Đề tài Quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ PHÂN PHỐI Ở

NƯỚC TA HIỆN NAY 2

1.1. Bản chất và vị trí của phân phối 2

1.2. Các hình thức phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam 4

1.3. Từng bước thực hiện công bằng xã hội trong phân phối thu nhập 8

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUAN HỆ PHÂN PHỐI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 11

2.1. Thực trạng 11

2.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay. 15

KẾT LUẬN 23

TÀI LIỆU THAM KHẢO 24

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1719 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triển toàn diện. Phân phối theo lao động là hợp lý nhất, công bằng nhất so với các hình thức phân phối đã có trong lịch sử. Cơ sở của sự công bằng xã hội của sự phân phối đó là sự bình đẳng trong quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Tuy vậy, theo C. Mác, phân phối theo lao động về nguyên tắc vẫn là sự bình đẳng trong khuôn khổ "pháp quyền tư sản", tức là sự bình đẳng trong xã hội sản xuất hàng hoá, theo nguyên tắc sự trao đổi hoàn toàn ngang giá. Sự bình đẳng ở đây được hiểu theo nghĩa quyền của người sản xuất là tỷ lệ với lao động mà người ấy đã cung cấp; sự bình đẳng đó còn thiếu sót là "với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia". Phân phối theo lao động còn có những hạn chế nhưng đó là những hạn chế không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chỉ khi nào cùng với sự phát triển toàn diện của cá nhân, năng suất của họ càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào thì khi đó người ta mới có thể vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của cái pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể thực hiện phân phối theo nhu cầu. Chỉ khi đó mới có sự bình đẳng thật sự. Hai là: Phân phối theo vốn ở nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế với sự đa dạng các hình thức sở hữu và các hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh. Do đó, ngoài hình thức phân phối theo lao động, trong thời kỳ quá độ còn tồn tại các hình thức phân phối thu nhập khác. Đó là: - Trong các đơn vị kinh tế tập thể bậc thấp có sự kết hợp phân phối theo vốn và phân phối theo lao động. - Trong thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ thì thu nhập phụ thuộc vào sở hữu tư liệu sản xuất, vốn đầu tư sản xuất và tài năng sản xuất, kinh doanh của chính những người lao động. - Trong kinh tế tư bản tư nhân và tư bản Nhà nước , việc phân phối ở đây dựa trên cơ sở sở hữu vốn cổ phần, sở hữu sức lao động, sở hữu tư bản.... Ba là: Phân phối thông qua phúc lợi tập thể, phúc lợi xã hội Để nâng cao mức sống về vật chất và văn hoá của nhân dân, đặc biệt là các tầng lớp nhân dân lao động, sự phân phối thu nhập của mọi thành viên xã hội còn được thực hiện thông qua quỹ phúc lợi tập thể và xã hội. Sự phân phối này có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó góp phần: - Phát huy tính tích cực lao động cộng đồng của mọi thành viên trong xã hội: - Nâng cao thêm mức sống toàn dân, đặc biệt đối với những người có thu nhập thấp, đời sống khó khăn, làm giảm sự chênh lệch quá đáng về thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng. - Giáo dục ý thức cộng đồng, xây dựng chế độ xã hội mới. - Quỹ phúc lợi tập thể và xã hội là một bộ phận không thể thiếu trong quá trình phân phối thu nhập cho cá nhân trong cộng đồng, song quỹ đó chỉ có ý nghĩa tích cực khi được quy định và sử dụng một cách hợp lý phù hợp với yêu cầu và các điều kiện khách quan. Tính hợp lý của quỹ phúc lợi tập thể và xã hội được biểu hiện như sau: - Quỹ phúc lợi tập thể, xã hội không thể mở rộng quá khả năng của nền kinh tế cho phép. - Tốc độ tăng trưởng thu nhập trực tiếp của cá nhân trong cộng đồng phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng phúc lợi tập thể và xã hội. - Trong giới hạn đã xác định, cần sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm, hợp lý các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội. Việc sử dụng phải nhằm mục đích thiết thực, tránh lãng phí xa hoa, phô trương hình thức. Vì các quỹ này có quan hệ đến lợi ích thiết thân của mỗi thành viên tập thể, cộng đồng, cho nên cần phát huy đầy đủ dân chủ, trưng cầu ý kiến của quảng đại quần chúng, sao cho mỗi loại phúc lợi đều thích hợp với nhu cầu bức thiết của quần chúng, phát huy được tác dụng vốn có của nó. - Quỹ phúc lợi xã hội là bộ phận của chính sách xã hội cần được giải quyết theo tinh thàn xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt; đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia đóng góp. 1.3. Từng bước thực hiện công bằng xã hội trong phân phối thu nhập Chủ nghĩa xã hội phát triển mới có điều kiện để thực hiện một bước cơ bản về công bằng xã hội trong phân phối thu nhập. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN, thì vẫn còn sự tồn tại bất bình đẳng về phân phối thu nhập. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải tạo ra những tiền đề, những biện pháp để từng bước thu hẹp và xoá bỏ sự bất bình đẳng đó, tiến tới một xã hội: "không có chế độ người bóc lọt người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng. Để đạt mục tiêu này, từ thực tiễn nước ta, cần phải thực hiện: Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, bởi như Ph.Ăngghen, phương thức phân phối về căn bản là phụ thuộc vào số lượng sản phẩm được phân phối. Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương, chống chủ nghĩa bình quân và thu nhập bất hợp lý, bất chính. Để từng bước thực hiện phân phối công bằng hợp lý, cần có chính sách phân phối bảo đảm thu nhập của những người lao động có thể tái sản xuất sức lao động. Gắn chặt tiền công, tiền lương với năng suất, chất lượng và hiệu quả sẽ đảm bảo quan hệ hợp lý về thu nhập cá nhân giữa các ngành nghề. Nhgiêm trị những kẻ có thu nhập bất chính, cần phải tiền tệ hoá tiền lương và thu nhập, xoá bỏ những đặc quyền, đặc lợi trong phân phối. Thứ ba, điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự chênh lệch quá đáng về mức thu nhập. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, một mặt, phải thừa nhận sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các tập thể, cá nhân là khách quan; mặt khác, Nhà nước phải hạn chế sự chênh lệch thu nhập quá đáng để không dẫn tới sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập, bằng cách điều tiết thu nhập và các giải pháp quản lý. Điều tiết thu nhập là một yêu cầu khách quan trong nền kinh tế thị trường nói chung, ngay cả trong các nước tư bản chủ nghĩa cũng phải điều tiết thu nhập nhằm duy trì sự ổn định xã hội. ở nước ta, việc điều tiết thu nhập càng quan trọng, nhằm hạn chế sự chênh lệch quá đáng về thu nhập để không dẫn tới sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập. Điều tiết thu nhập được thực hiện thông qua hình thức điều tiết giảm thu nhập thông qua hình thức thuế thu nhập và hình thức tự nguyện đóng góp của cá nhân có thu nhập cao vào quỹ phúc lợi xã hội, từ thiện.... Trong đó thuế thu nhập là hình thức quan trọng nhất, chủ yếu nhất là điều tiết làm tăng thu nhập được thực hiện thông qua ngân sách Nhà nước, ngân sách các tổ chức chính trị - xã hội, các quỹ bảo hiểm qua giá, trợ cấp, phụ cấp các loại, tín dụng tiêu dùng và có thể một phần hiện vật cho một số đối tượng nhất định, qua các hoạt động từ thiện của các tổ chức và cá nhân. Những điều đó nhằm trợ giúp thường xuyên cho những người có thu nhập thấp, trợ giúp những người thất nghiệp, những người tham gia bảo hiểm khi gặp rủi ro, những người thuộc diện chính sách xã hội, bổ sung thu nhập mang tính chất bình quân trong các tổ chức, các doanh nghiệp vào các dịp lễ, tết vv.... Thứ tư, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo. Mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Dân có giàu thì nước mới có thể mạnh, nước mạnh có khả năng thực hiện sự công bằng xã hội và có cuộc sống văn minh. Vì vậy, phải phát huy nỗ lực làm giàu cho mọi công dân. Nhà nước không những khuyến khích mọi người làm giàu một cách hợp pháp mà còn tạo điều kiện, giúp đỡ bằng nhiều biện pháp. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật, phát triển dịch vụ việc làm. Phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Tạo điều kiện cho mọi người lao động tự tạo, tìm kiếm việc làm. Thực hiện xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội và các hoạt động nhân đạo, từ thiện. Để từng bước đạt tới sự tiến bộ và công bằng xã hội trong phân phối thu nhập, xuất phát từ điều kiện cụ thể, nhiệm vụ trước mắt là phải thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chương II Thực trạng quan hệ phân phối và một số giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay 2.1. Thực trạng Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá với kinh tê hàng hoá nhiều thành phần, tất yếu phải đổi mới chính sách kinh tế - xã hội cũ trước đây cho phù hợp vớ cơ câu cơ chế mới của nền kinh tế. Trong đó việc thay đổi về vấn đề phân phối thu nhập là rất quan trọng. Trong đó chính sách tiền lương, tiền công ... là đặc biệt quan trọng. Để có cơ sở cho việc đổi mới đó, trước hết cần phải đánh giá đúng thực trạng của các chính sách đó. Trên cơ sở đó mới có thể đưa ra những phương hướng giải quyết trong thời gian tới. 2.1.1. Việc phân phối qua hệ thống tiền lương của nhà nước có nhiều điểm bất hợp lý. Tiền lương tối thiểu điều chỉnh thấp không đủ chi cho nhu cầu thiết yếu của người lao động và gia đình họ, về lý thuyết thì xây dựng các mức tiền lương tối thiểu nhu cầu của người lao động được ưu tiên xem xét và tính toán tỷ mỷ. Tuy nhiên khi ban hành thường không đảm bảo. Ví dụ tại thời điểm 1/4/1993 mức tiền lương tối thiểu được tính toán là 170 nghìn đồng/ người/ tháng. Trong khi đó mức tiền lương tối thiểu ban hành chỉ có 120 nghìn bằng 70%. Việc điều chỉnh các mức tiền lương tối thiểu rất chậm, không theo kịp với tốc độ tăng giá cả các mặt hàng thiết yếu nên khả năng tái sản xuất sức lao động của tiền lương tối thiểu ngày càng bị giảm đi. Ví dụ : Nếu điều chỉnh tương ứng với tốc độ tăng giá cả thì mức tiền lương đủ sống tại thời điểm lần một ( năm 1997) phải đạt 289 nghìn, tại lần điều chỉnh thứ hai (1999) phải đạt 312 ngàn đồng. Tại lần điều chỉnh thứ 3 (2001) phải đạt 308 ngàn đồng, nếu lấy mức tiền lương tối thiểu quy định năm 1993 là 120 ngàn đồng điều chỉnh với tốc độ trượt qua các năm thì cần phải đạt 200 ngàn (1997) : 225 ngàn (1999) và 240 ngàn ( 2001) Kết quả tiền lương tối thiểu rất gần với người ngèo. Nếu áp dụng định nghĩa về chuẩn nghèo quốc tế ( 2100 Kcalo/người / ngày) tiền lương tối thiểu do nhà nước ban hành năm 1993 gấp 1,9 lần ngưỡng nghèo về lương thực, thực phẩm; 1,2, ngưỡng nghèo chung. Năm 1997 các chỉ số tương ứng lá 1,3 và 0,8. Năm 1999 là 1,4 và 0,9 và năm 2001 tăng lên khoảng 1,7, và 1,1 ( lưu ý là mức nghèo chỉ tính cho 1 người còn mức tiền lương tối thiểu phải đảm bảo nuôi 0,6 người ). Năm 2003 với mức tiền lương tối thiểu khoảng 290 ngàn thì gấp khoảng 1,8 lần ngưỡng nghèo chuẩn quốc tế. Dưới giác độ kinh tế chính sách tối thiểu " thấp hợp lý" đã hạn chế tính linh hoạt và hiệu quả của doanh nghiệp, không khuyến khích cắt thị trường lao động giả tạo, sự gian rối và lộn xộn trong hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp. Đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước khiến thất thu ngân sách. Tính chất bình quân chủ nghĩa vẫn còn, biểu hiện qua số bậc trong nghạch lương còn quá nhiều, hệ số tăng giữa hai bậc lương quá thấp, lại không có quy định nâng lương sớm trươc thời hạn, bất kể công việc ra sao ... nên chưa khuyến khích được sự hăng say trong công tác. Mức lương thực tế đang ngày càng rời xa mức lương danh nghĩa. Tính chung, từ năm 1993 đến hết năm 1998, giá cả đã tăng lên tới gần 50%, tưc là tới thời điểm cuối năm 1998 mức lương thực tế đã giảm đi một nửa so với thời điểm áp dụng chính sách tiền lương mới theo nghị định 25/CP, mặc dù Nhà nước đã nâng mức lương tối thiểu từ 120.000 đồng / tháng lên 144.000 đồng / tháng. 180.000 đồng / tháng và210.000/ tháng ( từ 1/1/ 2002) để điều chỉnh những bất hợp lý trong chính sách tiền lương cho phù hợp hơn thực tiễn cuộc sống. Chính sách tiền lương có nhiều điểm bất hợp lý giữa các khu vực các bộ phận cũng như các đơn vị sản xuất kinh doanh trong nội bộ khui vực doanh nghiệp nhà nước. Ví dụ, tình trạng bất hợp lý giữa các khu vực thể hiện ở việc xếp các khu vực nghiên cứu và triển khai vào từng ngạch bậc với khu vực hành chính sự nghiệp. Tiền lương trong nội bộ khu vực doanh nghiệp nhà nước có rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Ví dụ, có những doanh nghiệp chỉ đạt mức lương tối thiểu 200.000 đồng – 300.000 đồng/ tháng. Trong khi mức lương ở một số doanh nghiệp có sản phẩm độc quyền trên 2 triệu đồng/ tháng. Ngoài ra ở nước ta đang tồn tại sự không bình đẳng trong việc trả lương lao động ở một số nghành nghề kinh doanh. Theo loại hình doanh nghiệp hay theo khu vực kinh tế. Số liệu điều tra cho thấy nghành có thu nhập cao nhất hiện nay là nghành dịch vụ ( tài chính, ngân hàng, kinh doanh vàng bạc, khách sạn và du lịch ...) Ngành có thu nhập thấp nhất là khu vực quản lý nhà nước ( quận, huyện, sở ban ngành) , thu nhập bình quân lao động của ngành dịch vụ năm 1994 là 17,07 triệu đồng năm 1995 là 24,01 tiệu đồng năm 1996 là 28,68 triệu đồng. Trong lúc thu nhập bình quân năm của lao động ở khu vực quản lý nhà nước chỉ đạt 4,58 triệu năm 1994; 5,21 triệu năm 1995, và 5,51 triệu năm 1996. Như vậy thu nhập bình quân của một lao động ở khu vực quản lý kinh doanh dịch vụ cao cấp 5,2 lần thu nhập bình quân của một lao động ở khu vực quản lý nhà nước, các ngành còn lại có thu nhập bình quân cao gấp 2,1 lần đến 2,5 lần thu nhập bình quân cuả lao động công chức thuộc khu vực quản lý Nhà nước. 2.1.2. Hệ thống chính sách liên quan đến phân phối thu nhập ngoài lĩnh vực tiền lương của nhà nước có vai trò hết sức to lớn đối với tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, nhưng chưa được nhìn nhận đúng mức và chưa chuyển biến kịp với quá trình chuyển sang cơ chế thị trường. Đó là các chính sách phân phối thu nhập theo sự đóng góp của các nguồn lực khác vào quá trình tăng trưởng kinh tế ngoài sức lao động như nguồn vốn vật chất, tài chính. Các chính sách phân phối lại qua các loại thuế, chính sách tạo sự bình đẳng thật sự trong cơ hội tiếp cận sự tăng trưởng kinh tế để thông qua đó nâng cao thu nhập. Người nghèo, vùng nghèo đang có nguy cơ đứng ngoài quá trình chuyển đổi cơ chế hiện nay do gặp những hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn lực phát triển khác. 2.1.3. Tính chất chưa hoàn thiện của thể chế kinh tế mới đang hình thành trong quá trình chuyển đổi ( vừa có cơ chế thị trường nhưng chưa hoàn thiện vừa còn tình trạng kế hoạch hoá tập trung chưa được giải quyết triệt để) cũng gây tác động không thuận nhất định trong việc sử lý mối tương quan giữa phân phối thu nhập và tăng trưởng kinh tế. Trước hết đó là sự thiếu nhất quán trong mặt bằng cơ chế, sự thiếu vắng hoặc không linh động thị trường vốn, thị trường lao động, hệ thống pháp luật không đồng bộ.... vả lại, trong nhận thức chung của xã hội vấn đề thu nhập thường được hiểu như là thuộc lĩnh vực chính sách xã hội , chứ không phải là vấn đề của bản thân sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. 2.1.4. Do nền kinh tế ở trình độ thấp, nên khả năng đáp ứng phúc lợi xã hội của nhà nước cũng ở mức độ thấp trên phạm vi toàn xã hội. Đến nay mới thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội với 14% số người lao động, còn lại 86% ( trong đó 63% là nông dân) chưa được tham gia bảo hiểm xã hội ( mới làm thí điểm cho nông dân ở Nghệ An) ; chưa có chế độ bảo hiểm thất nghiệp chưa có đủ khả năng và các biện pháp để xây dựng cơ sở hạ tầng tối thiểu, các công trình công cộng nhất là ở những vùng sâu vùng xa. 2.1.5. Giải quyết việc làm tạo cho người thu nhập là vấn đề còn phải giải quyết lâu dài. Theo kết quả lao động việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực đô thị trêncả nước ( So với dân trong độ tuổi lao động hoạt động kinh tế) là 6,42% năm 2000. Và 6,28% năm 2001. Tỷ lệ thất nghiệp năm 2001 có giảm chút ít so với năm 2000. Nhưng vẫn ở mức cao. Vùng đồng bằng sông hồng là 7,07%. Vùng Đông – Bắc là 6,78%; Vùng Bắc – Trung bộ là 6,82%; Vùng tây nguyên là 5,55% các tỉnh, thnhf phố lớn tỉ lệ thất nghiệp giảm đi. Hà nội tỷ lệ thất nghiệp là 7,95% năm 2000 giảm xuống còn 7,39% năm 2001 .... Tỷ lệ về thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn; 74,37% tăng hơn so với năm 2000. Như vậy, thời gian qua nhờ có sự cố gắng của Đảng, nhà nước và cộng đồng xã hội trong việc phát triển kinh tế – xã hội tạo ra nhiều việc làm mới, nên tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở cả khu vực đô thị và khu vực nông thôn vẫn còn ở mức cao, đây vẫn đang là vấn đề bức xúc cần giải quyết. 2.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay. 2.2.1. Cải cách tiền lương trong giai đoạn tới Nhiều năm qua chúng ta tiến hành sản xuất tiền lương theo nội quy trình ngược, lấy ngân sách làm chuẩn. Để từ đó tìm mọi giải pháp thực hiện dần dần cho đến khi mức lương phù hợp với giá trị sức lao động. Hậu quả của việc thực hiện quy trình ngược là hơn một thập niên qua,dù đã điều chỉnh nhiều lần, mức lương vẫn chỉ dao động trên dưới 30% giá trị sức lao động. Những nhà quản lý tài chính ngân sách, tiền tệ biện minh trước các kỳ họp quốc hội là do thiếu ngân sách, thiếu tiền nên không thể tăng lương do tăng năng xuất lao động với việc trượt lương theo giá do yêu cầu cải cách giá đặt ra để đảm bảo đồng lương thực tế. Đó là nguyên nhân dẫn đến kéo dài sự vi phạm quy luật giá trị sức lao động và nó đang gây ra tiêu cực trên mọi lĩnh vực hoạt động đời sống xã hội. Để đảm bảo tính khoa học của cải cách tiền lương, đề nghị phải chuyển sang thực hiện quy trình thuận. Tức là phải xây dựng mức lương tối thiểu phù hợp với giá trị sức lao động làm chuẩn, sau đó tiến hành các giải pháp tạo nguồn thu để từng bước thực hiện mức lương chuẩn đã xác định. - Phải làm cho tiền lương thực sự trở thành giá cả của sức lao động: Hiện nay ở Việt Nam thị trường sức lao động đang được hình thành sức lao động cũng trở thành hàng hoá, người lao động có quyền tự do lựa chọn nơi làm việc đáp ứng các nhu cầu, khả năng của mình theo đúng hợp đồng lao động. Trong nền kinh tế thị trường tiền lương thực sự là giá cả của sức lao động, điều đó đỏi hỏi phải tính đúng, tính đủ giá trị của sức lao động để làm cơ sở cho việc xác định tiền lương. Muốn vậy, mức lương cho người lao động phải thể hiện trình độ học vấn, tay nghề, quá trình lao động giản đơn hay lao động phức tạp. Mức lương đó phải thoả mãn nhu cầu tái sản xuất và mở rộng sức lao động. Đảm bảo cho người lao động sống đủ mà không cần phải làm gì thêm. Nếu họ muốn làm giàu thì buộc phải làm thêm nhiều việc.... chỉ trên cơ sở như vậy tiền lương khuyến khích thế hệ trẻ để ra sức học tập, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật và nghiệp vụ sản xuất kinh doanh thích ứng với cơ chế thị trường. Để tiền lương thực sự là đòn bẩy thúc đẩy người lao động làm việc với sức sáng tạo cao. Trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách tiền lương. Trong việc xác định tiền lương cần quán triệt các quan điểm sau đây: - Tiền lương phải đủ đảm bảo tái sản xuất mở rộng sức lao động nó phải thực sự là thu nhập chủ yếu của người lao động. - Tiền tệ hoá lương một cách triệt để (xoá bỏ tận gốc các khoản bao cấp trong phân phối). - Mức lương phải gắn liền với trình độ phát triển kinh tế xã hội, hiệu quả sản xuất kinh doanh, quan hệ cung cầu lao động, mức cống hiến của từng cá nhân, sự biến động của giá cả và lạm phát. - Chống chủ nghĩa bình quân trong việc trả công lao động. Để hoàn thiện giải quyết vấn đề tiền lương, cần tiếp tục xác định mức lương tối thiểu. Tiền lương tối thiểu ở đây cần được hiểu là tiền lương tối thiểu có thể đảm bảo. Tức là một mức lương đảm bảo cho một mức sống tối thiểu. Nếu nhỏ hơn mức đó sẽ là thảm hoạ cho con người (theo ASmith). Tuy nhiên mức sống của con người lao động phải phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển kinh tế xã hội. Mức lương tối thiểu đó phải đảm bảo tính toán đầy đủ các yếu tố cần thiết của quá trình tái sản xuất sức lao động (cả về sinh lý, nhân văn và các quan hệ xã hội). Tiền lương tối thiểu phải đảm bảo tính thống nhất: Việc xác định và thực hiện tiền lương tối thiểu thống nhất sẽ tạo điều kiện để giữ vững vai trò điều tiết của Nhà nước và phát huy quyền tự chủ của các tổ chức kinh tế trong lĩnh vực lao động. Tiền lương tối thiểu thống nhất là công cụ cần thiết để bảo hộ giá trị sức lao động cho những người lao động không phân biệt đó là thành phần kinh tế nào. Nhà nước cần sớm luật pháp hoá tiền lương tối thiểu nhằm ngăn ngừa và giải quyết các chanh chấp giữa các giới chủ và thợ. Buộc những người sử dụng lao động phải tìm cách khác để giảm chi phí, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo vệ cho người làm công ăn lương. Việc luật pháp hoá tiền lương tối thiểu bao gồm việc xác định mức lương, tiền lương cụ thể và phải điều chỉnh nó trong từng thời kỳ theo đà phát triển của sản xuất và mức tăng của năng suất lao động, đồng thời cũng điều chỉnh trong từng thời gian những mức lương tối thiểu áp dụng cho từng vùng khác nhau. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý phân phối tiền lương cho người lao động. Vì nguồn tiền lương ở hệ thống trả lương khác nhau nên có cơ chế quản lý phân phối nó khác nhau. + Đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh cụ thể là các doanh nghiệp quốc doanh, nguồn tiền chi trả không phải từ ngân sách mà phải từ kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này. Ngân sách Nhà nước phải tiếp tục việc cắt hẳn những khoản chi bao cấp về tiền lương và thu nhập. Các doanh nghiệp này sau khi bù đắp các chi phí, hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách, tổng thu nhập còn lại của doanh nghiệp do doanh nghiệp toàn quyền sử dụng, phần chia cho các quỹ, Xí nghiệp. Nhà nước cần thực hiện việc kiểm soát và điều tiết tổng thu nhập các doanh nghiệp. + Trong lĩnh vực hành chính sự nghiệp: Nhà nước trả lương phải trên cơ sở biên chế nghiêm ngặt và tiếp tục thực hiện việc khoán quỹ lương. Trong lĩnh vực này thực hiện khoán quỹ lương theo khối lượng công việc.... Nếu thực hiện mạnh mẽ việc sáng lọc, sa thải và thực hiện tuyển dụng lại theo quy chế mới với phương châm chú ý chất lượng, trình độ, hạn chế dần số lượng, tiến tới tinh giảm bộ máy đến mức tối ưu. * Cải cách hành chính, sắp xếp lại bộ máy bầu cử tránh trung lặp sửa đổi pháp lệnh công chức xác định rõ chức danh làm căn cứ trả lương công chức hành chính và cán bộ dân cử, bầu cử. * Cải cách chế độ thanh toán kế toán hiện hành sao cho Nhà nước có thể kiểm soát được sự vận động của tiền lương trong xã hội, kiểm soát được thu nhập của từng người lao động. * Coi cải cách cơ cấu thu chi ngân sách phù hợp với cơ cấu thị trường định hướng XHCN vừa là trọng tâm, vừa là cấp bách để giải quyết vấn đề kinh tế, xã hội nói chung và cải cách tiền lương nói riêng ở nước ta trong giai đoạn tới. Theo đó cần hoàn thiện hệ thống thuế sao cho thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước. Mọi hoạt động có thu nhập đều phải đóng thuế, thực hiện thuế tiền lương, tiền công đối với người lao động. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư, giảm tỷ trọng đầu tư phát triển giảm đầu tư ngân sách Nhà nước cho các doanh nghiệp Nhà nước. Khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài kinh tế Nhà nước đầu tư vào sản xuất ra hàng hoá thông thường ( hàng hoá tư nhân): Đầu tư Nhà nước chủ yếu tập chung vào lĩnh vực phát triển sự nghiệp kinh tế. Thực hiện chi tiêu của ngân sách Nhà nước, chủ yếu là chi thường xuyên và trong đó chủ yếu cho tiền lương. 2.2.3. Các giải pháp phân phối theo lao động trong cơ chế thị trường định hướng XHCN Giải pháp toàn bộ cho vấn đề này là phải thấy rõ được mối quan hệ biện chứng kéo cách giữa ba nhân tố: Nhân tố thứ nhất, kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa chứa hai xung lực: khu vực kinh tế quốc doanh - tập thể và khu vực tư nhân, cá thể, tư bản. Nhân tố thứ hai là cơ chế thị trường chứa hai sung lực: sức mạnh thị trường và những tiêu cực của nó lại tác động vào tất cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội. Nhân tố thứ ba là nhà nước được tạo dựng trên cơ sở hạ tầng và tác động trở lại cơ sở hạ tầng xã hội. Các Mác nêu lên: "lực lượng vật chất chỉ có thể đánh bại bởi lực lượng vật chất thôi. Nhưng lý luận sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng" . Lênin cũng nêu "không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng". Lênin còn chỉ ra rằng: " Người cách mạng, người cộng sản ý thức được xu thế của thời đại, phải tự giác bắt tay vào xây dựng xã hội mới, không trông chờ hoàn cảnh chín muồi đến mà phải biết tạo hoàn cảnh". Vai trò này thuộc về bộ tham mưu Đảng - Nhà nước - người tổ chức, dắt dìu mọi hoạt động xã hội phải triển khai thực hiện những vấn đề dưới đây: - Nước ta phải xây dựng cho được cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, bằng con đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đồng thời ta phải đón đầu để hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. Đảm bảo cho thành phần kinh tế quốc doanh phát triển, hỗ trợ đắc lực cho nền kinh tế tập thể, tạo ra cơ sở kinh tế xã hội để thực hiện

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60013.doc
Tài liệu liên quan