tận dụng hết được tiềm năng của đối tác. Khủng hoảng tài chính năm 1997 là minh chứng cho sự thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng của một số nước ASEAN, những hiện tượng như vậy sẽ gây ấn tượng xấu cho những đối tác tương lai cũng như mức độ hợp tác của các đối tác hiện có. Khi một nền kinh tế không đủ mạnh để gánh vác những sự cố thì các đối tác sẽ phải chấp nhận việc cùng chia sẻ và gánh vác các hậu quả của sự cố nếu có. Nỗ lực xây dựng và hoàn thiện thị trường chung cho các nước trong khối phản ánh nhu cầu phải nâng cao mức độ hội nhập của nền kinh tế ASEAN, làm được như vậy không chỉ góp phần tích cực vào phát triển kinh tế thương mại với EU mà sẽ thuận lợi hơn cho ASEAN trong quan hệ với các quốc gia và khối kinh tế khác. Vấn đề chính trị ở ASEAN không thể không ít nhiều ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế giữa EU và ASEAN. Đó không chỉ là những biểu hiện bất ổn định, ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động hợp tác mà đó còn là những khác biệt về quan điểm chính trị khiến cho không phải tất cả các quốc gia của mỗi bên đều dễ dàng đi đến thống nhất trong các vấn đề. Điều này giờ đây đã không còn ảnh hưởng nhiều bởi xu thế hợp tác đa phương đa dạng trên mọi lĩnh vực không chỉ có kinh tế miễn là sự hợp tác đó đem lại lợi ích quốc gia. Những vấn đề trên đây đòi hỏi ASEAN sớm phải giải quyết để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho quan hệ kinh tế EU – ASEAN. Tất nhiên đây không phải chỉ là những cản trở đối với quan hệ giữa ASEAN và EU mà còn với nhiều đối tác khác nhưng những vấn đề này quan trọng và cần ASEAN phải sớm khắc phục khi quan hệ với EU một đối tác kinh tế lớn,một mô hình liên kết kinh tế mà ASEAN đang học tập theo. 2 . EU mở rộng - một khó khăn mới cho hợp tác kinh tế EU- ASEAN Ngày 1 tháng 5 năm 2004, EU15 chính thức kết nạp thêm 10 thành viên trở thành EU25. Sự kiện có ý nghĩa này tiếp sau việc EU cho lưu hành đồng tiền chung đã chứng tỏ EU đang trên đường tiến đến mục tiêu thống nhất EU, làm cho EU không chỉ là một khối chặt chẽ về kinh tế mà còn trên nhiều lĩnh vực khác. EU mở rộng vừa có tác động tiêu cực và tích cực đối với EU, những tác động đó sẽ khiến cho EU phải có những thay đổi trong chiến lược phát triển của mình. Thực trạng mới và những chính sách mới của EU tất nhiên sẽ có ảnh hưởng đến các đối tác của EU. Việc EU mở rộng có những tác động tích cực đối với hợp tác EU- ASEAN, nhất là trong lĩnh vực thương mại. Một thị trường lớn hơn với nhu cầu tiêu dùng nhiều hơn sẽ là điểm hấp dẫn với ASEAN một khu vực kinh tế hướng vào xuất khẩu, có thế mạnh về các sản phẩm chế biến, lương thực thực phẩm. Một số thị trường trước đây chưa có điều kiện tiếp cận thì nay khi là thành viên của EU,với ASEAN sẽ dễ dàng thâm nhập hơn, thuận lợi hơn để hợp tác kinh tế với các quốc gia này. Mặc dù vậy EU mở rộng tạo ra những bất lợi không nhỏ tới quan hệ kinh tế giữa EU và ASEAN. Có nhiều lý do Thứ nhất, các quốc gia thành viên mới hầu hết là những nước có nền kinh tế phát triển thấp ở Châu Âu, GDP của các nước này chỉ dưới GDP trung bình của EU trước đây, mức độ tiêu thụ hàng hoá bằng một nửa mức trung bình của EU. Thực tế này cho thấy, các nước thành viên mới sẽ là một vấn đề cần được EU cân nhắc khi hợp tác với các nền kinh tế khác. Thứ hai, vì đều là những nền kinh tế đang phát triển nên các nước mới đều cần nguồn vốn đầu tư. FDI trở thành một trong những động lực quan trọng cho nền kinh tế của các thành viên mới này. Trong khi đó với ASEAN, FDI cũng có v ai trò không thể thiếu được. Tất nhiên đã là kinh tế thì đều tính đến cái có lợi nhưng khi các nước thành viên mới và các nước ASEAN có những ưu thế ngang nhau thì các nước EU sẽ được chọn bởi điều này cũng phù hợp với chiến lược rút ngắn khoảng cách giữa các thành viên EU. Vì thế đây có thể là yêú tố gây ảnh hưởng đến dòng FDI của EU vào ASEAN trong thời gian tới. Thứ ba, nếu như thương mại và xuất khẩu hàng chế biến là thế mạnh của các nước ASEAN thì đây cũng được coi là lĩnh vực mà một số thành viên mới của EU quan tâm, ngoài ra những lĩnh vực về kỹ thuật, công nghệ có thể là tiềm năng cho các nước ASEAN cũng đồng thời nằm trong khả năng của các nước này. Ngoài ra t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docqth26.doc