Đề tài Quản lý chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp ngành may Việt Nam

Trong một vài năm gần đây ngành may đã không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài nước, dần chiếm lại thị trường nội địa, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, có được những thành tựu trên là do đa số những doanh nghiệp may mặc Việt Nam những năm gần đây đã thường xuyên đầu tư đổi mới công nghệ. Nhưng theo thống kê và đánh giá của các chuyên gia, thiết bị công nghệ ngành may, tuy đã đổi mới 90-95% thiết bị nhưng trình độ tự động hoá quá trình sản xuất cũng chỉ ở mức trung bình, công nghệ lạc hậu hơn các nước tiên tiến trong khu vực khoảng 5 năm. Năng lực thiết kế thời trang, nhất là thời trang cuộc sống của người tiêu dùng trong nước tuy đã có những bước tiến đáng kể song vẫn còn yếu. Ngoài ra, chất lượng dịch vụ trong ngành may mặc như hệ thống thông tin, giao dịch, khả năng giao hàng đúng tiến độ cũng như khả năng tổ chức thực hiện các đơn đặt hàng nhỏ của các doanh nghiệp nước ta cũng có một khoảng cách so với các nước trong khu vực.

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6095 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp ngành may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hất lượng nguên vật liệu, thời gian cung ứng nguyên vật liệu, bảo quản nguyên vật liệu … Quản lý( Management): trong doanh nghiệp nếu có 3 điều kiện trên đã tốt mà khâu quản lý kém, sự kết hợp giữa các khâu không tốt thì chất lượng sản phẩm cũng không cao. Vì vậy khâu quản lý cũng có vai trò quyết định đến chất lượng sản phẩm . 1.5. Vai trò của chất lượng sản phẩm . Chất lượng sản phẩm có vai trò quyết định sự sống còn của doanh nghiệp, nó thể hiện ở - Chất lượng sản phẩm thể hiện sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Sản phẩm có sức cạnh tranh lớn sẽ được tiêu thụ nhiều làm tăng thu nhập cho doanh nghiệp - Chất lượng sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản vô hình (uy tín) của doanh nghiệp trên thị trường… 2.Quản lý chất lượng sản phẩm 2.1. Các quan điểm về quản lý chất lượng (hay sự đóng góp của các chuyên gia hàng đầu về chất lượng ) Trong mỗi giai đoạn mỗi thời kì phát triển của sản xuất công nghiệp người ta lại có những quan điểm khác nhau về quản lý chất lượng và ở mỗi thời kì lại nổi lên những tên tuổi lớn đại diện cho những phương pháp quản lý chất lượng hay (theo những quan điểm về quản lý chất lượng nhất định ) *Shewharts : ông là người đề xuất việc sử dụng các công cụ thống kê trong kiểm soát chất lượng . Theo ông tất cả mọi quá trình hoạt động đều có sự biến động, chính sự biến động làm sản phẩm sản xuất ra có chất lượng không đồng đều nhau .Nhưng điều quan trọng là có thể nhận biết được vấn đề biến động đó và kiểm soát được nó bằng những công cụ thống kê đơn giản nhờ đó đảm bảo chất lượng sản phẩm sản xuất ra là luôn nằm trong giới hạn tiêu chuấn sản phẩm cho phép *E. Deming : ông cho rằng - Quản lý chất lượng là một hoạt động cải tiến liên tục được thực hiện theo vòng tròn chất lượng :hoạch định chất lượng ,thực hiện chất lượng kiểm tra chất lượng điều chỉnh cải tiến chất lượng Quản lý chất lượng là trách nhiệm trước tiên là của cán bộ quản lý cấp cao của doanh nghiệp Giảm sự lệ thuộc vào các biện pháp kiểm tra chất lượng sản phẩm cuối cùng Xây dựng các trương trình đào tạo giáo dục khuyến khích người lao động tham gia vào quá trình quản lý chất lượng . *P. Crosby: quan điểm của ông về quản lý chất lượng -Phòng ngừa là biện pháp cơ bản để thực hiện quản lý chất lượng trong doanh nghiệp. Tiêu chuẩn để đánh giá tìng hình quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp là không sai lỗi -Tất cả mọi vấn đề chất lượng đều có thể đánh giá đo đếm được thông qua chi phí nhờ đó căn cứ để đưa các quyết định cải tiến chất lượng *Feigenbaun: ông là người đầu tiên đề xuất phương pháp quản lý chất lượng toàn diện. Tức là quản lý chất lượng phải được thực hiện ở tất cả mọi khâu, mọi hoạt động trong doanh nghiệp và quản lý chất lượng là trách nhiệm của mọi thành viên trong doanh nghiệp, quản lý chất lượng cần có sự phối hợp chặt chẽ với khách hàngvà người cung ứng. *K. Ishikawa: ông là người đề xuất việc sử dụng sơ đồ nhân quả (sơ đồ xương cá) trong quản lý chất lượng và ông cũng là người đề xuất cũng như trực tiếp tổ chức nhóm chất lượng trong các doanh nghiệp . * Theo tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế(ISO)” Quản lý chất lượng là hệ thống các hoạt động. Các biện pháp, phương pháp và qui định hành chính, kinh tế kĩ thuật tổ chức … dựa trên những thành tựu khoa học kĩ thuật, nhằn sử dụng tối ưu các tiếm năng trong kinh doanh để bảo đảm duy trì và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm (thiết kế , sản xuất ,tiêu thụ và tiêu dùng ), thoả mãn nhu cầu của xã hội.” (định nghĩa về quản lý chất lượng trong ISO 9000). 2.2 Các giai đoạn phát triển của quản lý chất lượng Cho đến nay quản lý chất lượng đã chải qua ba giai đoạn phát triển khácnhau *Giai đoạn 1 (từ đầu thập kỉ 20 dến 1939) :đây là quá trình hình thành và phát triển của quản lý chất lượng. ở giai đoạn này chưa có khái niện về quản lý chất lượng mà chỉ có khái niệm kiểm tra chất lượng .Đây là giai đoạn mà người ta đòng nghĩa quản lý chất lượng và kiểm tra chất lượng, quản lý chất lượng được hiểu theo nghĩa hẹp vì vậy chức năng chủ yếu là kiểm tra chất lượng . Mục đích của quản lý chất lượng ở giai đoạn này là phát hiện sản phẩm không đạt tiêu chuẩn ,tách ra khỏi những sản phẩm tốt để đảm bảo sản phẩm cuối cùng khi xuất xưởng luôn đạt tiêu chuẩn. Xuất phát từ mục đích quản lý chất lượng ở giai đoạn này mà nhiệm vụ quản lý chất lượng được giao cho các cán bộ kĩ thuật, bộ phận kiểm tra chất lượng được tăng cường củng cố, với những doanh nghiệp lớn thường thành lập phòng kiểm tra chất lượng riêng Vì phương pháp thực hiện quản lý chất lượng ở giai doạn này là kiểm tra chất lượng nên ở giai đoạn này quản lý chất lượng kém hiệu quả, chỉ thực hiện trong khâu sản xuất Cho đến cuối giai đoạn này một số doanh nghiệp đã bước đầu sử dụng công cụ thống kê đơn giản trong quản lý chất lượng . *Giai đoan 2 (từ 1947 đến cuối những năm 60) ở giai đoạn này quản lý chất lượng có những đặc đIểm sau: Đã có sự thay đổi về nhận thức trong quản lý chất lượng, khái niệm quản lý chất lượng ra đời thay cho khái niệm kiểm tra chất lượng . Quản lý chất lượng được hiểu theo nghĩa rộng hơn, nó bao gồm bốn chức năng chủ yếu: hoạch định chất lượng, thực hiện chất lượng kiểm tra chất lượng, điều chỉnh cải tiến chất lượng (thể hiện bằng vòng tròn chất lượng - Quản lý chất lượng trở thành trách nhiệm cơ bản của cán bộ quản lý đồng thời có phân định rõ ràng về nhiệm vụ quản lý chất lượng giữa cán bộ kĩ thuật cán bộ quản lý và người lao động. - Các hoạt dộng quản lý tập chung vào các biện pháp phòng ngừa, làm giảm vai trò của kiểm tra chất lượng - Tiếp tục mở rộng các công cụ thống kê trong quản lý chất lượng *Giai đoạn 3 (từ 1970 đến nay) : ở giai doạn này quản lý chất lượng có những đặc điểm nổi bật sau Chuyển từ quản lý chất lượng thông thường sang quản lý chất lượng toàn diện (TQM): đây là phương pháp quản lý chất lượng mà quá trình quản lý chất lượng được thực hiện ở tất cả mọi khâu mọi hoạt động trong doanh nghiệp . - Quản lý chất lượng là trách nhiệm của tất cả mọi thành viên trong doanh nghiệp - quản lý chất lượng cần có sự phối hợp chặt chẽ với khách hàng và người cung ứng. 2.3 Hệ thống quản lý chất lượng và nội dung quản lý chất lượng theo hệ thống quản lý chất lượng 2.3.1 Thực chất và vai trò của hệ thống quản lý chất lượng *Khái niệm hệ thống quản lý chất lượng: hệ thống quản lý chất lượng là một tập hợp các cơ cấu tổ chức, quản lý, trách nhiệm, thủ tục, phương pháp, và nguồn lực cần thiết để thực hiện quản lý chất lượng của doanh nghiệp * Cấu trúc của hệ thống quản lý chất lượng - Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp bao gồm +Vai trò trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo cấp cao trong doanh nghiệp về vấn đề chất lượng + Quyền hạn và trách nhiệm của các đơn vị bộ phận trong doanh nghiệp + Mối quan hệ giữa các đơn vị bộ phận trong việc thực hiện các nhiệm vụ được đặt ra . + Các qui trình thủ tục cho việc đảm bảo cải tiến chất lượng trong doanh nghiệp - Chính sách chất lượng của doanh nghiệp: do ban lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp ban hành ,nó phải được công bố rộng rãi trước toàn bộ nhân viên. Giám đốc cam kết thực hiện bằng văn bản . Nội dung của văn bản là viết những gì sẽ làm và cam kết phải làm những gì đã viết. Mục tiêu chất lượng : đó là một cáI đích mà doanh nghiệp phải đạt được trong một thời gian nhất định (bao gồm mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể) Kế hoạch chất lượng là một tài liệu đề cập đến từng hoạt động sản xuất, cung cấp ra sản phẩm, dịch vụ. Trong đó chỉ ra những hoạt động cụ thể cần thiết để đảm bảo về chất lượng sản phẩm, dịch vụ đó. Hệ thống tài liệu chất lượng là một hệ thống tài liệu gồm có: sổ tay chất lượng, quá trình thủ tục, các hướng dãn công việc. Cụ thể + Sổ tay chất lượng là bản mô tả về chính sách chất lượng, những điều lệ về chất lượng thuộc doanh nghiệp . + Qui trình thủ tục là sự mô tả về toàn bộ qui trình hoạt động của một công việc nào đó cần thực hiện + Các hướng dẫn công việc là bản hướng dẫn được dùng để thực hiện những công việc phức tạp: bản vẽ kĩ thuật, hướng dẫn kĩ thuật… *Những hệ thống quản lý chất lượng đang được áp dụng QS 9000 là hệ thống quản lý chất lượng áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất ô tô - Hệ thống quản lý chất lượng tổng hợp (TQM) - Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 - Hệ thống quản lý chất lượng HCCAD áp dụng cho doanh nghiệp chế biến thực phẩm Hệ thống quản lý chất lượng GMP áp dụng cho các doanh nghiệp dược phẩm. - Hệ thống quản lý chất lượng Q Bass áp dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ - Hệ thống quản lý chất lượng ISO 14000 là hệ thống quản lý chất lượng môi trường * Yêu cầu trong tổ chức hệ thống quản lý chất lượng - Hệ thống quản lý chất lượng phải dựa trên phòng ngừa là chính - Hệ thống quản lý chất lượng phải có cấu trúc rõ ràng, xây dựng rõ chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận trong doanh nghiệp nhưng phải đảm bảo sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ giữa các đơn vị - Hệ thống quản lý chất lượng phải phù hợp với lĩnh vực kinh doanh và qui mô hoạt động của doanh nghiệp . - Hệ thống quản lý chất lượng phải đảm bảo tính đồng bộ và toàn diện - Hệ thống quản lý chất lượng phải có sự tham gia trực tiếp của mọi thành viên, mọi đơn vị bộ phận vào quá trình xây dựng và triển khai. * Vai trò của hệ thống quản lý chất lượng - Hệ thống quản lý chất lượng là một phân hệ cơ bản trong hệ thống sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nó có mối quan hệ chặt chẽ với các hệ thống khác và đảm bảo liên kết với các hệ thống khác trong quá trình sản xuất - Hệ thống quản lý chất lượng là một phương tiện quan trọng cần thiết để thực hiện chức năng quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp - Hệ thống quản lý chất lượng sẽ giúp các doanh nghiệp đảm bảo được hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đã đặt ra và thoả mãn được khách hàng - Xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng giúp cho các doanh nghiệp giảm sự biến động của các quá trình, các hoạt động nhờ đó tiết kiệm được chi phí sai hỏng - Hệ thống quản lý chất lượng nó còn có ý nghĩa rất lớn trong các doanh nghiệp trong việc đảm bảo sự thống nhất giữa chính sách chất lượng chung của doanh nghiệp với các bộ phận phân tán 2.3.2. Nội dung của quản lý chất lượng theo hệ thống quản lý chất lượng. * Nâng cao mức thoả mãn của khách hàng trên cơ sở tiết kiệm chi phí (Vấn đề đẩm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng) Đó là toàn bộ những hoạt động nhằm đưa chất lượng sản phẩm lên mức cao hơn trước, giảm dần khoảng cách giữa những mong muốn của khách hàng và thực tế chất lượng đạt được thoả mãn nhu cầu của khách hàng ở mức cao hơn Theo tiêu chuẩn Việt Nam 5200-90, đảm bảo chất lượng chia ra làm hai phần: - Đảm bảo chất lượng nội bộ Xem xét đánh giá các vấn đề về chất lượng trong mối quan hệ với các yếu tố khác của hoạt động quản lý chất lượng. Là các hoạt động đảm bảo lòng tin cho lãnh đạo của doanh nghiệp rằng các sản phẩm, dịch vụ đã đạt chất lượng mong muốn, đúng tiêu chuẩn thiết kế. Để đảm bảo chất lượng nội bộ doanh nghiệp phải có một tổ chức hợp lý, phải có ban lãnh đạo đủ tài năng, có mục tiêu chất lượng, chính sách chất lượng rõ ràng, có các kế hoạch chi tiết để thực hiện mục tiêu chất lượng và chính sách chất lượng đó, phải quản lý tốt chất lượng ở các khâu marketing, thiết kế, sản xuất thử nghiệm, bao gói, bảo quản, vận chuyển bán và mua, quản lý tốt chất lượng các nguồn lực, quản lý tốt chi phí, áp dụng linh hoạt các biện pháp quản lý chất lượng, đặc biệt áp dụngcác biện pháp phòng ngừa. - Đảm bảo chất lượng với bên ngoài Là các hoạt động đảm bảo cho người mua và người đặt hàng tin rằng hệ thống chất lượngcủa người cung cấp chắc chắn đảm bảo cho sản phẩmvà dịch vụ phù hợp với các yêu cầu chất lượng. Để đảm bảo chất lượng với bên ngoài doanh nghiệpphải thỉa thuận với người mua các yếu tố sau: hệ thống bảo đảm chất lượngcủa người cung cấp để người mua tin rằng hàng hoá, dịch vụ thoả mãn các yêu cầu của họ về phương tiện kỹ thuật và thủ tục tiến hành phòng ngừa thử nghiệm, kiểm tra và xuất trinh các tài liệu kiểm tra, tiến hành kiểm tra hàng hoá khi giao nhận, chính sách chất lượng của doanh nghiệp. Các điều khoản đảm bảo chất lượng cá thể thay đổi tuỳ thuộc vào từng loại sản phẩm cụ thể. Hai phân hệ này không hề cô lập với nhau mà ngược lại chúng hỗ trợ cho nhau, ràng buộc nhau và thống nhất với nhau trong hệ thống chất lượng. Chúng đều nhằm nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. * Cải tiến và hoàn thiện chất lượng Cải tiến và hoàn thiện chất lượng cũng có ý nghĩa tương tự như đảm bảo chất lượng. Hoàn thiện chất lượng được tiến hành theo các bước sau: -Phát triển sản phẩm mới, đa dạng hoá sản phẩm. -Thực hiện công nghệ mới áp dụng vào sản xuất. -Thay đổi quá trình sản xuất nhằm giảm khuyết tật của sản phẩm. Yêu cầu đặt ra đối với hoàn thiện chất lượng là tiến hành cải tiến đặc điểm của sản phẩm, đồng thời làm giảm tỷ lệ khuyết tật. Các bước tiến hành: - Thiết lập cơ sở hạ tầng cần thiết để đảm bảohoàn thiện chất lượng. - Xác định những nhu cầu đặc trưng về hoàn thiện chất lượng, đè ra dự án thực hiện những nhu cầu đó. - Thành lập tổ công tác có đủ khả năng thực hiện thành công dự án. - Cung cấp các nguồn lực cần thiết(tài chính, kỹ thuật,lao động). - Động viên đào tạo khuyến khích quá trìnhthực hiện dự án hoàn thiện chất lượng sản phẩm. - Coi chất lượng sản phẩm là nhận thức của khách hàng, múc độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng chính là mức độ chất lượng sản phẩm đạt được. Khách hàng là người đánh giá xác định chất lượng sản phẩm. Lấy con người làm trung tâm, là nhân tố cơ bản có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra và nâng cao chất lượng sản phẩm, mọi người từ giám đốc đều có vai trò về chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác, lòng nhiệt tình và khả năng trang bị kiến thức, phương tiện quản lý chất lượng. Lấy phòng ngừa là chính, với phương châm làm đúng ngay từ đầu, sản phẩm không có phế phẩm. Không ngừng nâng cao chất lượng của hệ thống và các quá trình từ thiết kế sản phẩmđến sản phẩm và tiêu dùng sản phẩm. * Quản lý chất lượng được thực hiện trong tất cảmọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Khác với quản lý chất lượng chỉ kiểm tra ở khâu cuối của quá trình sản xuất. Quản lý chất lượng thuộc hệ thống quản lý chất lượng nhằm giảm thiểu sản phẩm hỏng dẫn đén giảm chi phí bằng cáchkiểm tra chất lượngở tất cả các khâu của quá trình sản xuất nhằm không để sai hỏng xảy ra chứ không bị động biết hỏng rối mới sửa. Việc thực hiện được bắt đầu từ khâu thiết kế sản phẩm, mua nguyên vật liệu, quá trình bảo quản cũng như cung cấp nguyên vật liệu, quá trình gia công sản xuất tạo ra sản phẩm. * Quản lý chất lượng là quá trình thực hiện chức năng của quản lý theo vòng tròn chất lượng:hoạch định chất lượng –thực hiện chất lượng –kiểm tra chất lượng -điều chỉnh cải tiến chất lượng.hoạt động quản lý chất lượng là hoạt động quản lý chứ không đơn thuần thuầ 2.3.3. Sự khác nhau giữa quản lý chất lượng trước kia và ngày nay Sự khác nhau này được thể hiện thông qua các phương diện sau: Về tính chất : quản lý chất lượng trước kia mang tính chất kĩ thuật đơn thuần vì vậy vấn đè quản lý chất lượng thuộc phạm vi trách nhiệm của cán bộ kĩ thuật. Còn ngày nay vấn đè quản lý chất lượng không đơn thuần là vấn đề kĩ thuật mà nó thuộc lĩnh vực quản lý. Khi nó được coi là vấn đề quản lý thì những mục tiêu về chất lượng bao giờ cũng được thực hiện một cách tốt nhất. Xét trên phương diện quan niệm về sản phẩm. Trước kia cho rằng tất cả những gì mà doanh nghiệp bán ra ngoài thị trường mới là sản phẩm. Còn ngày nay người ta cho rằng tất cả những gì là kết quả của doanh nghiẹp tạo ra có thể tiêu dùng nội bộ hoạc bán ra ngoàiđều là sản phẩm của doanh nghiệp. Quan niêm về sản phẩm như ngày nay bắt buộc mọi người phải có trách nhiệm với sản phảm mà mình tạo ra. -Xét trên quan niệm về khách hàng. Trước kia cho rằng khách hàng phải là những người không thuộc doanh nghiệp mà mua sản phẩm của doanh nghiệp. Còn bây giờ người ta cho rằngkhách hàng là toàn bộ những đối tượng đòi hỏi về chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp (kể cả đối tượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, kể cả những đối tượng không mua sản phẩm của doanh nghiệp) -Xét trên phương diện phạm vi, đối tượng, trách nhiệm, mục đích của quản lý chất lượng ta thấy rằng trước kia quản lý chất lượng chỉ được thực hiện trong khâu sản xuất và đối tượng là kết quả cuối cùng, trách nhiệm quản lý thuọc về phòng kiểm tra kĩ thuật(KCS) và lấy mục tiêu tài chính làm cơ bản. Còn bây giờ quản lý chất lượng được thực hiện ở tất cả các khâu, các hoạt động, các quá trình của doanh nghiệp,đối tượng là tất cả các khâu các giai đoạn trong quá trìng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, quản lý chất lượng là nhiệm vụ của tất cả mọi đối tượng, mọi đơn vị bộ phận trong doanh nghiệp, nhằm mục đích là thoả mãn nhu cầu của khách hàng, lấy khách hàng làm gốc, làm cơ sở Trước kia đánh giá chất lượng một cách trực diện, tập chung vào con người, xem xét biệt lập với các yếu tố khác.Còn ngày nay người ta xem xét chất lượng nằm trong mối quan hệ với các yếu tốkhác của hệ thống quản lý chất lượng - Trước kia đẻ đánh giá tình hình chất lượng người ta sử dụng hệ thống các tiêu chuẩn kĩ thuật đã được đề ra. Còn ngày nay người ta xem xét đánh giá chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ bằng phản ứng của khách hàng về chất lượng. Phần II . Quản lý chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp ngành may Việt Nam 1.Thực trạng về chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm ngành may 1.1 Ngành may ngày càng nâng cao mức thoả mãn của khách hàng trên cơ sở tiết kiệm chi phí Trong một vài năm gần đây ngành may đã không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài nước, dần chiếm lại thị trường nội địa, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, có được những thành tựu trên là do đa số những doanh nghiệp may mặc Việt Nam những năm gần đây đã thường xuyên đầu tư đổi mới công nghệ. Nhưng theo thống kê và đánh giá của các chuyên gia, thiết bị công nghệ ngành may, tuy đã đổi mới 90-95% thiết bị nhưng trình độ tự động hoá quá trình sản xuất cũng chỉ ở mức trung bình, công nghệ lạc hậu hơn các nước tiên tiến trong khu vực khoảng 5 năm. Năng lực thiết kế thời trang, nhất là thời trang cuộc sống của người tiêu dùng trong nước tuy đã có những bước tiến đáng kể song vẫn còn yếu. Ngoài ra, chất lượng dịch vụ trong ngành may mặc như hệ thống thông tin, giao dịch, khả năng giao hàng đúng tiến độ cũng như khả năng tổ chức thực hiện các đơn đặt hàng nhỏ của các doanh nghiệp nước ta cũng có một khoảng cách so với các nước trong khu vực. Giá cả là yếu tố hạn chế lớn nhất của hàng may mặc nước ta, với mức giá thường cao hơn mức giá sản phẩm cùng loại của các nước ASEAN khoảng 10-15%, cao hơn hàng Trung Quốc hơn 20%. Để giảm giá thành sản phẩm, các doanh nghiệp cần xúc tiến ngay việc cải tiến hệ thống quản lý, tổ chức dây truyền sản xuất, nâng cao tay nghề, kỹ năng vận hành và xử lý công việccủa người lao động nhằm tăng nhanh năng suất (hiện năng suất lao động chỉ bằng 50-70% của Singapo, Malaysia, Thái Lan). Đồng thời, áp dụng các biện pháp tiết kiệm chi phí sản xuất, hạn chế những lãng phí lớn về thời gian và sức người, vốn ít được để tâm tới. Nghệ thuật bán hàng của ta, tuy đã tiến bộ hơn rất nhiều so với 10 năm trước đây, nhưng vẫn là điểm yếu cơ bản so với các nước trong khu vực. Đội ngũ xúc tiến thương mại, tiếp thị, hệ thống bán hàng yếu về chất lượng, thiếu về số lượng. Nhiều doanh nghiệp chưa thiết lập được mạng lưới trao đổi thông tin, hệ thống phân phối, đại diện thương mại ở các thị trườngxuất khẩu, nên khả năng phản ứng nhanh trước diễn biến của thị trường rất hạn chế và thường phải đối phó trong thế bị động, kém hiệu qua. Để khắc phục những điểm yếu này, các doanh nghiệp cần sớm đào tạo, xây dựng đội nhũ bán hàng và tiếp thị có kĩ năng cao kết hợp với việc thiết lập kênh phân phối rộng khắp trên thị trường nội địa. Đối với các thị trường xuất khẩu tiềm năng, nếu như từng doanh nghiệp chưa có khả năng làm được thì 5-7 doanh nghiệp nên phối hợp với nhau mở văn phòng đại diện thương mại thường trực. Bên cạnh các biện pháp tăng khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp, đã có sự chú trọng nâng cao khả năng cạnh tranh của toàn hệ thống –tức môi trường trường kinh doanh của toàn ngành may mặc. Chính phủ đang tập chung giải quyết nhiều vấn đề nhằm tạo điều kiện tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may gồm: mở rộng quan hệ thương mại song phương và đa phương với các tổ chức quốc tế (EU, Mỹ, WTO, Trung và Nam Mỹ…) nhằm đẩy mạnh xuất khẩu ngành dệt may như nới lỏng hạn ngạch nhập khẩu vào EU như các nước khác trong ASEAN, hưởng thuế suất bình thường (NTR) vào thị trường Mỹ, giảm thuế nhập khẩu vao các nước Trung và Nam Mỹ, hưởng qui chế bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu như các thành viên WTO. Đòng thời xây dựng cơ chế định hướng cũng như qui hoạch và chính sách hỗ trợ các dự án phát triển sản xuất nguyên phụ liệu cung cấp cho ngành dệt may, nhằm tăng tỉ lệ nội địa hoá trong hàng may mặc xuất khẩu từ 25-30% lên 50% vào năm 2005 và 70%vao năm 2010. 1.2.Hầu hết các doanh nghiệp may Việt Nam đều cho rằng quản lý chất lượng sản phẩm là trách nhiệm của cán bộ kỹ thuật. Như đã biết phương pháp quản lý chất lượng bằng các hệ thống quản lý chất lượng mới được đưa vào áp dụng ở Việt Nam (từ năm 1998. Mặc dù nhà nước đã có nhiều chính sách tạo điều kiện để các doanh nghiệp nghiên cứu và áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng mới. Song vẫn còn nhiều nguyên nhân (cả về phía doanh nghiệp, cả về phía môi trường) đã ngăn cản các doanh nghiệp nghiên cứu và áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng mới đó. Ngành may mặc cũng không phải là ngoại lệ. Vì vậy cho đến nay tỷ lệ doanh nghiệp ngành dệt may đã được cấp chứng chỉ tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000 chiếm chỉ khoảng 5% trong tổng số các doanh nghiệp của ngành. Số còn lại vẫn tiếp tục thực hiện quản lý chất lượng theo kiểu kiểm tra chất lượng. Tức là vẫn coi quản lý chất lượng là hoạt động thuộc lĩnh vực kỹ thuật và trách nhiệm quản lý chất lượng thuộc về cán bộ kỹ thuật, thông qua việc kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi đưa ra thi trường bằng các chỉ tiêu chất lượng. Cho nên bị động trong việc kiểm soát chất lượng sản phẩm-kiểm tra, phát hiện để sửa chữa những lỗi sai- chứ không phải là chủ động kiểm tra ở tất cả các khâu, các công đoạn, các loại nguyên vật liệu… có như vậy mới hạn chế được sự sai hỏng, kém chất lượng ở mức tối thiểu. Vì vậy mà chất lượng sản phẩm còn thấp hơn so với các nước trong khu vực, tỷ lệ phế phẩm cao nên chi phí sản xuất lớn dẫn đến giá thành sản phẩm cao. Làm cho sản phẩm kém sức cạnh tranh trên thị trường… 2.Những điều gặp phải khi áp dụng ISO 9000 cho ngành may mặc Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để tăng chất lượng sản phẩm các doanh nghiệp ngành may mặc đã và đang tiếp tục áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000. Trong quá trình này các doanh nghiệp đã có những điều kiện thuận lợi song cũng gặp không ít những khó khăn, vẫn còn nhiều điều vướng mắc từ đó đã nảy sinh những quan niệm sai lầm về chứng chỉ ISO 9000 . 2.1. Những thuận lợi -Thuận lợi đàu tiên mà ta dễ dàng nhận thấy đó là sự tạo điều kiện thuận lợi, sự giúp đỡ của các cấp các ngành đối với các doanh nghiệp. Điều đó được thể hiện thông qua việc các cấp các ngành ở nhiều địa phương đã thành lập ban chỉ đạo trương trình triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 hoạc giúp đỡ bằng việc hỗ trợ kinh phí. Một trong những nơi đi đầu trong phong trào này là thành phố Hà Nội. Ngày 29/4/1999,Chủ tịch UBND thành phố đã ra quyết định số 1807/QĐ-UB về việc thành lập ban chỉ đạo chương trình triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000, và ngày 19/5/1999, UBND thành phố đã ra chỉ thị 13/CT-UB về đẩy mạnh việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000. UBND thành phố Hà Nội đã kịp thời xây dựng kế hoạch, nội dung đề tài và hỗ trợ cho trương trình áp dụng ISO 9000 với tổng kinh phí năm 1999 là 440 triệu đồng và năm 2000 là 720 triệu đồng… -Các doanh nghiệp Việt Nam là những doanh nghiệp đi sau trong qúa trình áp dụng hệ thống ISO 9000 nên sẽ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm và tránh được những sai lầm đáng tiếc… 2.2. Những khó khăn gặp phải. Khi triển khai áp dụng ISO 9000, các doanh nghiệp cũng gặp lhông ít những khó khăn. Trình độ công nghệ quản lý, mặt bằng, nhà xưởng, kho tàng… của các doanh nghiệp còn bị hạn chế so với các doanh nghiệp của các nước trong khu vực. Phải chỉnh hoạc thay đổi cách thức và phương pháp làm việc cũ đã tồn tại cố hữu trong nhiều năm qua Việc chuẩn hoá và văn bản hoá hệ thống chất lượng theo yêu cầu của ISO 9000 là một công việc rất khó khăn đòi hỏi phải có thời gian và đầu tư công sức . Công tác tư vấn còn nhiều hạn chế. Chuyên gia tư vấn trong nước còn ít, chưa có nhiều kinh nghiệm nhưng khi tư vấn còn gặp những khó khăn do sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hoá. Vai trò của giám đốc công ty quyết định sự thành công và thời gian nhanh hay chậm. Khác với công tác quản lý khác,trong hệ thống quản lý chất lượng, lãnh đạo không chỉ ra lệnh, chỉ đạo thực hiện mà phải trự

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc64883.doc
Tài liệu liên quan