Lời mở đầu
Chương I: Các vấn đề cơ bản về quan hệ kinh tế quốc tế
I. Quan hệ kinh tế quốc tế
1. Khái quát về quan hệ kinh tế quốc tế
2. Các lĩnh vực quan hệ kinh tế quốc tế
3. Lợi thế so sánh trong quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc
II. Dự báo tương lai quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Trung Quốc
Chương II: Thực trạng về quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc
I. Thực trạng về vấn đề xuất nhập khẩu giữa Việt Nam - Trung Quốc
1. Về xuất nhập khẩu chính ngạch
2. Về xuất nhập khẩu tiểu ngạch
3. Đánh giá về buôn bán tiểu ngạch
II. Nhận xét đánh giá chung về quan hệ Việt nam - Trung Quốc
1. Vấn đề đầu tư liên doanh hợp tác giữa Trung Quốc - Việt Nam
2. Vấn đề xuất nhập khẩu buôn bán chính ngạch, buôn bán tiểu ngạch
3. ảnh hưởng của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với kinh tế Việt Nam và quan hệ Việt - Trung
Chương III: Phương hướng và triển vọng phát triển quan hệ thương mại hai nước
I. Một số dự báo phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Trung Quốc trong thời gian tới
II. Một số ý kiến đề xuất nhằm phát triển quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
1. Kiến nghị đối với Nhà nước
2. Kiến nghị đối với doanh nghiệp
a. Giải pháp thị trường về mặt vi mô
b. Tăng cường tìm hiểu về thị trường Trung Quốc
c. Nâng cao trình độ kỹ thuật nghiệp vụ buôn bán quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam cho ngang bằng với các doanh nghiệp Trung Quốc
51 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1572 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Trung quốc. thực trạng và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhập khẩu giữa Việt Nam - Trung Quốc chưa đầy đủ, chưa phù hợp .
Quản lý cửa khẩu, hoạt động hải quan còn nhiều khó khăn và tiêu cực .
Gian lận thương mại diễn ra ở nhiều nơi trên dọc tuyến biên giới .
e. Khả năng đáp ứng cũng như năng lực cạnh tranh của hàng hoá và của bản thân các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam còn hạn chế .
Lượng hàng hoá Việt Nam xuất sang Trung Quốc còn nhỏ bé, thậm chí có mặt hàng cung không đủ cầu .
Một số mặt hàng từng được độc chiếm thị trường TQ nay đang phải cạnh tranh với một số nước như hạt điều ấn độ.
Các doanh nghiệp Việt Nam chưa có chiến lược xuất khẩu cụ thể cho các mặt hàng vào thị trường Trung Quốc
Các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu thông tin, từ đó dẫn đến nhiều doanh nghiệp thiếu hiểu biết cụ thể về thị hiếu người tiêu dùng, về thị trường và về các doanh nghiệp xuất khẩu của Trung Quốc . Vai trò của các hiệp hội ngành hàng giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc rất yếu làm cho các doanh nghiệp chưa chủ động về nguồn hàng xuất khẩu.
II/ THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ LIÊN DOANH - HỢP TÁC ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM.
So với hoạt động XNK thì hoạt động đầu tư giữa hai nước kém sôi động hơn. ở đây chủ yếu phân tích phần vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam . Theo thống kê chính thức, tổng số dự án đầu tư trực tiếp của Trung Quốc (không tính Hồng kông ) vào Việt Nam được cấp giấy phép từ năm1988-2000 là 105 dự án với tổng số vốn đăng ký 151 triệu USD . Điều này cho thấy, qui mô của các dự án đầu tư tương đối nhỏ, trung bình 1/5 tr0iệu USD một dự án . Nhìn chung thời gian hoạt động trung bình của các dự án không dài, đa số từ 10-15 năm, chủ yếu hướng vào khách sạn, nhà hàng và một số lĩnh vực công nghiệp nhẹ . Mặc dù qui mô đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam còn hạn hẹp như vậy song tính đến 9/1999 đã có 39 triệu USD trong tổng số 118,6 triệu USD đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam đã đưa vào sử dụng (trên 30%), thu hút hơn 1.550lao động làm việc trực tiếp, đạt doanh thu 34 triệu USD, trong đó xuất khẩu được 6 triệu USD .
Dưới đây là bảng liệt kê những con số cụ thể về số dự án và kim ngạch đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam từ tháng 11/1999-11/2001.
Thời gian
Tổng số dự án đầu tư
Tổng kim ngạch đầu tư theo giấy phép
Tính đến tháng 12/1999
76
130.000.000USD
Tính đến tháng 12/2000
92
148.000.000USD
Tính đến tháng 12/2001
110
221.000.000USD
Nguồn : Báo đầu tư 11/9/2001
Căn cứ vào thực trạng nhu cầu của thị trường Việt Nam và dựa vào khả năng tiền vốn và ưu thế kỹ thuật sẵn có . Thời gian qua, các doanh nghiệp Trung Quốc đã đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh sau đây : Khách sạn, nhà hàng, sản xuất lắp ráp đồ điện dân dụng, sản xuất phụ tùng và lắp ráp xe máy, thuốc trừ sâu, gia công gương kính, da giầy, thiết bị liên quan đến ngân hàng, một số ngành chế biến và nuôi trồng như thực phẩm, hải sản, gia súc ...ngoài ra còn có đồ chơi trẻ em, thuốc đông y, đầu tư xây dựng hạ tầng, khu chế xuất ... Nhìn chung, đây là những lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà Việt Nam có nhu cầu phát triển trong thời kỳ xây dựng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cũng là những lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà phía các doanh nghiệp Trung Quốc có ưu thế cạnh tranh tương đối, nhất là về giá cả sản phẩm . Hơn nữa, cơ cấu đầu tư của TQ vào VN có những điểm giống với đầu tư TQ trên thế giới và tại các nước ASEAN : Chủ yếu đầu tư vào cơ sơ hạ tầng do Trung Quốc có kinh nghiệm tích luỹ về lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng tại một nước đang phát triển về kinh tế, có đội ngũ kỹ sư và công nhân xây dựng tinh thông nghiệp vụ được tôi luyện trong những năm cải cách kinh tế . Hiện nay hơn 5000 doanh nghiệp Trung Quốc đang hoạt động tại 120 nước và khu vực với tổng số vốn đầu tư trực tiếp là hơn 5 tỷ USD.
Về phía mình do năng lực còn hạn chế nên số lượng đầu tư của Việt Nam vào Trung Quốc không nhiều, chỉ tập trung tại hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây. Tại Vân Nam đầu tư của Việt Nam chỉ là 240.000USD.
Nói tóm lại, 10 năm qua đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại VN có sự tăng trưởng với tốc độ vừa phải tính đến tháng 8/2002 tăng gấp 3,3 lần về số dự án đầu tư và hơn 3,5lần về tổng kim ngạch đầu tư so với năm 1995. Đến nay, TQ đứng hàng thứ 22 trên tổng số hơn 60 nước và vùng lãnh thổ nước ngoài có đầu tư vào VN . Mặc dù vậy, tính đến nay, đầu tư trực tiếp của TQ tại VN còn ít cả về số lượng dự án lẫn tổng kim ngạch đầu tư như đã nêu trong bảng liệt kê ở trên, ít hơn rất nhiều so với đầu tư trực tiếp cuả TQ tại Campuchia và các nước ĐÔng Nam Á khác trong cùng thời gian . Tính đến tháng 12/1999 TQ có 129 dự án dầu tư trực tiếp với tổng kim ngạch đầu tư là 260 triệu USD tại Campuchia, trong cùng thời gian thì đầu tư trực tiếp của TQ vào VN chỉ có 76 dự án với tổng kim ngạch đầu tư là 130 triệu USD.
Nhưng cũng phải nói rằng, Tuy đầu tư trực tiếp của TQ vào VN thời gian qua chưa nhiều, song cũng đã đem lại lợi ích thiết thực cho cả hai phía đầu tư và tiếp nhận đầu tư . Thông qua các dự án đầu tư trực tiếp mà Việt Nam có thêm một số xí nghiệp, nhà máy với những thiết bị máy móc, kỹ thuật, công nghệ sản xuất mới và doanh thu mới cho người lao động VN.
Hợp tác du lịch Việt Nam – Trung Quốc cũng là mặt nổi bật trong quan hệ kinh tế hai nước Hiệp định hợp tác du lịch mà hai nước ký đã tạo tiền đề vững chắc góp phần củng cố mối quan hệ hợp tác toàn diện, chặt chẽ hơn giữa hai nước nói chung và hai ngành du lịch nói riêng . Sau hiệp định, số lượng khách du lịch tăng vọt, năm 1997 tăng vọt lên 400 ngàn lượt người, 1999 tăng 480 ngàn lượt người chiếm khoảng 27% tổng lượng khách du lịch . Số người Việt Nam đi du lịch TQ cũng ngày một tăng. Hiện nay hàng năm lên tới 20 ngàn lượt người . Đầu năm 2000 Quốc vụ viện TQ đã quyết định coi VN là thị trường đưa khách du lịch là công dân Trung Quốc mang hộ chiếu đến du lịch . Đây là tiền đề mới cho sự tăng cường mức độ hợp tác du lịch hai nước .
Bên cạnh hợp tác du lịch Việt _ Trung, Hợp tác khoa học công nghệ giữa VN-TQ cũng rất có hiệu quả, góp phần giải quyết một số vấn đề kỹ thuật trong sản xuất, phục hồi kinh tế . Hai bên đã tiến hành trao đổi các đoàn cấp cao về khoa học kỹ thuật, các đoàn chuyên gia nhằm thông báo cho nhau về chính sách phát triển khoa học kỹ thuật của mỗi nước, trao đổi kinh nghiệm quản lý và các thành tựu về khoa học kỹ thuật . Trong giai đoạn này TQ giúp VN nhiều công trình quan trọng như khu gang thép Thái Nguyên khu công nghiệp Thượng Đình phân đạm Bắc Hà ... TQ đã đào tạo hàng nghìn cán bộ khoa học kỹ thuật cho Việt Nam tại các trường đại học, các viện nghiên cứu khoa học và các xí nghiệp TQ . VN & TQ đã tích luỹ được những kinh nghiệm bước đầu và có công nghệ tương đối cao, tiên tiến trong nghành xây dựng. Do vậy việc liên doanh, liên kết, thành lập các công ty liên doanh, hợp tác trong đấu thầu xây dựng các đoạn giao thông vận tải tại Việt Nam là hướng rất có triển vọng trong hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung Quốc.
III/ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC.
Những thành tựu trong quan hệ Việt Nam –Trung Quốc thời gian qua cho thấy lãnh đạo hai nước rất quyết tâm đẩy mạnh các hoạt động giao lưu, nhằm góp phần phát triển công cuộc xây dựng kinh tế của mỗi nước đồng thời góp phần củng cố quan hệ hữu nghị toàn diện giữa hai dân tộc . Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được quan hệ kinh tế thương mại VN-TQ còn gặp rất nhiều khó khăn đòi hỏi chính phủ hai nước có một loạt chính sách để mở rộng quan hệ kinh tế thương mại hai nước. Tuy vậy đánh giá về quan hệ hai nước như sau:
1/Vấn đề đầu tư - liên doanh - hợp tác giữa Trung Quốc - Việt Nam.
Hiện nay đầu tư của TQ vào VN so với các nước Đông Nam Á còn thấp. Có một số lý do khiến cho đầu tư trực tiếp của TQ tại VN ít về dự án đầu tư đặc biệt là tổng kim ngạch đầu tư . Phía TQ cho rằng: Trung Quốc vẫn còn là nước đang phát triển, đang tiến hành xây dựng “Bốn hiện hoá” trên qui mô lớn nên cần thu hút nhiều đầu tư trực tiếp . Hơn nữa Lĩnh vực mà phía Việt Nam muốn thu hút đầu tư thì ở Trung Quốc lĩnh vực sản xuất kinh doanh đó vẫn cần đầu tư . Nhưng theo em nhận thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam trong những năm qua còn ít là giới đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc chưa thực sự tin tưởng và coi trọng thị trường đầu tư ở Việt Nam .
Lý do thứ hai là trong những năm qua các nhà đầu tư Trung Quốc đến Việt Nam đầu tư trực tiếp hầu như là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiền vốn có hạn, kỹ thuật và công nghệ sản xuất chưa thật tiên tiến và hiện đại, do đó sức cạnh tranh yếu, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn .
Thứ ba, Qui mô các dự án đầu tư của Trung Quốc đã thực hiện tại Việt Nam thời gian qua là nhỏ, tính trung bình khoảng 2 triệu USD cho một dự án đầu tư, nhỏ hơn nhiều cho các dự án đầu tư của các nước khác tại Việt Nam . Xin nêu một ví dụ cụ thể để so sánh . Tính đến tháng 8/ 2001 Thái lan có 92 dự án đầu tư trực tiếp tại VIệt Nam với tổng kim ngạch đầu tư theo giấy phép là hơn 1 tỷ USD . Tính trung bình qui mô đầu tư của mỗi dự án là trên 10,8 triệu USD gấp hơn 5,4 lần so với qui mô các dự án đầu tư của Trung Quốc . Qui mô của các dự đầu tư trực tiếp của các nước khác như Singapore, Malaixia, Nhật bản, Hàn Quốc, Châu âu... còn lớn hơn con số trên .
Thứ tư, về hình thức đầu tư, các dự án đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam 10 năm qua đều được triển khai dưới hai hình thức chủ yếu là dự án liên doanh với phía đối tác Việt Nam chiếm đa số và dự án 100% tiền vốn của phía các doanh nghiệp Trung Quốc .
Thứ năm, như đã nêu ở trên lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà các nhà đầu tư Trung Quốc đầu tư vào tương đối nhiều và đa dạng nhưng phần lớn đều thuộc vào ngành công nghiệp nhẹ, gia công chế biến sản phẩm nông lâm hải sản và sản xuất hàng tiêu dùng, kỹ thuật và công nghệ sản xuất đòi hỏi không cao lắm, sản phẩm chủ yếu tiêu thụ ở trong nước, không cần nhiều tiền vốn đầu tư lại thu hồi vốn nhanh .
Tuy nhiên cũng phải nhận định rằng, môi trường đầu tư của Việt Nam chưa thật hấp dẫn và thông thoáng như chế độ giá cả, lệ phí đối với các doanh nghiệp liên doanh cao hơn đối với các doanh nghiệp trong nước ( giá quảng cáo chênh nhau đến 4-5 lần khiến các doanh nghiệp liên doanh gặp khó khăn trong việc quảng bá sản phẩm), cũng có thể là các đối tác liên doanh phía Việt Nam là các doanh nghiệp nhà nước có đặc trưng hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp không phải là các đối tác hấp dẫn các doanh nghiệp TQ...Đó đều là những lý do khiến Việt Nam thu hút chưa nhiều vốn đầu tư . Song nếu như người Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông, Nhật Bản ... vẫn vượt trở ngại đầu tư có hiệu quả trong nhiều lĩnh vực tại Việt Nam thì có lẽ việc đầu tư TQ thấp còn lý do hai phía . Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra những gợi ý để các cấp, các ngành, chính quyền và các doanh nghiệp hai nước tham khảo. Nên chăng khuyến khích TQ hợp doanh với VN lập các doanh nghiệp khai thác và chế biến nguyên liêụ như sắt, nhôm, thiếc, than ... tại Việt Nam rồi vận chuyển sang tiêu thụ tại TQ, hoặc lập các doanh nghiệp sản xuất đồ gia dụng, máy móc, linh kiện xe máy, gia công nông sản phẩm... để tiêu thụ tại chỗ.
2/ Vấn đề xuất nhập khẩu buôn bán chính ngạch, buôn bán tiểu ngạch
Sau khi bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, hàng xuất khẩu chủ yếu của VN sang TQ là nông sản và một vài loại khoáng sản. Các sản phẩm xuất khẩu nói chung là nguyên nhiên liệu thô chưa qua chế biến, hàng công nghiệp và chế biến chiếm tỉ lệ nhỏ. TQ nhập khẩu các loại nguyên liệu thô của VN phục vụ sản xuất cho các ngành sản xuất, chế biến trong nước. Sử dụng được giá lao động rẻ, tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động và sản xuất thành phẩm xuất khẩu với hiệu quả cao. Cơ cấu mặt hàng trao đổi buôn bán giữa hai nước rất đa dạng với nhiều hình thức khác nhau nhưng chủ yếu là buôn bán qua đường nhập khẩu chính thức và buôn bán tiểu ngạch qua biên giới theo đường chính thức hoặc không chính thức. Đối với Việt Nam trong khi cán cân buôn bán chính ngạch luôn nhập siêu thì cán cân tiểu ngạch laị luôn xuất siêu. Phía TQ có một chính sách nhất quán và mềm dẻo khuyến khích buôn bán qua biên giới với biện pháp chủ yếu là đánh thuế hàng xuất nhập khẩu thấp hơn so với đường chính ngạch. Ngược lại, chính phủ VN hiện đang thực hiện chính sách buôn bán chính ngạch và hạn chế buôn bán tiểu ngạch. Hoạt động buôn bán tiểu ngạch bị kiểm soát chặt chẽ bởi nhiều ngành khác nhau.
Cho đến nay, cơ cấu hàng VN xuất khẩu sang TQ đã có những biến chuyển bước đầu, tỉ lệ hàng nguyên liệu đã qua chế biến và hàng công nghiệp tiêu dùng đã tăng lên. Một số mặt hàng như cao su, dầu thô, hải sản, hàng rau quả, hạt điều, may mặc, giầy dép, than đá vẫn chiếm tỉ trọng đáng kể trong xuất khẩu của hai nước. TQ là khách hàng số một về cao su với xấp xỉ 40% lượng xuất khẩu, đứng thứ hai về mua than đá VN và là nhà tiêu thụ thuỷ sản thứ tư sau Nhật Bản, Hồng Kông, Mĩ. Còn hàng TQ sang VN là sắt thép, nông nghiệp cơ khí, thiết bị dụng cụ y tế, ngành dệt, phương tiện vận tải, dược liệu, thuốc bảo vệ thực vật, hàng tiêu dùng công nghệ.
Tuy nhiên có một thực trạng đáng lưu ý là hàng chế biến với trình độ và chất lượng trung bình hoặc thấp thậm chí có nhiều hàng là sản phẩm thứ cấp do công nghệ địa phương sản xuất. Với tình trạng như vậy song hàng TQ đã xâm nhập dễ dàng cả vào những trung tâm sản xuất hàng tiêu dùng của VN như thành phố Hồ Chí Minh. Chủng loại hàng hoá của TQ rất phong phú, sát thị hiếu. Hàng liên doanh trong nước tung ra sản phẩm gì TQ có ngay sản phẩm đó.
Một vấn đề cũng cần lưu ý là hàng qua đường tiểu ngạch chủ yếu là hàng công nghiệp tiêu dùng như xe đạp, phụ tùng, đồ điện, điện tử, quần áo may sẵn...Do giá thành thấp lại được hưởng các chính sách ưu đãi xuất khẩu của TQ nên các loại hàng này có sức cạnh tranh rất mạnh trên thị trường VN gây ra nhiều tác động đến hàng sản xuất trong nước, kể cả khi có những chính sách bảo hộ. Hàng tiểu ngạch cũng là những loại hàng chủ yếu nằm trong luồng hàng nhập lậu và trốn thuế do khối lượng phân tán, phương thức đa dạng khó quản lý.
Nói chung các mặt hàng mà phía TQ xuất sang VN trong những năm qua kể cả tiểu ngạch và chính ngạch rất phong phú và đa dạng có đến trên 200 nhóm và mặt hàng cụ thể, gấp đôi số mặt hàng mà VN xuất sang TQ. Mặc dù có những ảnh hưởng tiêu cực như đã nêu ở trên, sức ép của hàng TQ cũng có những ảnh hưởng tích cực đến việc đổi mới công nghệ, đầu tư phát triển của một số ngành của VN. Một số ngành đã phải vươn lên để tồn tại như dệt may, da giầy, xe đạp, bóng đèn, phích nước, bánh kẹo, bột giặt.
Theo em để tăng cường thương mại Việt - Trung về mặt xuất khẩu, VN nên xem trọng khía cạnh hợp tác, nhằm vào những mặt hàng ta có lợi thế so sánh, kết hợp hài hoà giữa ngoại thương chính ngạch với mậu dịch tiểu ngạch; xây dựng quan hệ lâu bền và tin cậy lẫn nhau. Với những mặt hàng xuất khẩu số lượng lớn phải có chiến lược phát triển ổn định. Hoàn thiện tuyến giao nhận kho để tăng cường hiệu quả xuất dầu thô và than. Thiết lập cầu hàng không chuyên chở thuỷ sản tươi sống thẳng từ thành phố Hồ Chí Minh sang TQ để tăng nhanh xuất khẩu mặt hàng này.
3/. Ảnh hưởng của việc Trung Quốc gia nhập WTO
Đối với kinh tế Việt Nam và Quan Hệ Việt – Trung
Trải qua cố gắng 15 năm, cuối cùng Trung Quốc đã bước vào cánh cửa lớn của Tổ chức Thương mại thế giới. Là một nước láng giềng của Trung Quốc, tiến hành cải cách sau Trung Quốc, Việt Nam rất quan tâm đến tiến trình gia nhập WTO của Trung Quốc, và ảnh hưởng của nó đối với kinh tế Việt Nam và quan hệ Trung – Việt. Vậy phải đánh giá chính xác vấn đề này như thế nào? Dưới đây tôi xin đưa ra một vài ý kiến của cá nhân tôi.
A.Ảnh hưởng đối với thương mại Trung – Việt
Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc được hưởng các chính sách ưu đãi mậu dịch đa phương của tổ chức này, nhất là ưu đãi về thuế quan và cắt bỏ hạn ngạch. Điều này sẽ tác động mạnh đến xuất khẩu của các ngành nghề truyền thống, nhất là các ngành tập trung nhiều lao động như ngành dệt, ngành may, giầy da, hoá chất của Trung Quốc; đồng thời Trung Quốc cũng mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là những mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao còn yếu kém ở các nước phát triển như hàng điện tử. Về lý luận, sự mở rộng xuất khẩu của Trung Quốc tất nhiên sẽ tạo nên áp lực nhất định đối với Việt Nam, nước có cơ cấu hàng hoá xuất khẩu và bố cục thị trường khá giống Trung Quốc. Nhưng chúng ta không thể chỉ đơn giản nhìn vào hai nước đều xuất khẩu giầy dép, quần áo sang thị trường Âu Mỹ đã cho rằng sau khi Trung Quốc được hưởng ưu đãi về mặt thuế quan, tăng cường xuất khẩu sẽ cạnh tranh với hàng hoá Việt Nam. Trên thực tế, hàng hoá xuất khẩu của hai nước không cạnh tranh khốc liệt với nhau về cơ cấu trên cùng thị trường xuất khẩu. Tỷ lệ của hàng hoá của hai nước trên thị trường thế giới như thị trường Châu Âu, Mỹ còn khá nhỏ, tỷ lệ của hàng hóa Việt Nam còn nhỏ hơn. Hiện nay, sự gia tăng của hàng hóa Trung Quốc trong thời gian ngắn không thể ảnh hưởng đến kim ngạch hàng hoá tương tự của Việt Nam ở các nước Âu Mỹ. Về lâu dài, với tốc độ tăng trưởng khá cao hiện nay, hai nước sẽ thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu cũng đang không ngừng điều chỉnh, thời gian tới không thể vẫn ở giai đoạn hàng hoá xuất khẩu cấp thấp và hàng hoá giá trị phụ gia thấp. Do vậy, đối với Trung Quốc và Việt Nam, nên suy nghĩ đến việc hình thành ưu thế hỗ trợ lẫn nhau trong tương lai như thế nào . Còn về thương mại Trung-Việt, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc không giống so với hàng hoá của các nước phương Tây, do đó sẽ không chịu ảnh hưởng của chúng. Có thể những mặt hàng như cao su, dầu thô, nguyên liệu...của Việt Nam sẽ đẩy mạnh xuất khẩu nhờ Trung Quốc mở rộng thị trường. Trong cục diện hữu nghị của quan hệ hai nước hiện nay thì mục tiêu Lãnh Đạo hai nước đã đặt ra trong 5 năm tới đạt 5 tỷ USD, tăng gấp đôi so với hiện nay là không có vấn đề gì. Trên thực tế, hai bên đã bắt đầu chú ý đến vấn đề quan trọng nhất trong quan hệ thương mại song phương, đó chính là đưa ra tầng thứ của quan hệ kinh tế thương mại. Trung Quốc có thể nhanh chóng được hưởng từ Việt Nam và dành cho Việt Nam như những gì được hưởng từ thành viên trong tổ chức và dành cho thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, làm cho Việt Nam được tiếp xúc trước với Tổ chức Thương mại thế giới từ con đường nhỏ và thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại Trung - Việt hướng đến phát triển cao hơn, đi đầu trong việc xây dựng Khu mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN trong vòng 10 năm, cố gắng sớm thành lập khu mậu dịch tự do Trung Quốc - Việt Nam, trước hết tìm một khu vực để hoạt động mậu dịch tự do là vô cùng quan trọng.
B.Ảnh hưởng đối với thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam và đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam
Gần đây, Trung Quốc đã tiến hành chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài, không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, đãi ngộ thị trường ngày càng lớn, vì vậy thu hút đầu tư nước ngoài liên tục đứng đầu trong các nước đang phát triển; trong khi đó mấy năm gần đây đầu tư nước ngoài của Việt Nam lại giảm. Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO tất sẽ phải tuân theo cam kết trong đàm phán, mở cửa rất nhiều lĩnh vực kinh tế có dự báo lợi nhuận tương đối lớn mà trước đây bị hạn chế hoặc không mở cửa như ngân hàng, viễn thông, dịch vụ... hơn nữa dự báo tốt trong tương lai do thị trường rộng lớn và tốc độ tăng trường kinh tế nhanh của Trung Quốc mang lại sẽ thu hút vốn đầu tư lớn vào Trung Quốc. Mấy năm gần đây, vốn đầu tư cơ bản của Việt Nam đang có xu thế giảm. Năm 2001 mới có xu thế tốt. Do sự suy thoái của kinh tế thế giới rất nhiều khoản lợi nhuận của tư bản các nước phát triển sẽ thu nhỏ lại, họ phải nhanh chóng tìm kiếm thị trường đầu tư mới, trên thị trường không thiếu vốn, mà cái thiếu chính là thị trường đầu tư vừa thuận lợi vừa thu được lợi nhuận. Có thể nói, thu hút đầu tư nước ngoài không có quan hệ với việc gia nhập WTO, vấn đề mấu chốt là ở mức độ thuận lợi và lợi nhuận hoặc là tương lai của nó, mức độ rủi ro và thu hồi vốn của môi trường đầu tư, có điều khác là sau khi Trung Quốc gia nhập WTO thì mức độ mở cửa thị trường sẽ tăng lên, các qui tắc tương ứng sẽ tiếp cận hơn nữa với quốc tế, đây thực chất là đang chuyển một áp lực khách quan thành động lực và ưu thế. Việt Nam nên tích cực nghiên cứu về thu hút đầu tư của mình, cải thiện thủ tục hành chính rườm rà, chủ nghĩa quan liêu, tham ô, tham nhũng, tính tuỳ tiện của chính sách, thực hiện không triệt để, cơ sở hạ tầng còn kém, giá thành kinh doanh cao... hoàn toàn có thể chủ động mở cửa hơn nữa khi chưa gia nhập WTO, cải thiện môi trường đầu tư, như vậy vừa cải thiện tốt môi trường đầu tư vừa có thể giảm bớt tác động khi gia nhập WTO. Đồng thời, theo nguồn vốn lớn mới chảy vào thị trường Trung Quốc, có một bộ phận tư bản Trung Quốc và tư bản nước ngoài kinh doanh ở Trung Quốc sẽ gặp khó khăn bởi không thích ứng được trong cuộc cạnh tranh mới, sẽ chuyển nguồn vốn này vào Việt Nam, một Thị trường cơ bản giống như Trung Quốc những năm trước đây mà họ đã quen thuộc, đó là biện pháp tốt cho cả hai bên. Việt Nam chỉ cần tăng cường nghiên cứu vấn đề này, làm tốt một số công việc cụ thể, chính xác. Với thị trường không quá lớn như của Việt Nam, việc thu hút đầu tư nước ngoài không nhất thiết phải làm toàn diện, chỉ cần nắm vững mấy điểm này thì có thể kéo theo toàn cục.
c. Ảnh hưởng đối với điều chỉnh cơ cấu và tốc độ, độ sâu, rộng của cải cách mở cửa
Gia nhập WTO đã thúc đẩy cải cách mở cửa toàn diện của Trung Quốc. Có người tổng kết ảnh hưởng này là ảnh hưởng ngắn hạn đối với thương mại, ảnh hưởng trung hạn đối với cơ cấu kinh tế, ảnh hưởng dài hạn đối với thể chế. Đối với Việt Nam đang học tập kinh nghiệm cải cách mở cửa của Trung Quốc ở rất nhiều phương diện, ngoài ảnh hưởng về thương mại, đầu tư còn có vấn đề ở cấp độ sâu xa tương tự như điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Trong mục tiêu và xu thế gia nhập WTO chung hiện nay, cải cách mở cửa đã đẩy nhanh tốc độ dưới tác dụng hai chiều bị động và chủ động, phát triển cả độ rộng và chiều sâu. Cải cách mở cửa khá muộn, tiến triển tương đối chậm chạp của Việt Nam sẽ đứng trước áp lực mới, không thể không đẩy nhanh cải cách khiến rất nhiều vấn đề khi cải cách chậm chạp không bộc lộ thì nay sẽ bộc lộ nhanh chóng. Như đến Đại hội 9 của Đảng Cộng sản Việt Nam mới đưa ra khái niệm kinh tế Thị trường XHCN. Trình bày chủ yếu của khái niệm này đã nhấn mạnh phương hướng XHCN, nhưng chưa nhận thức đầy đủ về nội dung thực chất của kinh tế Thị trường, cải cách kinh tế phát triển dẫn đến một trình độ nhất định tất sẽ yêu cầu cải cách chính trị tương ứng, còn bước đầu tiên của cải cách chính trị là cải cách hành chính. Trở ngại chủ yếu của cải cách là ở những người được hưởng lợi ích. Như vậy, một loạt vấn đề như chủ nghĩa quan liêu, tham ô, tham nhũng sẽ xuất hiện nhanh chóng. Nhưng đây cũng có thể nói là việc tốt, có thể đẩy mạnh cả cải cách và phát triển kinh tế.
d. Trung Quốc gia nhập WTO mang đến cơ hội cho Việt Nam
-Áp lực và thách thức của việc Trung Quốc gia nhập WTO sẽ thúc đẩy Việt Nam cải cách mở cửa nhanh chóng, phát triển kinh tế, từ đó tạo cơ hội cho Việt Nam phát triển nhanh trong thế kỷ mới.
Đối với mở cửa ở Việt Nam chậm hơn cải cách mở cửa ở Trung Quốc mức độ phát triển của toàn bộ nền kinh tế thấp hơn Trung Quốc, tốc độ tăng trưởng kinh tế những năm gần đây lại thấp hơn Trung Quốc. Bình quân tăng trưởng năm của Việt Nam từ 1996 - 2000 là 7,08% còn của Trung Quốc là 8,5%. Trước xu thế kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, nửa đầu năm nay kinh tế Trung Quốc vẫn có xu thế tăng trưởng mạnh, đạt 7,9%, cả năm không thể thấp hơn 7,5%; có người dự đoán gia nhập WTO sẽ làm cho kinh tế Trung Quốc tăng thêm gần 1%, dự đoán năm tới kinh tế Trung Quốc sẽ đảm bảo tốc độ tăng trưởng hiện nay. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nửa đầu năm nay của Việt Nam chỉ có 6,5%, đến cuối năm cũng không thể đạt được mục tiêu 7,5% như dự đoán. Theo tính toán sơ bộ của chúng tôi, về cơ bản mục tiêu phát triển tổng thể của Việt Nam vẫn chỉ bằng mức độ phát triển của Trung Quốc đầu thập kỷ 90. Do cơ số kinh tế không giống nhau, khoảng cách giữa các nước lạc hậu và các nước tiên tiến có thể ngày càng lớn trong quá trình phát triển. Dù nước lạc hậu duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh hơn nước tiên tiến, thì khoảng cách lớn này vẫn duy trì trong một thời gian nhất định mới có thể thay đổi. Đối với Việt Nam còn tương đối lạc hậu thì phải đẩy nhanh cải cách mở cửa, đẩy nhanh phát triển kinh tế mới đuổi kịp Trung Quốc. Kế hoạch 5 năm mới và quy hoạch 10 năm của Việt Nam chính là quyết tâm đẩy nhanh phát triển kinh tế trong thế kỷ mới, cũng như dự báo một tương lai tốt đẹp.
- Sức kéo khi gia nhập WTO cùng với thúc đẩy nhu cầu trong nước, chiến lược khai thác phát triển miền Tây thúc đẩy kinh tế Trung Quốc phát triển, có thể làm cho kinh tế Trung Quốc cất cánh trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái. Thực hiện kế hoạch thành lập Khu mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN sẽ tạo thuận lợi cho việc hình thành môi trường nhỏ trong khu vực, tạo cơ hội phát triển kinh tế cho Việt Nam.
- Gia nhập WTO thúc đẩy Trung Quốc điều chỉnh cơ cấu kinh tế, Việt Nam có thể lợi dụng cơ hội này chủ động cùng điều chỉnh với Trung Q
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0014.doc