Lời mở đầu 1
Phần 1. Khái quát quan hệ Việt Nam - ASEAN thòi kỳ chiến tranh lạnh 2
Quan hệ Việt Nam – ASEAN từ 1979 đến 1989 3
PHẦN 2: QUAN HỆ VIỆT NAM – ASEAN TỪ 1991 ĐẾN NAY. 4
Tình hình quốc tế và khu vực 4
Tình hình trong nước. 5
Những lợi ích của Việt Nam trong việc gia nhập ASEAN 6
*Lợi ích về chính trị 6
ã Lợi ích về kinh tế 7
* Lợi ích văn hoá giáo dục 8
Tài liệu tham khảo 9
11 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 5919 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quan hệ Việt Nam – Asean từ 1991 đến nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Quan hệ Việt Nam – ASEAN ngày nay đang phát triển tốt đẹp với mục tiêu vì hoà bình – ổn định – hợp tác và phát triển. Sự phát triển này là xu thế tất yếu của khu vực và thế giới đồng thời cũng là lợi ích của hai bên nhất là về an ninh – chính trị – kinh tế. Nhận thức được điều này, quan hệ hai bên ngày càng được cải thiện.
Tháng 7 năm 1995 là thời điểm Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN là mốc thời gian đánh dấu sự chuyển biến phát triển mạnh mẽ của Việt Nam đặc biệt là về kinh tế.
QUAN Hệ VIệT NAM – ASEAN Từ 1991 ĐếN NAY
Phần 1. Khái quát quan hệ Việt Nam - ASEAN thòi kỳ chiến tranh lạnh
- Hiệp hội Đông Nam á thành lập nhày 8-8-1967 do Indonêxia – Philippin – thailand – Singapore – Malaixia ký kết tại Bangkok với mục đích hoà bình – ổn định khu vực và hợp tác quốc tế. Đến nay ASEAN tồn tại 33 năm và ngày càng có vai trò quan trọng trong khu vực và thế giới
Quan hệ Việt Nam – ASEAN từ 1967 đến 1972
ASEAN ra đời khi đế quốc Mỹ tăng cường chiến tranh xâm lược Việt Nam, cũng như chiến tranh Đông Dương đang ở thời kỳ ác liệt, trong thời kỳ này Đông Nam á bị tách ra thành hai nhóm nước: Nhóm 3 nước Đông Dương và nhóm các nước ASEAN. Hai nhóm nước phát triển theo hai con đường khác nhau, hệ tư tưởng khác nhau, định hướng kinh tế xã hội khác nhau. Ba nước Đông Dương thân Liên Xô; Trung Quốc – ASEAN thân phương Tây. Thâm chí Thái lan, Philipin, nằm trong khố SEATO do Mỹ cầm đầu tham gia vào chiến tranh xâm lược Việt Nam, các nước còn tỏ thái độ không ủng hộ nên quan hệ Việt Nam – ASEAN thời kỳ này đang trong tình trạng đối đầu không có quan hệ ngoại giao với nhau ( trừ Indonêxia ).
Quan hệ Việt Nam – ASEAN từ 1973 đến 1978
Năm 1973 Việt Nam ký hiệp định Paris với Mỹ, buộc Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam. Tình hình Đông Nam á có những tiến bộ tích cực, tư tưởng trung lập Đông Nam á hé mở. Vì vậy các nước ASEAN không bỏ lỡ cơ hội bày tỏ thiện chí xây dựng mối quan hệ trong khu vực, mong muốn trở thành thành viên của hiệp hội. Thời kỳ này Việt Nam đã cố gắng mở rộng mối quan hệ song phương với tất cả các nước trong khu vực. Đặc biệt năm 1976, nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đưa ra chính sách 4 điểm xác định rõ ràng chính sách quan hệ lánh giêng hữu nghị đối với các nước Đông Nam á, chủ yếu là đối với các nước ASEAN. Đây là tuyên bố nói lên hữu nhị – hợp tác Việt Nam với các nước Đông Nam á trong cùng tồn tại hoà bình, điều này phù hợp với tuyên bố ZOPFAN ‘ Biến khu vực Đông Nam á thành khu vực hoà bình – tự do trung lập’ tuyên bố Kualalumpur năm 1971 và hiệp ước Bali năm 1976. Vào thời gian này ta đã quan hệ với các nước ASEAN. Những năm 1976 đến 1978 có thể coi là mối quan hệ tốt đẹp của Việt Nam và ASEAN.
Quan hệ Việt Nam – ASEAN từ 1979 đến 1989
Từ cuối 1978 tình hình thế giới – khu vực có những biến động nhanh chóng. Quan hệ Liên Xô - Mỹ chuyển từ hoà dịu sang căng thẳng làm quan hệ Đông – Tây trơ lại đối đầu, chủ nghĩa dân tộc cực đoan Pônpốt tấn công vào phía biên giới phía Tây Nam Việt Nam và phát triển thành một cuộc chiến tranh lớn buộc quân đội Việt Nam phải đánh trả, đưa quân vào Campuchia tháng 7 năm 1979. Các nước ASEAN lo ngại sự có mặt của Liên Xô ở Đông Nam á vì trước đó Việt Nam – Liên Xô ký kết hiệp định hợp tác tháng 11 năm 1978 đông thời Thái Lan cũng lo ngại Việt Nam đánh trả vì Thái Lan công khai ủng hộ Poonpốt chông Việt Nam. Tử đố quan hệ Việt Nam – ASEAN lại bước vào thời kỳ căng thẳng. Sự đối đầu tạo nên một tên gọi mới cho ASEAN là’ tổ chức một vấn đề’ các nước ASEAN phối hợp với Mỹ – Trung Quốc chống lại Việt Nam ở các tổ chữ quốc tế: chủ yếu là ở Liên Hiệp Quốc trong việc giữ lại ghế cho Khơme và đòi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia.
Song một số nước tiêu biểu như Inđônêxia tuy chống lại Việt Nam nhưng vẫn duy trì đối thoại với Việt Nam.
Trước tình hình quan hệ căng thẳng này và cùng chính sách đổi mới được đưa ra trong Đại Hội Đảng lần 6 năm 1986 Việt Nam đã đưa ra các đề nghị giải quyết vấn đề Campuchia, đưa ra đề nghị về hoà bình – hợp tác Đông Nam á. Tuy nhiên tất cả đề nghị đều không được ASEAN chấp nhận. Họ cho rằng vấn đề Campuchia là nguyên nhân gây mất ổn định khu vực, Việt Nam phải giải quyết vấn đề Campuchia trước rồi mới giải quyết vấn đề hoà bình – hợp tác khu vực. Trên thực tế Việt Nam đã tiến hành rút quân từ năm 1982 và việc các cường quốc Mỹ – Xô - Trung cải thiện quan hệ. Các nước ASEAN cử Inđônêxia lam đại kiên đối thoại với Đông Dương dẫn đến thông báo chung được ký kết tháng 7 năm 1987 đánh dấu sự mở đầu quá trình thương lượng giữa hai nhóm nước nhằm giải quyết vấn đề Campuchia đưa tới các hội nghị Jim1 – Jim2 năm 1988-1989.
Tháng 9 năm 1989 Việt Nam rút toàn bộ quân khỏi Campuchia, sự kiên này đánh dấu khép lại 10 năm căng thẳng đối đầu giữa Việt Nam và ASEAN, mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ hoà bình – ổn định – họp tác và phát triển.
Phần 2: Quan hệ Việt Nam – ASEAN từ 1991 đến nay.
Tình hình quốc tế và khu vực
Tình hình quốc tế và khu vực có những biến động nhanh chóng.
- Do tác động của cách mạng khoa học công nghệ các nước lớn đều điều chỉnh chiến lược của mình, từ chạy đua vũ trang chuyển sang chạy đua về kinh tế, đối thoại củng tồn tại hoà bình trong xu thế đa cực hoá, cục diện này làm cho các nước thoát khỏi chiến tranh lạnh, đặc biệt khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ làm trật tự thế giới cũ tan rã và thế giới đang dần dần hình thành một trật tự có lợi cho Mỹ và các nước tư bản chủ nghĩa
- Quan hệ quốc tế trở nên năng động, linh hoạt song cũng ngày càng phức tạp hơn. Trước những tác động về tập hợp lực lượng trên thế giới các nước điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình theo hướng dành ưu tiên cho phát triển kinh tế.
- Do xu thế quốc tế hoá và khu vực hoá ngày càng được đẩy mạnh vì nhân tố kinh té ngày càng có vị trí quan trọng trong quan hệ kinh tế, thương mại, an ninh được các quốc gia dù lớn hay nhỏ đều tích cực tham gia để mở rộng đối thoại.
- Quan hệ vì hoà bình, ổn định và lợi ích của mình song cạnh tranh rất gay gắt. Bên cạnh đó những vất đề cấp bách toàn cầu nảy sinh đòi hỏi các quốc gia phải hợp tác lại với nhau để giải quyết.
Đối với Châu á - Thái Bình Dương, sau chiến tranh lạnh là khu vực năng động nhất trên thế giới về kinh tế đặc biệt là Đông Nam á - Đông Bắc á.
Đây là những đặc điểm cơ bản của thế gióe sau chiến tranh lạnh đang tác động chi phối tới tất cả các nước trên thế giới làm cho các nước trong khu vực liên kết lại với nhau. Các nước trong khu vực Đông Nam – Châu á nhận thức rõ răng xu thế này đã củng cố hợp tác với nhau cùng tồn tại hoà bình hữn nghị để phát triển.
Tình hình trong nước.
Sau nhiều năm chiến tranh, khủng hoảng kinh tế – chính trị toàn diện. Việt Nam đang tưng bừng khôi phục lại nền kinh tế sau khi Đảng và Nhà nước đưa ra chính sách đổi mới toàn diện trong Đại Hội cộng sản IV (1986). Trước xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế. Đồng thời ra sức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ được quốc tế thuận lọi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc.
Đến tháng sáu năm 1991 Đại hội VII ‘ Đại Hội trí tuệ – dân chủ – kỷ cương- đoàn kết’ nêu ra’ nhiêm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới là giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình - độc lập dân tộc – dân chủ và tiến bộ xã hội ( Trích văn kiện Đai Hội 7 tháng 6 năm 1991).
Tiếp đó tháng 6 năm 1992, Hội nghị Ban chấp hành TW3, Đảng, Nhà nước đã nêu ra đương lối Đối Ngoại độc lập tực chu, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế mà Việt Nam đang thực hiện mà cụ thể hoá là:
Ưu tiên phát triển quan hệ với các nước trong khu vực.
Thúc đẩy bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc – Mỹ.
Việc đổi mới lần này đã đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế như tạo điều kiện cho Việt Nam thúc đẩy quan hệ với ASEAN ngày càng mạnh mẽ và trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Đồng thời nâng cao vị thế của Việt Nam trên truơng quốc tế, tranh thủ được sự giúp đỡ của các nước – các tổ chức quốc tế.
Chính sách đổi mới này thể hiện tình hình đúng đắn, tư duy sáng tạo, nắm bắt kịp thòi tình hình thế giới – khu mực của Đảng và Nhà nước.
Những lợi ích của Việt Nam trong việc gia nhập ASEAN
*Lợi ích về chính trị
Ngay từ đầu thập kỷ 90 Việt Nam và ASEAN đã cùng nhau họp bàn để giải quyết vấn đề Campuchia đi đến cuối cùng là hiệp định Paris được ký kết ngay 23-10-1991 liên quan đến chủ quyền, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ thống nhất độc lập của Campuchia. Sau sự kiện này Việt Nam tăng cường hợp tác với ASEAN. Tại hội nghị Jim1 Việt Nam bày tỏ sẵn sàng tham gia vào hiệp hội Bali. Đến tháng 7-1992 Việt Nam đã chính thức tham gia vào hiệp ước Bali và trở thành quan sát viên của ASEAN. Tại hội nghị bộ truởng 28, quan hệ ngoại giao ngày càng phát triển không bị cản trở bởi bất cứ lý do gì kể cả về kinh tế. Cả Việt Nam – ASEAN cùng có quyết tâm cao trong việc xây đựng và phát triển quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực về lơị ích chung của cả khu vực đồng thời với những thành tựu Việt Nam đạt được trong công cuộc đổi mới lam cho ASEAN tin tưởng hơn trong việc mở rộng quan hệ hợp tác với Việt Nam. Vì vậy tháng7-1994 Bộ trưởng ngoại giao Brunei gửi thư thông báo kết nạp Việt Nam vào ASEAN nhân dịp hội nghị bgoại trưởn lần thứ 28 ở Brunei. Như vậy, Việt Nam là thành viên chính thức thứ 7 của ASEAN nó mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ hội nhập khu vực hoá của Đông Nam á cũng như hội nhập thế giới.
Cũng ngay từ đầu những năm 90 Việt Nam được mời tham gia vào diễn đàn khu vực ASEAN về an ninh (ARF) và là một trong những thành viên sáng lập ra ARF ( 7-1993 ). Từ đó đến nay Việt Nam tham gia đày đủ vào quá trình hoạt động của ARF để cùng với các trong khu vực củng cố một ASEAN hoà bình ổn định để phát triển.
Vào thời gian này ( 7-2000 ) Việt Nam cùng các nước ASEAN tham dự hội nghị AMM 33, ARF và đón nhận vị trí uỷ ban thường trực ASEAN từ nay đến tháng 7 – 2001. Đây là trọng trách cao nhất và lần đầu tiên nước ta đảm nhận, được hội nghị ghi nhân và đánh giá cao, đó cũng là cơ hội cho Việt Nam hiểu chi tiết hơn về ASEAN đồng thời đây cũng là bàn đạp vững chắc giúp Việt Nam được vào các tổ chức khác ỏ khu vực Châu á và thế giới mở ra thời kỳ hội nhập mới đỗi với Việt Nam sau khi giành độc lập sau hai cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Lợi ích về kinh tế
Sau khi gia nhập ASEAN quan hệ quốc tế giữa Việt Nam và ASEAN ngày càng phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả. Ngay khi Việt Nam ký tuyên bố chung với Indonexia các nước ASEAN bỏ qua lệnh cấm vận của Mỹ đầu tư nhiều vốn vào Việt Nam, nhiều dự án nhiều lĩnh vực như KH-KT-TM-KT được ký kết
- Nước đứng đầu ASEAN trong lĩnh vực đầu tư là Singapore
đứng thứ 3 trong tổng số 55 nước đầu tư vào Việt Nam với số dự án từ (bỏ cách)là 181 và tổng số vốn là $1338 triệu và indonexia với 13 dự án với tổng số vốn là $282,8 triệu.
Việc Việt Nam tham gia chính thức vào ASEAN làm phát triển quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và ASEAN đồng thời Việt Nam đã cam kết tham gia vào các khu vực buôn bán tự do ( AFTA ) với mục đích lam tăng tính cạnh tranh của ASEAN và dần hướng ra thị trường thế giới. Bên cạnh đó năm 1996 Việt Nam cũng thực hiện hiệp định về thuế quan ưu đãi hiệu quả chung ( CEPT ) đưa nhiều mặt hang vào chương trình cắt giảm thuế quan theo CEPT với thời hạn từ năm 1996-2000.
- Việt Nam tham gia vào AFTA là tất yếu phù hợp với xu thế chung của quốc tế vì nó có tác động tích cực đối với nền kinh tế. Tạo điều kiện cho việc cho việc mở rộng mối quan hệvới các tổ chức liên minh như: EU, WTO, APEC. Hơn nữa việc tham gia này còn là cơ hội cho Việt Nam đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoa, hiện đại hoá đất nước để đến năm 2020 Việt Nam trở thành một nuớc công nghiệp.
* Lợi ích văn hoá giáo dục
- Nhận thức được tầm quan trọng của văn hoá giáo dục cũng như giữa các nước ASEAN có những nét tương đồng văn hoá tử lâu đời vì vậy trong các năm qua Việt Nam và các nước ASEAN dã tích cực hợp tác song phương, đa phuơng về văn hoá được ký kết như hiệp định hợp tác Văn hoá Việt Nam – Philippin ký 3-1994, bản ghi nhớ giữa Việt nam và Indonexia về hợp tác trong lĩnh vực thông tin
Để tăng cường hơn nữa sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước, Việt Nam đã cùng các nước thiết lập các cơ quan trao đổi lập các hội nghiên cứu văn hoá Đong Nam á ở các nước, tổ chức triển lãm văn hoá nghệ thuật và nâng cao trình độ nhận thức của nhân dân. Việt nam đã hợp tác với các nước trong việc thiết lập hệ thống giáo trình chung nhất là về Đong Nam á học từ cấp 1,2,3,đại học và học tiếng. Trong lĩnh vực này Singapore là nước đứng đầu ASEAN giúp đỡ Việt nam đào tạo các sinh viên, cấp học bổng
*Tóm lại: với nhũng triển vọng trên, quan hệ Việt nam – ASEAN đang bước sang giai đoạn mới – giai đoạn hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Mặc dù có sự khác biệt về kinh tế, chính trị, trình độ KHKT.song các nước ASEAN đã liên kết với nhau tạo thành ASEAN-10 vững mạnh với nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Việc hợp tác kinh tế giữa các nước và khu vực với nhau và bên ngoài tiếp tục đẩy mạnh cơ sở song phuơng và đa phương để sớm đưa ASEAN thành khu vực mậu dịch tự do vào năm 2003 ( Việt nam là2006 ). Mặt khác phạm vi quốc tế ASEAN đã phát huy vai trò là một tổ chức có tiềm năng kinh tế – văn hóa. Ngày càng được nâng cao trong đó có Việt nam . Sự thay đổi của môi trường quốc tế và khu vực đặc biệt là sự cạnh tranh của các trung tâm kinh tế lớn. Mỹ-Nhật-EU đã có tác động mạnh mẽ làm chuyển dịch cơ cầu kinh té của Việt nam và ASEAN từ đó cần phải quan hệ mậu dịch, kinh tế giữa các nước ASEAN. Quan hệ Việt nam – ASEAN được đẩy mạnh từ quan hệ song phương sang đa phương bên cạnh các điều kiện thuận lợi như cơ sở đầu tư thông thoáng, thị trường tiêu thụ và đặc biệt Việt nam có môi trường chính trị ổn định với cơ sở đối ngoại độc lập, đa phương hoá , đa dạng quan hệ, hơn nữa hợp tác kinh tế giữa hai bên cùng đạt kết quả đáng khích lệ một số nước như Singapore, Malaixia đã sử dụng quy chế ưu đãi, tạo điều kiện cho Việt nam trong buôn bán. Đồng thời Việt nam có thể học hỏi các kinh nghiệm về quản lý, đào tạo của các thành viên ASEAN. Việt nam tham gia vào ASEAN là cơ hội để Việt nam nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực-thế giới và các tổ chức quốc tế, đây là triển vọng tốt cho Việt nam để qua đó Việt nam có được những hướng đi đúng đắn trong quan hệ với các nước ASEAN.
Để kết luận bài viết này xin trích ra lời phát biểu của thứ trưởng bộ ngoại giao Việt nam về quan hệ Việt nam – ASEAN’ Việc nước ta ra nhập ASEAN có lợi thế chung là hoà bình, hợp tác. Việc đó hỗ trợ cho việc thực hiện chính sách độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, mở rộng hơn nữa quan hệ hữu nghị về mọi mặt với tất cả các nước.
Tài liệu tham khảo
Quá trình Việt nam khi gia nhập ASEAN – Phạm Đức Thành
Việt nam - ASEAN hợp tác văn hoá - giáo dục – Phạm Đức Thành
Giai đoạn mới trong giai đoạn kinh tế Việt nam – ASEAN – Hoa Hữu Lân
Báo Quốc tế
Tạp chí Cộng sản
Tạp chí Châu á - và một số tài liệu khác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0187.doc