Đề tài Quan hệ Thương mai giữa Việt Nam và Nhật Bản thực trạng và giải pháp

 

Lời nói đầu 1

Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản 3

1.1 Cơ sở lý luận. 3

1.2 Cơ sở thực tiễn 9

1.2.1 Các nhân tố từ phía Nhật Bản. 9

1.2.2 Các nhân tố từ phía Việt Nam 12

1.3 Ý nghĩa của quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản. 14

Chương 2: Thực trạng quan hệ thương mại việt nam - nhật bản từ năm 1992 đến nay 20

2.1 Sự tiến triển của quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản từ năm 1973 đến năm 1991 20

2.2 Thực trạng phát triển Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn từ năm 1992 đến nay. 26

2.2.1 Tình hình chung của quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản trong giai đoạn từ 1992 đến nay. 26

2.2.2 Thực trạng phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn từ năm 1992 đến nay. 28

2.2.2.1 Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản. 32

2.2.2.2 Hoạt động nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản. 38

2.3 Đánh giá quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản 42

Chương 3: Những định hướng và giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Nhật Bản 44

3.1 Những thuận lợi và khó khăn trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam – Nhật Bản. 44

3.1.1 Những thuận lợi. 44

3.1.2 Những khó khăn. 45

3.2 Triển vọng mối quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản. 50

3.3. Những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ buôn bán giữa Việt Nam - Nhật Bản. 53

KẾT LUẬN 59

 

 

doc62 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2556 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan hệ Thương mai giữa Việt Nam và Nhật Bản thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3 69.670 1976 39.906 8.795 158.701 1977 71.848 174.669 246.517 1978 50.834 216.820 267.654 1979 48.228 117.734 165.692 1980 48.627 113.090 161.717 1981 37.334 109.449 146.793 1982 36.018 92.339 128.357 1983 37.625 119.221 156.846 1984 51.206 119.221 170.224 1985 65.027 148.036 213.863 1986 82.923 189.187 272.110 Nguồn; Bộ công nghiệp và mậu dịch quốc tế Nhật Bản (Ghi chú: Từ năm 1973 – 1975, chỉ tính kim ngạch buôn bán với Bắc Việt Nam) Giữa những năm 1980, nước ta rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng do lạm phát ba con số (lạm phát phi mã) gây nên. đời sống của nhân dân rất khó khăn. Bên cạnh đó, Mỹ lại thực hiện chính sách bao vây, cấm vận, ngừng viện trợ và đầu tư, kể cả các khoản đã cam kết với chính phủ Việt Nam. Trước tình hình đó năm 1986, nước ta đã thực hiện một bước chuyển đổi cơ bản, từ chỗ nền kinh tế đóng sang mở cửa nền kinh tế. Việc chuyển đổi này, đã giúp Việt Nam gặt hái được nhiều thành công trong thương mại quốc tế. Được sự ủng hộ và quan tâm hợp tác phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, trong đó có Nhật Bản. chỉ riêng trong lĩnh vực ngoại thương, các hoạt động xuất nhập khẩu đều có sự tăng trưởng và phát triển khả quan. Thực tiễn phát triển đã cho thấy, kể từ năm 1989 trở đi, cùng với các sự kiện Việt Nam rút hết quân ra khỏi Campuchia, hoà bình dược thiết lập lại ở Đông Dương. Kinh tế – xã hội Việt Nam sau một số năm thực hiện đổi mới, đã ngày càng ổn định hơn tạo ra những tiền đề kinh tế - chính trị cần thiết đó, cũng là những động lực thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế – văn hoá giữa Nhật Bản - Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. nhiều cơ quan chính phủ và phi chính phủ, phụ trách về hợp tác kinh tế đối ngoại của Nhật Bản đã đến Việt Nam để xúc tiến dần các hoạt động hợp tác kinh tế giữa hai nước. Đó là, các cơ quan như Tổ chức xúc tiến mậu dich Nhật Bản (JETRO); Cục hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA); Quỹ hợp tác kinh tế với nước ngoài (OECF); Liên đoàn các tổ chức kinh tế Nhật Bản (Keidanren) để chuẩn bị cho quá trình hợp tác kinh tế giữa hai nước ngày càng phát triển tốt hơn, phía Nhật Bản đã tổ chức các hoạt động giao lưu: Diễn đàn “kinh tế và văn hoá Nhật Bản” vào tháng 6 năm 1989 tại Tokyo Đến tháng 9 năm 1989, phía Việt Nam đã phối hợp với Nhật Bản tổ chức hội thảo “giao lưu kinh tế Nhật - Việt” tại Hà Nội Nhờ những nỗ lực trên đây, các quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước đã có những bước chuyển biến rõ rệt cả về thương mại và đầu tư. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt – Nhật năm 1991, đạt 879 triệu USD tăng 70,3 % so với năm 1989 và nếu so với năm 1986 là năm đầu tiên của thời kỳ Việt Nam đổi mới thì đã tăng hơn 223,2 %. Đặc biệt là kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật, ngay từ những năm 1991 đã lên tới 662 triệu USD, tăng 697,7%. Nhật Bản đã vươn lên trở thành bạn hàng nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, thay thế vị trí của Liên Xô (cũ) khi đó đã và đang bị tan rã cùng với các nước XHCN ở Đông Âu cũ. Có thể nói tóm lại, tình hình trước năm 1992, cho phép chúng ta có thể rút ra được những nhận xét như sau: - Sau một loạt những thay đổi của tình hình quốc tế và khu vực Châu á Thái Bình Dương từ chính trị, đến an ninh, kinh tế, toàn cầu hoá và khu vực hoá trước những năm 1992 đã tạo ra những cơ hội và thách thức cho các quốc gia trong quan hệ cả song phương lẫn đa phương, hối thúc các quốc gia thiết lập và mở rộng giao lưu kinh tế song phương; quan hệ kinh tế giữa hai nước Việt – Nhật được “tái lập” lại và thúc đẩy mạnh hơn. - Nếu chúng ta coi bối cảnh quốc tế và khu vực là yếu tố tác động “bề ngoài”, thì yếu tố Việt Nam – sự tiếp tục đổi mới kinh tế, những lợi thế và nhu cầu lợi ích là những yếu tố “bên trong” quan trọng thúc đẩy sự tái lập và phát triển quan hệ kinh tế với Nhật Bản. Cả hai yếu tố này đều không thế thiếu, trong việc tạo ra cơ sở để cho quan hệ giữa Việt – Nhật được phát triển. - “Yếu tố Nhật Bản”, cũng là yếu tố “bên trong” không kém phần quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ của hai nước. Nói khác đi, chính tiếm lực kinh tế, chính sách kinh tế đối ngoại hướng về Châu á và lợi ích của Nhật Bản trong quan hệ với Việt Nam đã tạo ra cơ sở cho quan hệ song phương Việt Nam – Nhật Bản được phát triển. 2.2 Thực trạng phát triển Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn từ năm 1992 đến nay. 2.2.1 Tình hình chung của quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản trong giai đoạn từ 1992 đến nay. Trong thời kỳ từ năm 1991 đến năm 1996, là thời kỳ khó khăn nhất của Việt Nam, do khối thị trường mà Việt Nam có quan hệ chính trong hơn 40 năm qua là Liên Xô và các nước Đông Âu cũ đã bị sụp đổ vaò năm 1991. Thời kỳ có nhiều sự kiện quan trọng, tạo bước ngoặt lớn trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta. Trước năm 1991, khối thị trường Liên Xô và các nước Đông Âu cũ, chiếm tới hơn 50% thị phần xuất khẩu và gần 60% thị phần nhập khẩu của Việt Nam. Sự sụp đổ của khối thị trường này, làm cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giảm 13% và kim ngạch nhập khẩu giảm 15% vào năm 1991. Nhưng nhờ có chính sách đổi mới của Chính phủ, Việt Nam đã nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực, thế giới. Kết quả cho thấy thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam được mở rộng, từ quan hệ ngoại thương với 40 nước năm 1990 đã tăng lên 174 quốc gia và vùng lãnh thổ năm 2003, trong đó hai châu lục có nhiều bạn hàng nhất là Châu á (27,9%) và Châu Phi là (25,6%). Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và ngoại thương nói riêng, nhờ có nỗ lực thực thi một chiến lược phát triển kinh tế mở với nhiều giải pháp chính sách, cơ chế quản lý ngày càng thông thoáng hơn trước, nên chúng ta đã được sự quan tâm ủng hộ hợp tác phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị khác nhau trên thế giới, do đó đã gặt hái được nhiều thành công trong mọi hoạt động kinh tế đối ngoại. Điều khá nổi bật, đang được nhiều nhà ngoại giao, nhà kinh doanh quan tâm. Và cũng chính ở thời kỳ này, quan hệ Việt - Nhật được phát triển mạnh mẽ và toàn diện. mang trong nó nhiều đặc trưng mới, điều mà không phải thời kỳ nào cũng có được nếu không muốn nói là chưa bao giờ có. Vì vậy, người ta đã nói đến một thời kỳ mới trong quan hệ Việt – Nhật. chính sự phát triển này, đã tạo lập những tiền đề vững chắc trong quan hệ hai nước hướng tới thế kỷ 21. Đặc biệt từ năm 1992 đến nay, đã có sự tiến triển khả quan với nhiều sự kiện đáng ghi nhớ trên các lĩnh vực thương mại, đầu tư trực tiếp FDI và viện trợ phát triển chính thức ODA. Sự kiện đầu tiên diễn ra trong tháng11/1992 đó là: khi chính phủ Nhật Bản tuyên bố nối lại viện trợ phát triển chính thức ODA cho Việt Nam thì mọi rào chắn đã được tháo gỡ, quan hệ hữu nghị Việt – Nhật ngày càng trở nên thân thiện. Cũng ngay sau đó, vào tháng 12/1992, chính phủ Nhật Bản tiếp tục tuyên bố huỷ bỏ chế độ quy chế “hạn chế xuất khẩu một số hàng hoá kỹ thuật cao, hàng chiến lược sang các nước XHCN trong đó có Việt Nam đã được áp dụng từ năm 1977”. nhờ đó, Việt Nam đã có thể nhập khẩu những máy móc thiết bị hiện đại của Nhật Bản để phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế, điều mà nhiều năm trước đó không thể làm được. Chính vì thế năm 1992, đã được ghi nhận là năm có ý nghĩa rất quan trọng trong quan hệ giữa hai nước, vì đó chính là một bước ngoặt trong sự tiến triển của quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản. Việc Nhật Bản cung cấp trở lại ODA cho Việt Nam, không chỉ đơn thuần có ý nghĩa khai thông quan hệ cung cấp viện trợ của họ cho ta, mà còn là tín hiện bật đèn xanh khai thông cho cả quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư phát triển. từ đó trở đi, sẽ có thêm nhiều thuận lợi cho sự phát triển quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước. Thực tiễn phát triển những năm qua kể từ năm 1992 trở đi, đã cho thấy rõ tình hình khả quan này. Các quan hệ thương mại, đầu tư trực tiếp FDI và viện trợ phát triển chính thức ODA đều gia tăng liên tục và có điểm mới nhất là tất cả các quan hệ đó đều đã tạo động lực hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Nói tóm lại, hoàn cảnh môi trường quốc tế và khu vực thuận lợi; công cuộc đổi mới của Việt Nam với các chính sách phát triển kinh tế đối ngoại năng động, phù hợp với xu thế phát triển thời đại, lợi ích của hai bên Nhật Bản - Việt Nam đã là những nguyên nhân cơ bản nhất, quan trọng nhất thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước phát triển ngày càng mạnh mẽ, sôi động hơn và cũng ngày càng đi vào thế ổn định hơn, vững chắc hơn. Đương nhiên, đó mới chỉ là những nguyên nhân có tính khách quan bên ngoài đối với Nhật Bản. Điều cần lưu ý là về phía những nhân tố chủ quan Nhật Bản đã tạo ra. Như đã phân tích ở chương 1, sở dĩ trong suốt thập niên 90 vừa qua, đã có nhiều nỗ lực trong các quan hệ hợp tác kinh tế thương mại với Việt Nam còn là do sự chuyển hướng chiến lược trong chính sách đối ngoại và chính sách kinh tế đối ngoại của Nhật Bản đối với các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng. 2.2.2 Thực trạng phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn từ năm 1992 đến nay. Như đã phân tích ở trên, quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản ngày càng phát triển, nhất là từ năm 1992 trở lại đây, do chính sách hợp tác hữu nghị, đã làm cải thiện thông thoáng hơn, sau khi có sự kiện Phía Nhật Bản đã chính thức nối lại viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam vào tháng 11/1992. Đặc biệt là sau một loạt các sự kiện quan trọng trong hai năm 1994 và 1995: Mỹ huỷ bỏ chính sách cấm vận thương mại chống Việt Nam vàn tháng 7/1995; Việt Nam gia nhập ASEAN cũng vào tháng 7/1995 thì các quan hệ kinh tế, đặc biệt là quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản càng được phát triển mạnh mẽ và sôi động hơn. Nếu tính từ năm 1986, là năm khởi đầu công cuộc đổi mới với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước mới ở mức rất khiêm tốn chỉ có 272 triệu USD, thì sau 5 năm đổi mới, năm 1991 con số đó đã lên tới 879 triệu USD tăng gần gấp 3,2 lần đến năm 2001 đã là 4.690 triệu USD tăng gấp 5,3 lần so với năm 1991. Năm 2003 trong 6 tháng đầu năm, xuất khẩu sang Nhật đạt 1.370 triệu USD (tăng 32,9 % so với cùng kỳ năm 2002) với các mặt hàng xuất khẩu chính là đồ thủy sản, dầu thô và các sản phẩm dệt may. Đặc biệt là các sản phẩm từ sữa. Nhập khẩu 6 tháng đầu năm từ Nhật đạt 1.470 triệu USD (tăng 2,98 % so với cùng kỳ năm 2002) các mặt hàng nhập khẩu chính là máy móc, thiết bị và phụ tùng máy móc thiết bị, sắt/thép, máy tính và các linh kiện máy tính Bảng 5: Tỷ trọng kim ngạch XNK Việt – Nhật trong tổng kim ngạch XNK của Nhật Bản thời kỳ 1992 – 2003 (đơn vị: triệu USD) Năm XNK Việt – Nhật Tổng kim ngạch XNK của Nhật Bản Tỷ trọng (%) 1992 1,321 573.395 0,23 1993 1,708 603.349 0,28 1994 1,994 671.251 0,3 1995 2,637 776.617 0,34 1996 3,160 760.627 0,42 1997 3,481 759.958 0,46 1998 3,262 624.700 0,52 1999 3,600 825.769 0,44 2000 4,653 925.926 0,50 2001 5,725 914.119 0,63 2002 4,950 2003* 2,840 (Nguồn : Tổ chức xúc tiến mậu dịch Nhật Bản JETRO) Ghi chú: (*) - Tính trong 6 tháng đầu năm Từ Bảng 4, cho ta thấy tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt – Nhật trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật Bản tăng rõ rệt trong từng năm. Điều đó thể hiện mối quan tâm của Nhật Bản đối với thị trường Việt Nam và triển vọng của mối quan hệ thương mại này. Những bảng số liệu trên cũng cho thấy thương mại của Nhật Bản với Việt Nam chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ bé 0,63 % năm 2001, nhỏ hơn rất nhiều so với tỷ trọng các nước như Trung Quốc là 13,2 %; Singapore là 2,9 %; Malaysia là 2,7%; Thái Lan là 2,6%; Philippin là 1,7%. Trong khi đó, bảng 5 lại cho thấy tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt – Nhật trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại khá cao, chiếm tỷ trọng trung bình 15,7%. Điều này phản ánh sự phụ thuộc khá lớn của Việt nam trong quan hệ thương mại với Nhật Bản. Chỉ cần một thay đổi nhỏ trong nền kinh tế Nhật Bản sẽ dẫn đến những thay đổi lớn cho Việt Nam. Bảng 6: Tỷ trọng kim ngạch XNK Việt Nam – Nhật Bản trong tổng kim ngạch XNK của Việt Nam thời kỳ 1992 – 2003 (Đơn vị: triệu USD) Năm KNXNK Việt – Nhật Tổng KNXNK của Việt Nam Tỷ trọng(%) 1992 1.321 5.112 25,79 1993 1.708 6.909 24,72 1994 1.994 9.880 20.18 1995 2.637 13.604 19,38 1996 3.160 18.400 17,17 1997 3.418 20.777 16,75 1998 3.262 20.746 15,72 1999 3.600 23.159 15,54 2000 4.653 29.508 15,77 2001 5.725 31.200 18,35 2002 4.950 36.400 13,50 2003* 2.840 22.000 12,90 (Nguồn : Tổ chức xúc tiến mậu dịch Nhật Bản JERTRO) Ghi chú (*): Tính trong 6 tháng đầu năm Tuy nhiên, đáng lưu ý là tỷ trọng KNXNK Việt – Nhật trong tổng KNXNK của Việt Nam lại tăng giảm thất thường. Tình trạng đó là do một số nhân tố chủ yếu sau gây nên: * Tình trạng quan liêu giấy tờ, sự mập mờ trong các chính sách vẫn còn đè nặng mà nhà nước ta chưa có những biện pháp triệt để nhằm thúc đẩy sự phát triển thương mại. Đây là, lực cản lớn đối với tiềm năng phát triển quan hệ hợp tác thương mại song phương Việt – Nhật. Không những thế, về phía Nhật Bản, họ cho biết: khá nhiều nhà doanh nghiệp Nhật Bản muốn hợp tác với các nhà doanh nghiệp Việt Nam trong liên doanh đầu tư phát triển sản xuất và thương mại, đặc biệt là tập trung vào khai thác những lợi thế so sánh sẵn có của Việt Nam, để phát triển các mặt hàng có thể xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. song họ còn e ngại môi trường đầu tư và kinh doanh ở Việt Nam còn có những vấn đề gây hạn chế bất cập cho họ. trong đó có sự e ngại về sự hay thay đổi chính sách và thủ tục hành chính còn quá nhiều phiền phức của Việt Nam (mặc dù, sự thay đổi chính sách của Chính phủ ta là; làm đơn giản thủ tục hành chính. nhưng sự thay đổi này, luôn diễn ra hàng năm gây ra tâm lý nghi ngờ). Đây rõ ràng là một trở ngại lớn mà phía Việt Nam cần có giải pháp kịp thời khắc phục ngay; * Cho đến nay, nhiều nhà doanh nghiệp Việt Nam thiếu chủ động trong việc thanh toán nợ thương mại cho các doanh nghiệp Nhật Bản. Trong khi đó, Chính phủ Việt Nam lại chưa có những chính sách, biện pháp để giải quyết cho nhanh chóng, rõ ràng vấn đề này. Đây cũng là những đề bức bách mà các nhà doanh nghiệp Nhật Bản đang mong chờ sự hỗ trợ giải quyết của Chính phủ Việt Nam. * Mặc dù, quan hệ hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam – Nhật Bản đã có một tiến trình phát triển khá lâu dài. Hai bên đã là bạn hàng tin cậy của nhau trong nhiều năm qua. nhưng cho đến nay phía Việt Nam vẫn chưa có các văn phòng xúc tiến thương mại của Chính phủ, khiến cho hoạt động thương mại của Việt Nam với Nhật Bản cũng bị hạn chế đi rất nhiều. Chính phủ Việt Nam vẫn phó thác việc này cho các tham tán thương mại tại sứ quán của mình ở Nhật Bản. * Cơ sở vật chất của ngành ngoại thương Việt Nam còn quá nghèo nàn lạc hậu. chính vì vậy, đã không đủ để đáp ứng được những đòi hỏi của hoạt động buôn bán quốc tế, nhất là các cơ sở hạ tầng như kho chứa hàng, các cảng còn chật hẹp, thiết bị bốc dỡ thô sơ, ít được nâng cấpkhông đảm bảo cho các phương tiện vận tải hiện đại như tàu bè của các bạn hàng nước ngoài khi cập bến, cảng * Sự thiếu hụt đội ngũ chuyên gia thương mại có năng lực, trình độ ngoại ngữ, ngoại giao kinh tế và kinh nghiệm chuyên môn trong không ít các công ty xuất nhập khẩu của Việt Nam đã làm hạn chế nhiều tới kết quả của các cuộc đàm phán, thương lượng để ký kết hoặc triển khai thực thi các hợp đồng thương mại. do đó, làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của các hoạt động kinh doanh giữa đôi bên. Hạn chế này, cũng cần phải khắc phục nhanh, và nó trực tiếp liên quan đến việc đào tạo, giáo dục. đòi hỏi, Chính phủ ta cần phải quan tâm nhiều hơn nưa trong việc đổi mới lại, nâng cao công tác giáo dục, đào tạo và tuyển chọn những người có năng lực, trình độ cũng như kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Để có thể hiểu rõ hơn về sự tăng giảm thất thường của việc xuất nhập khẩu hàng hoá này, cũng như thực trạng quan hệ buôn bán Việt – Nhật, chúng ta hãy đi xem xét hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua. 2.2.2.1 Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản. Kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Nhật Bản từ đầu những năm 1990 đến nay, đã tăng nhanh và tương đối ổn định. Thực tế cho thấy, thị trường Nhật Bản là một thị trường khó tính. nhưng bước đầu đã có dấu hiệu cho thấy sự chấp nhận hàng hoá Việt Nam của thị trường này. Tuy số lượng giá trị tuyệt đối của (kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản) tăng lên liên tục năm 1992: 870 triệu USD, năm 1997 là 2198 triệu USD tăng gấp 2,5 lần. Tuy nhiên, tỷ trọng của xuất khẩu Việt – Nhật trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại tăng giảm thất thường. Kim ngạch có xu hưởng giảm mạnh nhất là sau khi khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực xảy ra. Từ chỗ chiếm 33.71 % năm 1992 đã tăng lên 35,81 % năm 1993, sau đó lại xuống còn 23,93 % năm 1997, đến năm 2000, còn 17,7% năm 2001 tăng lên 23,25 %, nhưng năm 2002 và năm 2003 lại tiếp tục giảm xuống theo tỷ lệ tương ứng là: 15,03 % và 13,97 %. Bảng 7: Tỷ trọng xuất khẩu Việt – Nhật trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, 1992 – 2003 (Đơn vị: triệu USD) Năm Kim ngạch xuất khẩu Việt - Nhật Tổng KNXK của Việt Nam Tỷ trọng (%) 1992 870 2.581 33,71 1993 1.069 2.985 35,81 1994 1.350 4.054 33,30 1995 1.716 5.449 31,49 1996 2.020 7.256 27,84 1997 2.198 9.185 23,93 1998 1.792 9.356 19,16 1999 1.920 11.523 16,66 2000 2.532 14.308 17,70 2001 2.510 15.100 23,25 2002 2.440 16.700 15,03 2003* 1.370 9.800 13,97 (Nguồn số liệu thống kê của Bộ Thương mại Việt Nam). Ghi chú (*): Tính 6 tháng đầu năm Hiện tượng này, được lý giải một phần bởi chất lượng hàng tiêu dùng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ đảm bảo đúng tiêu chuẩn về chất lượng cũng như mẫu mã. Các doanh nghiệp Việt Nam, đôi khi còn thiếu trung thực trong kinh doanh. Ví dụ như: đã ký hợp đồng một số mặt hàng sang Nhật Bản rồi nhưng lại đòi tăng giá mới chịu xuất hoặc tự ý huỷ bỏ hợp đồng hoặc lại xuất sang các nước khác để thu được nhiều lợi hơn. Có thể nói rằng, không ít doanh nghiệp Việt Nam ta không biết giữ chữ tín trong kinh doanh, không biết giữ bạn hàng. do vậy, số lượng hợp đồng xuất khẩu sang Nhật Bản cũng bị giảm sút đáng kể. Phần nữa, do áp lực của cuộc khủng hoảng kinh tế ở Nhật Bản từ đầu những năm 1990, việc mất giá của đồng tiền yen và các đồng tiền khác, đã khiến cho hàng hoá của Việt Nam mất đi lợi thế cạnh tranh, mất đi một phần thị phần trên thị trường Nhật Bản. Giá trị xuất khẩu này, bị giảm sút đã làm thiệt hại đáng kể cho tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Xét về cơ cấu xuất khẩu, những sản phẩm chế tác bị ảnh hưởng mạnh nhất trong đó có hàng dệt may, tôm đông lạnh mặt hàng dầu thô và các mặt hàng nguyên liệu khác hầu như không bị ảnh hưởng lắm về số lượng nhưng do giá giảm nên tổng giá trị cũng bị giảm. Thêm vào đó, sự thay đổi chính sách thuế tiêu dùng, thuế xuất khẩu của chính phủ Nhật Bản trong năm 1997, đã tác động đến chi tiêu của người dân Nhật Bản làm giảm đi sức mua của người dân cũng như, làm hạn chế lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Ngoài ra, do đặc điểm và xu hướng chuyển dịch cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu của Việt Nam từ năm 1991 đến nay cho thấy: một mặt, quan hệ buôn bán và phạm vi không gian thị trường xuất khẩu không ngừng được mở rộng; đồng thời Việt Nam không chỉ phát triển thị trường gần mà đã vươn nhanh đến các thị trường xa như (Tây Bắc, Bắc Mỹ, Châu Đại Dương). Việt Nam đã chuyển dần cơ cấu thị trường, từ việc chỉ xuất khẩu sang các nước Châu á - Thái Bình Dương là chủ yếu, đến xuất khẩu sang cả các khu vực thị trường khác phù hợp với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Nếu năm 1991, thị trường Châu á chiếm tới 80 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì năm 1994, giảm xuống còn 75,8% và năm 1997, chỉ còn chiếm 67,7 %. Riêng thị trường Đông Bắc á năm 1995, chiếm tới 50 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nhưng đến năm 1997, chỉ còn chiếm 44,0 %. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam, phát triển theo hướng mở rộng sang Châu Âu, đặc biệt Tây Bắc Âu. Ngoài ra, các thị trường Liên Bang Nga và thị trường các nước Châu Âu có dấu hiệu phục hồi. Năm 1995, thị trường các nước G7 (7 nước công nghiệp phát triển) chiếm tỷ trọng 39,7 % kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, riêng Nhật Bản chiếm tỷ trọng 31,49 % các nước còn lại chiếm 18,81 %. Năm 2003, Nhật Bản chỉ còn chiếm tỷ trọng 13,97 % trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Như vậy tất cả những nhân trên đã khiến cho tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản giảm xuống. ă Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản. Bảng 8 : Danh mục hàng hoá xuất khẩu của Việt sang Nhật giai đoạn (1995 – 2000) (Đơn vị : triệu USD) Tên hàng 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Dầu thô 684,2 757,7 416,5 294,0 403 503,3 Thuỷ Hải sản 336,9 311,1 360,4 347,1 414 488 Hàng Dệt may 210,5 309,5 325,0 320,9 532 691,5 Cà Phê 35,3 23,3 25,1 37,9 28,5 20,9 Cao Su 6,1 3,7 5,7 2,6 3,2 5,6 Gạo 0,1 0,2 1,1 3,6 3,2 2,5 (Nguồn Tổng cục Hải Quan) Qua bảng trên, ta có thể thấy rằng trong các mặt hàng mà Việt Nam xuất sang Nhật Bản chủ yếu là nguyên liệu, khoáng sản, hải sản; nguyên liêu thô hoặc mới qua sơ chế và những mặt hàng có mức đội gia công chế biến thấp. Cụ thể: * hàng dệt may đang xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản với kim ngạch trung bình hàng năm là gần 400 triệu USD, có dấu hiệu gia tăng mạnh theo các năm. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2003 đạt 1.745 triệu đô tăng 66,6 % so với cùng kỳ năm 2002. Tuy nhiên, thị phần của Việt Nam về mặt hàng này hiện còn rất nhỏ bé so với các nước trong khu vực. Xu hướng nhập khẩu mặt hàng này tại Nhật tăng nhanh trong khoảng những năm từ 1980 đến 1990. nhưng trong vài năm trở lại đây, kim ngạch xuất lại giảm sút do sức mua của thị trường này giảm. Trong tương lai, khi nền kinh tế Nhất Bản phục hồi thì nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng lên; triển vọng xuất khẩu của Việt Nam về mặt hàng này sẽ tăng lên. * Hải sản của Việt nam được thị trường Nhật Bản đánh giá khá cao. Tại Nhật, hơn 80 % nhu cầu về Tôm phải phụ thuộc vào nhập khẩu. Có thể nói đây là nước có một nhu cầu tiêu thụ rất lớn về Hải sản. Việt Nam hiện là một trong những nước xuất khẩu Tôm hàng đầu vào thị trường Nhật Bản. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào Nhật đạt mức 600 triệu USD/năm và mục tiêu tăng trưởng mặt hàng này năm nay dự kiến tăng 720 triệu USD, chiếm 28 % tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của cả nước. * Kim ngạch xuất khẩu giày dép và sản phẩm da vào thị trường Nhật Bản còn khá khiêm tốn so với tiềm năng xuất khẩu của ngành giày da Việt Nam. Theo mạng tin Liên Hợp Quốc ngày 15 tháng 5 cho biết, Việt Nam hiện đang đứng thứ 8 trong các nước sản xuất và đứng thứ tư trong số 10 nước xuất khẩu da, giày lớn nhất thế giới. Đây là một bước nhảy vọt của Việt Nam trong lĩnh vực này. Hiện Chính phủ ta ký hiệp định thương mại với Băng- la-đet, một nước có mặt hàng da có chất lượng cao và rẻ, đây sẽ là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất kinh doanh mặt hàng giầy dép và sản phẩm từ da. * Về than đá, Việt Nam là một trong bốn nước xuất khẩu hàng đầu mặt hàng này vào Nhật Bản và luôn luôn chiếm hơn 40 % thị phần nhập khẩu của nhật. * Hàng Cao Su của Việt Nam hiện nay không thâm nhập được nhiều vào thị trường Nhật Bản, mặc dù mức thuế nhập khẩu của mặt hàng này là không đáng kể. Nguyên nhân là do chủng loại Cao Su của Việt Nam chưa thích hợp với thị trường Nhật Bản, chất lượng không đáp ứng được yêu cầu của họ. Như vậy, những số liệu và phân tích trên cho thấy cơ cấu hàng xuất của ta vẫn còn đơn giản, diện hàng xuất khẩu, nhất là hàng xuất khẩu chủ yếu còn khá hạn hẹp, chưa có thay đổi nhiều so với những năm đầu thập kỷ 90. Mặc dù, nếu xét riêng về việc phấn đấu giảm tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng đã qua công đoạn chế tạo, chế biến thì ta cũng có nhiều tiến bộ. Cụ thể, nếu như những năm đầu thập niên 1990, hàng xuất sang Nhật Bản của ta chủ yếu là nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế chiếm 90 % tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó riêng Dầu thô đã chiếm đến 60 %. thì hiện nay, đã giảm xuống nhiều nhưng vẫn còn tới trên 50 % là nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế. Tuy nhiên, các mặt hàng nêu trên đều có đối thủ cạnh tranh như: Trung Quốc; Hàn Quốc; Đài Loan; Thái Lan; Malaixia; Philippin; ấn Độ Do vậy, nếu ta không kịp thời cải tiến mẫu mã sản phẩm, giảm bớt chi phí thì sẽ khó có thể cạnh tranh được với các nước khác tại thị trường nước bạn cũng như là ở ngày thị trường trong nước. Có thể nói kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản còn khá khiêm tốn. Cho đến cuối năm 2003, tổng kim ngạch xuất là 2.909.151 nghìn USD. Hiện không tương xứng với tiềm năng tiêu thụ rất lớn thực có của nhu cầu người dân Nhật Bản. 2.2.2.2 Hoạt động nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản. nếu như, tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là khá cao (so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam). thì hoạt động nhập khẩu từ Nhật Bản lại diễn ra với nhịp độ khác. Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản còn khá nhỏ so với kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này, cho đến cuối năm 2003. mới ở mức tương đương (kim ngạch xuất đạt 2.901.51 nghìn USD; kim ngạc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0087.doc
Tài liệu liên quan