Đề tài Quản lý chất lượng sản phẩm ở Công ty cổ phần May Hưng Yên và một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm

MỞ ĐẦU

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU VỀ CễNG TY CỔ PHẦN MAY HƯNG YấN 2

I. Quỏ trỡnh hỡnh thành và phỏt triển của Cụng ty 2

II. Chức năng và nhiệm vụ của cụng ty 2

III. Cơ cấu tổ chức bộ mỏy quản lý của cụng ty 3

IV. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Cụng ty trong 3 năm 2003, 2004, 2005 6

1. Cỏc mặt hàng sản xuất chủ yếu của cụng ty: 6

2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Cụng ty Cổ Phần May Hưng Yờn 7

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CễNG TÁC QUẢN Lí CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM TẠI CễNG TY CỔ PHẦN MAY HƯNG YấN 9

I. Cỏc đặc điểm kinh tế-kỹ thuật ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm 9

1. Đặc điểm về sản phẩm hàng hoỏ và thị trường. 9

2. Đặc điểm về nguồn vốn kinh doanh. 10

3. Đặc điểm về trang thiết bị cụng nghệ của Cụng ty Cổ Phần May Hưng Yờn 13

4. Đặc điểm về lao động. 13

II. Hệ thống chỉ tiờu đỏnh giỏ chất lượng sản phẩm và thực trạng chất lượng ở cụng ty: 15

1. Hệ thống chỉ tiờu đỏnh giỏ chất lượng sản phẩm. 15

2. Thực trạng chất lượng sản phẩm của Cụng ty 18

III. Thực trạng Cụng tỏc quản lý chất lượng sản phẩm ở cụng ty. 22

1. Quản lý chất lượng trong khõu chuẩn bị sản phẩm. 22

2. Quản lý chất lượng trong quỏ trỡnh sản xuất

3. Quản lý chất lượng sản phẩm trong khõu hoàn thiện và phõn phối sản phẩm

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHĂM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM TẠI CễNG TY MAY CỔ PHẦN HƯNG YấN 31

I. Đỏnh giỏ về hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm tại Cụng ty may Cổ Phần Hưng Yờn. 31

1. Ưu điểm 31

2. Nhược điểm và nguyờn nhõn: 33

II. Một số giải phỏp gúp phần đảm bảo và nõng cao chất lượng sản phẩm ở cụng ty cổ phần may Hưng Yờn 35

1. Khụng ngừng nõng cao nhận thức đỳng đắn về bảo đảm chất lượng và quản lý chất lượng trong đội ngũ cỏn bộ, cụng nhõn viờn trong cụng ty 35

2. Bố trớ thiết bị nơi làm việc sao cho hợp lý và nõng cao trỏch nhiệm với cỏn bộ cụng nhõn viờn. 38

3. Tăng cường cụng tỏc kiểm soỏt và quản lý nguyờn vật liệu do khỏch hàng cung cấp. 39

KẾT LUẬN

 

 

 

doc50 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1854 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý chất lượng sản phẩm ở Công ty cổ phần May Hưng Yên và một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à biểu cắt bán thành phẩm. - Xoa phấn lên bảng giác để in xuống bàn vải, sau đó dùng mẫu bìa vẽ lại cho chính xác rồi dùng máy động cắt phá thành từng mảng và đưa lên máy cắt tĩnh để pha thành các chi tiết bán thành phẩm. - Bán thành phẩm được đưa xuống bàn thợ phụ để đánh số thứ tự tránh nhầm lẫn khi may. - Sau khi đánh số bán thành phẩm được đóng gói và nhập kho bán thành phẩm, sau đó cấp phát lên phân xưởng may theo kế hoạch. Công đoạn cắt bán thành phẩm rất quan trọng, bởi vì sản phẩm may có đẹp hay không một phần cũng là do chất lượng của khâu cắt bán thành phẩm. Quản lý tốt được khâu này sẽ tạo tiên đề tốt cho công đoạn may hoàn thiện sản phẩm đạt năng suất và chất lượng cao hơn. Hơn nữa, ở khâu này cần phải chú ý đến tính kế hoạch và tính đồng bộ. Bởi một sản phẩm may có nhiều chủng loại nguyên phụ liệu như vải chính, vải lót, vải phối và bông dựng ... do đó khi cắt phải đồng bộ cả chính, phụ và lót để phân xưởng may tiến hành sản xuất được trôi chảy. Để đánh giá chất lượng công việc cắt của phân xưởng cắt ta hày xem bảng tổng kết tình hình sản xuất trong 3 năm qua. Bảng 6: Chất lượng bán sản phẩm ở phân xưởng cắt. Năm Cổ Túi Cạp quần Tay Thân áo Thân quần Sửa chữa được Phế phẩm Sửa chữa được Phế phẩm Sửa chữa được Phế phẩm Sửa chữa được Sửa chữa được Sửa chữa được 2003 2004 2005 6.500 7.180 4.140 670 895 480 6.850 7.940 5.210 970 1.280 930 5.230 6110 4.080 1.050 980 840 5.270 6.340 4.060 3.890 4.550 3.160 5.570 6.890 4.150 Nhìn vào bảng tổng kết, ta thấy tỷ lệ sản phẩm hỏng phải sửa chữa cũng như tỷ lệ phế phẩm là chấp nhận được. Theo như đánh giá của phó giám đốc phân xưởng may I thì tình hình chất lượng phân xưởng cắt trong một vài năm gần đây được cải thiện. Tuy nhiên, về chất lượng bán thành phẩm cắt để phục vụ tốt cho công đoạn may thì lại chưa được nâng cao. Các bán thành phẩm vẫn chưa được cắt chính xác thường cắt quá rộng hặc quá hẹp so với paton ( mẫu ). Các bán thành phẩm này, tuy không bị coi là phế phẩm nhưng đã gây không ít khó khăn cho phân xưởng may. Thậm chí còn làm giảm chất lượng thành phẩm may. Bên cạnh đó ban Giám đốc của công ty đã nghiên cứu tìm hiểu thị trường công nghệ cắt vải tự động và quyết định mua về hệ thống cắt trải vải tự động của Pháp với số tiền lên đến 3,7 tỷ đồng. Đây là hệ thông cắt trải vải tiên tiến vào bậc nhất trên thế giới, có khả năng tăng cao năng suất cắt với độ chính xác cao. Đồng thời, công ty tiến hành chọn lựa 5 công nhân cắt vải có trình độ, kinh nghiệm đẻ các chuyên gia người Pháp tiến hành đào tạo, hướng dẫn một cách tỷ mỉ cách sử dụng cũng như bảo quản sửa chữa hệ thống cắt trải vải trên.Chính nhờ sự quan tâm của ban lãnh đạo công ty, phân xưởng cắt đã có được công nghệ cắt hiện đại và đã nâng cao chất lượng bán thành phẩm. 2.2. Chất lượng bán thành phẩm ở phân xưởng thêu, in : Khi tiến hành xong công việc cắt nguyên liệu tạo ra bán thành phẩm, nếu mẫu mã hàng có yêu cầu thêu hay in thì phân xưởng cắt sẽ đánh số thứ tự rồi chuyển sang cho phân xưởng thêu, in. Hiện nay, phân xưởng thêu được trang bị 2 giàn máy thêu của Đức, mỗi giàn máy có 10 đầu máy. Về lực lượng công nhân đứng máy có 12 người. Nếu có nhiều hàng thêu, phân xưởng sẽ bố trí chia làm 3 ca sản xuất . Ngoài ra còn 6 người nhặt chỉ thêu, bóc dựng thêu và 1 phó giám đốc phụ trách phân xưởng thêu. Đây là người am hiểu máy móc thiết bị cũng như kỹ thuật thêu. Các mẫu hình cần theo thường là con giống, biểu tượng, chữ. Nhìn chung, tình hình chất lượng ở phân xưởng thêu là rất tốt. Do tính chất công việc là sử dụng các giàn máy thêu tự động nên tỷ lệ sai hỏng là rất ít hầu như không có. Nếu có những bán thành phẩm thêu không đẹp, hình hay chữ nhỏ hơn mẫu, hay thêu ngược chiều, nhầm mẫu chỉ đầu có thể tháo chỉ là thêu lại. Nhưng nếu mật độ chỉ thêu quá dày, việc tháo chỉ sẽ làm rách vải thì cần thoả thuận thương lượng với khách hàng những bán thành phẩm có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thuế sản phẩm và bóc dựng thêu, do tổ chức làm không tốt nên đã nhiều lần xẩy ra tình trạng có những bàn hàng lấy lên trước nhưng phân xưởng thêu không làm theo thứ tự đã bỏ qua để làm những mặt hàng lấy lên sau. Do vậy, những bán thành phẩm cần làm ngay để lắp ráp hoàn thiện sản phẩm thì phân xưởng thêu làm sau, những bán thành phẩm chưa cần làm ngay thì lại được làm trước. Việc làm này đã gây ách tắc cho sản xuất, làm chậm tiến độ giao cho khách. 2.3. Chất lượng sản phẩm ở các phân xưởng may. Phân xưởng may là nơi sản xuất chính của công ty, bao gồm cả may và hoàn thiện sản phẩm khép kín một công đoạn sản xuất. Trong Công ty có 5 phân xưởng may với khoảng 2350 công nhân trực tiếp sản xuất. Hiện nay, trang thiết bị máy móc phục vụ công đoạn may đang dần được hiện đại hoá với nhiều loại máy tiên tiến như : máy bổ cơi, máy di bo, máy ép mex... Hiện tại, công ty phân chia chất lượng sản phẩm hoàn thiện ra làm 3 loại : + Sảm phẩm loại I : là sản phẩm đảm bảo tuyệt đối các yêu cầu về kỹ thuật và đạt được những tiêu chuẩn quy định trong tài liệu kỹ thuật và quy trình công nghệ về quy cách, kích thước, màu sắc... + Sản phẩm loại II : là những sản phẩm chưa đạt yêu cầu, cần phải sửa chữa lại. Nếu sửa chữa xong mà vẫn không thoả thuận được với khách hàng để xuất khẩu thì công ty sẽ dùng để tiêu thụ trong nước. + Phế phẩm : là những sản phẩm hỏng do rách, lỗi sợi nhiều, dầu máy nhiều không tẩy sạch, thông số kích thước bị âm quá nhiều dẫn đến không thể sửa chữa được. Những năm gần đây, công ty đã cố gắng để khống chế sản phẩm phải sửa chữa (tức loại II) xuống dưới 3,5% nhưng những sản phẩm sửa lại vẫn đảm bảo chất lượng giao cho khách hàng. Tuy nhiên, đây là cái đích mà công ty cần phải đến. Tỷ lệ phế phẩm vẫn còn vào khoảng 0,6% toàn bộ các phân xưởng sản xuất. Để có thể tìm hiểu cụ thể về tình hình chất lượng sản phẩm của công ty, ta cũng xem xét và đánh giá chất lượng của một số mã hàng trong các năm gần đây qua Bảng 2 ở phần phụ lục. Đối với sản phẩm áo sơ mi, đây là sản phẩm công ty vừa sản xuất để xuất khẩu vừa mở của hàng đại lý tạo công ty để bán cho người tiêu dùng trong nước. Sản phẩm áo sơ mi bán trong nước thì yêu cầu kỹ thuật, chất liệu vải không cao lắm nhưng để xuất khẩu ra nước ngoài thì khách hàng đòi hỏi rất cao từ vệ sinh công nghiệp đến các đường may, cách gấp áo, nhãn hiệu, làm bao gói sản phẩm đều được kiểm tra kỹ càng. Theo kế hoạch đề ra sản phẩm sơmi sẽ được làm để xuất khẩu nhưng đã không hoàn thành kế hoạch đề ra với tỷ lệ phế phẩm lên đến 0,83%, còn tỷ lệ sản phẩm loại II là 4,2%. Đối với mã hàng 9511 dùng để tiêu thụ trong nước cũng không hoàn thành kế hoạnh. Đối với sản phẩm dùng để phục vụ trong nước, công ty tuân thủ nghiêm ngặt quy trình công nghệ sản xuất cũng như hệ thống chỉ tiêu chất lượng. Tuy nhiên, số lượng sản phẩm được tiêu thụ vẫn còn hạn chế là do công ty phải cạnh tranh mạnh mẽ với những công ty lớn có uy tín và chuyên sâu về mặt hàng này. Đối với áo váy các loại, đây là sản phẩm được tiêu thụ hoàn toàn trong nước. Do nhu cầu của thị trường lên cao, công ty đã dự định sản xuất 4500 sản phẩm với tỷ lệ sản phẩm loại II 2,5% còn phế phẩm là 0,5%. Nhưng do tâm lý của công nhân sản xuất không thực sự chú trọng trong công việc, làm ẩu, làm vội vàng để lấy số lượng vì coi đây là hàng trong nước nên kết quả là tỷ lệ phế phẩm tăng lên 0,586%. Những số liệu này được thể hiện ở Bảng 3 phần phụ lục. Số lượng mặt hàng sản phẩm công ty tham gia hùn vốn sản xuất rất là đa dạng nhưng giá trị cao là những mã hàng áo Jacket 3 lớp và 2 lớp dùng để xuất khẩu sang thị trường Anh, Đức. Có thể nói, đây là giai đoạn công ty hy vọng có được những tín hiệu tốt đẹp cho một hướng kinh doanh mới. Với các sản phẩm áo Jacket công ty đặt quyết tâm hoàn thành kế hoạch đặt ra. Ban giám đốc công ty cũng đặc biệt quan tâm đến đợt sản xuất này nên đã luôn đi sâu sát chỉ đạo thực hiện sản xuất để đảm bảo chất lượng sản phẩm và hạn chế tỷ lệ phế phẩm. Kết thúc mã hàng áo Jacket công ty đã thu được kết quả mong đợi duy chỉ có mã hàng 286 là kông hoàn thành chỉ tiêu đề ra với tỷ lệ phế phẩm là 0,73%, sản phẩm loại II là 3,7% Ban giám đốc công ty đã quyết định chỉ đạo phòng kỹ thuật làm chủ đạo cùng với các phòng ban khác soạn thảo các yêu cầu của hệ thống quản lý chất lượng ISO – 9000 nhằm áp dụng thành công hệ thống đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn ISO – 9001 vào năm 2000. Tất cả cán bộ công nhân viên trong công ty đều được phổ biến, thấu hiểu để áp dụng và duy trì chính sách chất lượng. Để có thể hoàn thành xuất sắc kế hoạch mà công ty đã đề ra, Ban giám đốc đã từng bước tiến hành các công việc cụ thể như : Đổi mới bộ máy quản lý với việc thành lập một phòng mới do phó giám đốc kỹ thuật làm đại diện lãnh đạo chất lượng. Đây là bộ phận sẽ kết hợp với chi cục đo lường tiêu chuẩn chất lượng Hưng Yên để chỉ đạo, giám sát và đánh giá tiến độ thực hiện các yêu cầu của hệ thống quản lý chất lượng đề ra. Nhìn vào Bảng 4 phần phụ lục, ta thấy tình hình chất lượng sản phẩm của các mã hàng thực sự đã tiến bộ, hoàn thành kế hoạch đề ra với tỷ lệ sản phẩm loại II và phế phẩm. Ngay cả đối với mặt hàng áo Jacket 3 lớp từ trước đến nay đều có tỷ lệ phế phẩm cao cũng đã có chiều hướng tích cực, đặc biệt với mã hàng 331 có số lượng sản xuất 1300 chiếc đã có sự cố gắng cao để giảm tỷ lệ phế phẩm xuống còn 0,77% so với kế hoạch là 0,85%. Tuy nhiên, tình hình phế phẩm của các loại áo váy và áo sơ mi vẫn chưa được cải thiện với tỷ lệ phế phẩm của các loại áo váy và áo sơ mi vẫn chưa được cải thiện với tỷ lệ phế phẩm cuả áo váy là 0,62% so với kế hoạch là 0,5%. Điều này có thể giải thích bởi đời sống nhân dân thành phố cũng như một số thành thị khác đã được nâng cao. Do đó, nhu cầu về ăn mặc đẹp theo trào lưu, thời trang phát triển mạnh dẫn đến số lượng tiêu thụ trong nước là rất thấp. Do vây, công ty đã không chú trọng đầu tư đổi mới thiết bị cũng như đào tạo tay nghề công nhân sản xuất và quản lý tổ chức sản xuất. III. thực trạng Công tác quản lý chất lượng sản phẩm ở công ty. 1. Quản lý chất lượng trong khâu chuẩn bị sản phẩm. 1.1. Quản trị nguyên vật liệu. Hiện nay, công ty có một mạng lưới cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất bảo đảm giao đúng thời hạn, chất lượng đúng yêu cầu. Để đảm bảo hàng nhập đúng yêu cầu chất lượng, bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm và bộ phận nghiên cứu sản phẩm đều kiểm tra qua các bước phân tích nguyên liệu. Bên cạnh đó, công ty cũng có biện pháp kết hợp với các nhà cung ứng như sau: Công ty đưa ra các yêu cầu, bên cung ứng gửi mẫu để giới thiệu sản phẩm và các thông tin về đặc tính sản phẩm kèm theo. Bộ phận kỹ thuật và KCS thử mẫu trên sản phẩm, nhận xét và đánh giá. Phòng kinh doanh xem xét giá cả, phương thức mua bán, nhập và chọn nhà cung ứng. Trong quá trình giao hàng, nếu bên cung ứng không giao hàng đúng với chất lượng nguyên vật liệu đã gửi mẫu, cán bộ kỹ thuật có quyền không cho phép nhập lô hàng đó. Trong quá trình bảo quản, lưu kho nguyên vật liệu cũng được kiểm tra thường xuyên để tránh sự xuống cấp về chất lượng, sử dụng những vật dụng, cách thức bảo quản theo qui định đồng thời cũng kiểm tra kho hàng... để đảm bảo chất lượng trước khi đưa vào sản xuất. Trước khi đưa nguyên vật liệu vào sản xuất, cán bộ quản lý chất lượng kiểm tra lần cuối cùng để đảm bảo sản phẩm sản xuất ra không có sự sai sót gì về khâu nguyên vật liệu. Nếu thấy nguyên vật liệu không đủ chất lượng cho sản xuất, cán bộ kiểm tra có quyền không cho phép nhập nguyên vật liệu vào sản xuất. 1.2. Quản trị máy móc thiết bị và quy trình công nghệ. Đây là biện pháp được công ty sử dụng thường xuyên và rất được chú trọng trong thời gian vừa qua để phục vụ cho mục tiêu hàng đầu của công ty là đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Để đầu tư đổi mới máy móc và quy trình công nghệ, công ty từng bước đầu tư một cách có trọng điểm do nguồn vốn còn hạn hẹp. Ngay từ khi mới thành lập, công ty đã đầu tư gần 20 tỷ đồng cho việc mua sắm các trang thiết bị mới đồng bộ được nhập khẩu trực tiếp chủ yếu từ các nước phát triển như Nhật, Đức. Riêng năm 2004 vừa qua, công ty đã đầu tư để bổ sung thêm số máy móc thiết bị hiện có là 4,2 tỷ đồng trong đó có trang thiết bị chuyên dùng đặt tại xưởng chuyên sản xuất áo Jacket từ các nước Nhật, Tiệp Khắc nhằm từng bước ổn định và phát triển sản xuất, tạo cơ sở lâu dài cho khả năng cạnh tranh của công ty. Bên cạnh đó, phòng kỹ thuật, phòng KCS còn kết hợp chặt chẽ với bộ phận thi đua của công ty mở các cuộc thi tăng năng suất, hội thảo nâng cao chất lượng, đề xuất các hình thức khen thưởng đối với công nhân có năng suất cao, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao và có phạt, cảnh cáo đối với công nhân làm ra sản phẩm có chất lượng kém. Có thể nói, việc đổi mới công nghệ đã tác động mạnh mẽ đến chất lượng sản phẩm của công ty, cụ thể là; - Tăng chất lượng sản phẩm, giảm tỷ lệ phế phẩm. - Đa dạng hoá chủng loại sản phẩm, mẫu mã kiểu dáng. - Mở rộng quy mô sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. 1.3. Quản lý lao động. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn lao động là một trong những yếu tố quan trọng của các doanh nghiệp ngành may mặc nói chung và Công ty may Cổ Phần Hưng Yên nói riêng đều bị chi phối bởi quy luật giá trị. Nguồn lao động của công ty luôn bị biến động do nhiều nguyên nhân khác nhau như nghỉ đẻ, nghỉ vì lý do sức khoẻ... điều này dẫn đến một vòng luẩn quẩn là tay nghề công nhân chưa cao, lương thường xuyên thay đổi, công việc không ổn định, không được chú trọng đầu tư nâng cao tay nghề... Điều này sẽ làm cho công ty khó có thể thực hiện được bất cứ một kế hoạch nào cụ thể để nâng cao chất lượng sản phẩm. Chính vì vậy, để làm cơ sở cho các hoạt động cải tiến chất lượng, công ty đã có chế độ đãi ngộ thoả đáng đối với công nhân viên như thưởng cho những người lao động làm việc chăm chỉ và có ý thức trách nhiệm với công việc hay thưởng cho những người làm việc đạt hiệu quả cao trong sản xuất. Các chế độ này được thực hiện công khai, rõ ràng và được ghi thành văn bản thoả thuận cụ thể trong các hợp dồng trong công ty và người lao động. Đồng thời công ty cũng tổ chức bồi dưỡng, đào tạo nâng cao tay nghề cho cán bộ công nhân viên trong công ty nhằm nâng cao ý thức và thích ứng với điều kiện lao động mới, máy móc thiết bị hiện đại... Bên cạnh đó, công ty đã thay đổi chế độ trả lương theo sản phẩm và thực hiện chế độ trả lương theo chất lượng, theo hiệu quả công việc. Nếu người công nhân tạo ra sản phẩm chất lượng kém hay làm việc ẩu, vô trách nhiệm thì sẽ nhận lương thấp ngược lại nếu người công nhân làm việc chăm chỉ, có ý thức học hỏi và tạo ra sản phẩm chất lượng cao sẽ được nhận lương cao. Chính điều này đã tạo cho công nhân phải tự mình tìm hiểu, học hỏi lẫn nhau để nâng cao tay nghề nhằm sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt hơn đồng thời đảm bảo về điều kiện vật chất cho bản thân người công nhân. 2. Quản lý chất lượng trong quá trình sản xuất. * Kiểm soát việc cung cấp vật tư đầu vào: Phòng KH- XNK có trách nhiệm cân đối vật tư, nguyên liệu, phụ liệu trước khi bắt đầu sản xuất một mã hàng.Trong trường hợp vật tư , nguyên phụ liệu chưa đầy đủ nhưng cần phải sản xuất ngay, Trưởng phòng XNK phải báo cáo lãnh đạo để có phương án thích hợp, đồng thời phải có kế hoặc giao dịch với khách hàng để cung cấp nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất, hạn chế đến mức tối thiểu tình trạng chờ đợi, ách tắc. * Lập kế hoạch chính xác và kiểm tra tiến độ sản xuất theo HD- XN- 06: Trên cơ sở tình hình vật tư và sản xuất, phòng KH- XNK lập kế hoạch để giao cho các bộ phận sản xuất trình Tổng Giám đốc để có ý kiến chỉ đạo trực tiếp. Hàng ngày các tổ sản xuất báo cáo số lượng sản phẩm của tổ, cán bộ thống kê chuyên trách của xí nghiệp thu thập số liệu báo cáo phòng XNK. Phòng KH- XNK có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo trực tiếp Tổng Giám đốc để có biện pháp điều hành. *Kiểm soát tài liệu sử dụng trong sản xuất: Tất cả mọi tài liệu sử dụng trong quá trình sản xuất phải đầy đủ, do những người có năng lực soạn thảo. Tài liệu sử dụng trong quá trình sản xuất bao gồm: - Toàn bộ tài liệu do khách hàng cung cấp, do các phòng ban trong công ty soạn thảo để phục vụ cho việc sản xuất một đơn hàng cụ thể. - Các hướng dẫn kỹ thuật ( HD- KT- 07/08/09) - Các hướng dẫn công nghệ ( HD- SX- 01/02/03/04/06) - Các hướng dẫn kiểm tra ( HD- KS- 01/02/03) - Các hướng dẫn bảo trì, vận hành máy móc thiết bị ( HD- KT- 01/02/03/04/05/06/07/16) Những tài liệu trên phải sẵn có ở mọi vị trí cần thiết. Mọi người có liên quan phải thực hiện đúng những điều đã quy định trong tài liệu. * Kiểm soát thiết bị sử dụng trong sản xuất: - Phòng kỹ thuật phải thiết lập danh mục thiết bị ( HD- KT- 11) và quản lý thiết bị sản xuất của toàn công ty - Để phục vụ cho việc sản xuất từng đơn hàng, phòng kỹ thuật phải lập phiếu điều động thiết bị và cung ứng các thiết bị phù hợp về chủng loại và số lượng - Phòng kỹ thuật chịu trách nhiệm lập kế hoạch bảo dưỡng thiết bị để đảm bảo thiết bị luôn hoạt động tốt. Khi thiết bị hỏng hóc phải kịp thời sửa chữa để không ảnh hưởng tới kế hoạch sản xuất( Hd- KT- 06). Trong trường hợp do sự cố máy móc làm ảnh hưởng tới tiến độ sản xuất, trưởng các đơn vị sản xuất phải kịp thời báo cáo Tổng Giám đốc để có biện pháp xử lý. 2.1. Phân xưởng cắt. Phân xưởng cắt là nơi tiến hành cắt bán thành phẩm theo định mức và kế hoạch cắt cụ thể bằng biểu cắt bán thành phẩm do phòng kỹ thuật chuyển cho kho phát nguyên phụ liệu theo định mức. Công việc cắt bán thành phẩm gồm các bước sau: - Nhận nguyên phụ liệu từ kho về theo biểu cắt bán thành phẩm , kiểm tra lại khổ vải và ký hiệu. - Tiến hành trải vải theo chiều dài được quy định trong bản giác mẫu và biểu cắt bán thành phẩm. - Xoa phấn lên bản giác để in xuống bàn vải, sau đó dùng mẫu bìa vẽ lại cho chính xác rồi dùng máy động cắt thành từng mảng và đưa lên máy cắt tĩnh để pha thành các chi tiết bán thành phẩm. - Bán thành phẩm được đưa xuống bàn thợ phụ để đánh số thứ tự để tránh nhầm lẫn khi may. - Sau khi đánh số, bán thành phẩm được đóng gói và nhập kho bán thành phẩm, sau đó cấp phát lên phân xưởng may theo kế hoạch. Công đoạn cắt bán thành phẩm rất quan trọng bởi vì sản phẩm may có đẹp hay không một phần cũng là do chất lượng của khâu cắt bán thành phẩm. Quản lý tốt được được khâu này sẽ tạo tiền đề tốt cho công đoạn may hoàn thiện sản phẩm đạt năng suất và chất lượng cao hơn. Mặt khác, ở khâu này cần phải chú ý đến tính kế hoạch và tính đồng bộ. Bởi một sản phẩm may có nhiều chủng loại nguyên phụ liệu như vải chính, vải lót, vải phối và bông dụng... do vậy khi cắt phải đồng bộ cả chính, phụ và lót để phân xưởng may tiến hành sản xuất được trôi chảy. Để đánh giá công việc của phân xưởng cắt ta hãy xem bảng tổng kết tình hình chất lượng bán thành phẩm trong 3 năm qua. Bảng 7 : Tình hình chất lượng bán thành phẩm ở phân xưởng cắt. Năm Cổ Túi Cạp quần Tay Thân áo Thân quần Sửa chữa được Phế phẩm Sửa chữa được Phế phẩm Sửa chữa được Phế phẩm Sửa chữa được Sửa chữa được Sửa chữa được 2003 2004 2005 6.500 7.180 4.140 670 895 480 6.850 7.940 5.210 970 1.280 930 5.230 6110 4.080 1.050 980 840 5.270 6.340 4.060 3.890 4.550 3.160 5.570 6.890 4.150 Do đặc điểm của công việc cắt ở phân xưởng là nếu bán thành phẩm bị cắt hỏng ở cỡ to thì có thể sửa chữa cắt lại theo cỡ nhỏ hơn, nếu trong trường hợp lỗi cắt quá nặng hoặc không thể chuyển được sang cỡ nhỏ hơn thì mới cho vào loại phế phẩm. Số phế phẩm này sẽ được chuyển đổi ra mét để yêu cầu quản đốc phân xưởng lập biên bản hỏng sau đó trình bày với phó giám đốc phụ trách phân xưởng để yêu cầu thủ kho cung cấp vải mới thay thế. Đối với các bán thành phẩm như thân áo, tay áo, thân quần bộ phận cắt luôn kết hợp và chuyển sang các bộ phận khác phục vụ công việc hoàn thiện sản phẩm. Do vậy, đối với những loại bán thành phẩm như thế này hầu như không có phế phẩm hoặc nếu có là rất ít không đáng kể. Nhìn vào bảng tổng kết ta thấy tỷ lệ bán thành phẩm hỏng phải sửa chữa cũng như tỷ lệ phế phẩm là chấp nhận được và ngày càng thể hiện được sự cải thiện. Tuy nhiên, về chất lượng bán thành phẩm cắt để phục vụ tốt cho công đoạn may thì vẫn cần phải được nâng cao hơn nữa vì các bán thành phẩm vẫn chưa được cắt chính xác tuyệt đối mà thường cắt quá rộng hoặc quá hẹp so với paton (mẫu). Các bán thành phẩm này tuy không bị coi là phế phẩm nhưng đã gây không ít khó khăn cho phân xưởng may thậm chí còn làm giảm chất lượng thành phẩm may. Số lượng vải cắt theo qui định đối với từng loại vải đã được ghi rõ theo như hướng dẫn tác nghiệp của phòng kỹ thuật. Thông thường đối với loại vải khó cắt thì một máy cắt có thể cắt 30- 40 lớp vải, còn vải dễ cắt thì được 80- 100 lớp. Các lô vải thường dài 20 m với khổ rộng 1,5 m. Tuy nhiên, do nhu cầu của tiến độ công việc cần gấp cũng như thói quen làm ẩu của một số công nhân đã không tuân thủ về số lượng cắt, đã cho cắt với quá nhiều lớp vải dẫn đến bán thành phẩm cắt bị xô lệch, nhăn dúm, đường cắt không đảm bảo đúng. Số lượng công nhân cắt các năm gần đây thường vào khoảng trên 100 người với bậc thợ trung bình 2,8. Phân xưởng cắt luôn có quản đốc là người có kinh nghiệm, có bậc thợ từ bậc 4 trở lên. Chính nhờ sự quan tâm của ban lãnh đạo công ty, phân xưởng cắt đã được trang bị những máy móc công nghệ cắt hiện đại và đã nâng cao chất lượng bán thành phẩm, điều này được thể hiện rõ trong năm 2004 với tỷ lệ bán thành phẩm cắt hỏng giảm 0,92%, phế phẩm giảm 0,084%. Đây có thể được coi là thành tích cao nhất mà phân xưởng cắt đạt được trong nhiều năm qua. 2.2. Phân xưởng thêu, in. Khi tiến hành xong công việc cắt nguyên liệu tạo ra bán thành phẩm, nếu mẫu mã hàng có yêu cầu thêu hay in thì phân xưởng cắt sẽ điền số thứ tự rồi chuyển sang cho phân xưởng thêu, in. Hiện nay, phân xưởng thêu được trang bị bốn dàn máy thêu của Nhật, Đức mỗi dàn máy có 10 đầu máy. Về số lượng công nhân đứng máy có 43 người. Nếu có nhiều hàng thêu, phân xưởng sẽ bố trí chia làm 3 ca sản xuất. Ngoài ra còn 15 người nhặt chỉ thêu, bóc dựng thêu và một phó giám đốc phụ trách phân xưởng thêu. Các mẫu hình cần thêu thường là con giống, biểu tượng, chữ. Nhìn chung, tình hình chất lượng ở phân xưởng thêu là rất tốt. Do tính chất công việc là sử dụng các dàn máy thêu tự động nên tỷ lệ sai hỏng là rất ít hầu như không có. Nếu có những bán thành phẩm thêu không đẹp, hình hay chữ nhỏ hơn mẫu hoặc thêu ngược chiều, nhầm mẫu chỉ có thể tháo chỉ để thêu lại nhưng nếu mật độ chỉ thêu quá dày, việc tháo chỉ sẽ làm rách vải thì cần thoả thuận, thương lượng với khách hàng những bán thành phẩm có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thêu sản phẩm và bóc dựng thêu, do tổ chức làm chưa hoàn toàn tốt nên đã nhiều lần xảy ra tình trạng có những mặt hàng lấy lên trước nhưng phân xưởng thêu không làm theo thứ tự đã bỏ qua để làm những mặt hàng lấy lên sau. Do vậy, những bán thành phẩm cần làm ngay để lắp ráp hoàn thiện sản phẩm thì phân xưởng thêu làm sau còn những bán thành phẩm chưa cần làm ngay thì lại được làm trước. Chính việc làm này đã gây ách tắc cho sản xuất, làm chậm tiến độ giao hàng cho khách. Trước đây, khi có những bán thành phẩm cần thêu, phòng kỹ thuật chỉ đưa sản phẩm mẫu để xem và hướng dẫn cách phối mẫu . Bây giờ, phòng kỹ thuật muốn khắc phục tình trạng thêu không đúng vị trí, kích thước, mẫu hình cần thêu nên đối với mỗi mặt hàng đều có quy trình kỹ thuật hướng dẫn thêu, hướng dẫn tỷ mỷ mẫu thêu, mẫu chỉ, kích thước chữ hoặc mẫu hình cần thêu. Đồng thời phó giám đốc phụ trách phân xưởng thêu cũng qui định rõ trách nhiệm quản lý cũng như trách nhiệm của từng công nhân thêu để cuối mỗi quý có xét thưởng thi đua. Nhờ những biện pháp tích cực như vậy mà phân xưởng thêu dần dần đi vào ổn định và luôn đảm bảo chất lượng những bán thành phẩm xuất cho phân xưởng may hoàn thiện. 2.3. Phân xưởng may. Phân xưởng may là nơi sản xuất chính của công ty, bao gồm cả may và hoàn thiện sản phẩm khép kín một công đoạn sản xuất. Trong Công ty may Cổ Phần Hưng Yên có hai phân xưởng may chuyên sản xuất gia công hàng may mặc. Còn một phân xưởng may CKT chuyên sản xuất các loại mũ, áo bơi. Hiện nay, trang thiết bị máy móc phục vụ công đoạn may đang dần được hiện đại hoá với nhiều loại máy tiên tiến như: máy bổ cơi, máy ép mex..., công việc chính của phân xưởng may bao gồm phó quản đốc phân xưởng đi lĩnh hàng bán thành phẩm theo tiến độ kế hoạch, phụ trách kỹ thuật của phân xưởng đi lấy mẫu paton và quy trình may ở phòng kỹ thuật, sau đó về kiểm tra khớp lại paton lần nữa và phát mẫu cho công nhân may. Người công nhân may lấy dấu và kiểm tra bán thành phẩm theo mẫu này rồi dựa vào áo mẫu và quy trình may để hoàn thiện sản phẩm. Trong quá trình sản xuất, thường thì một phân xưởng chia làm 3 tổ với mỗi tổ là một dây chuyền sản xuất bao gồm khoảng 60 máy may và những may chuyên dùng khác với số công nhân khoảng trên 75 người. Người phụ trách dây chuyền là tổ trưởng tổ quản lý sản xuất chịu trách nhiệm phân chuyền, bố trí lao động sao cho phù hợp với từng mã hàng. Do vậy, người tổ trưởng có kinh nghiệm quản lý, có tay nghề chuyên môn cao, có nhiệt tình công tác thì sẽ quản lý tốt dây chuyền sản xuất đạt năng suất cao. Khi sản phẩm may xong sẽ được làm vệ sinh công nghiệp và được

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5340.doc
Tài liệu liên quan