Đề tài Quản lý hệ sinh thái dưới nước

MỤC LỤC

Mục lục .01

Mở đầu .04

I. Biển và đại dương .05

1. Giới thiệu chung .05

2. Chức năng của biển và đại dương . .07

1. Sinh vật biển 07

2. Nguồn lợi hoá chất và khoáng chất chứa trong khối nước và đáy biển 08

3. Nguồn lợi nhiên liệu hoá thạch, chủ yếu là dầu và khí tự nhiên 08

4. Nguồn năng lượng "sạch" khai thác từ gió, nhiệt độ nước biển, các dòng hải lưu và thuỷ triều 09

5. Mặt biển và vùng thềm lục địa là đường giao thông thuỷ 09

6. Biển là nơi chứa đựng tiềm năng cho phát triển du lịch, tham quan, nghỉ ngơi, giải trí 09

7. Biển điều hoà khí hậu 10

3. Tác động tiêu cực của con người lên biển và đại dương 10

1. Ô nhiễm biển 10

2. Hiện tượng tràn dầu 11

3. Hoạt động khai thác và đánh bắt quá mức hải sản 12

4. Nước biển nóng lên, axit hóa và mực nước biển dâng cao 13

4. Quản lý các hệ sinh thái biển và đại dương 14

1. Công cụ pháp chế 14

2. Các công cụ khoa học, kỹ thuật 15

3. Quản lý các khu hệ sinh thái biển 16

3.1.Các hệ sinh thái rạn san hô 16

3.2. Các hệ sinh thái cỏ biển 18

II. Các hệ dòng chảy 20

1. Giới thiệu chung 20

2. Giới thiệu một số con sông lớn trên thế giới và Việt Nam 22

1. Sông Nile 22

2. Sông Hồng 25

3. Sông Mekong 26

3. Chức năng của sông 26

1. Sông cung cấp thủy sản 26

2. Sông cung cấp nước ngọt 27

3. Sông điều hòa khí hậu 28

4. Sông đồng hóa các chất thải của con người 28

5. Sông là đường vận tải quan trọng 28

6. Sông cung cấp sức nước 28

7. Sông chuyên chở phù sa 28

4. Tác động tiêu cực của con người lên các dòng sông 29

1. Khai thác quá mức nguồn nước 29

2. Đắp đập, xây hồ làm biến đổi hệ sinh thái sông 29

3. Ô nhiễm các dòng sông 30

4. Khai thác quá mức, tận diệt thủy sản 30

5. Quản lý hệ sinh thái sông 30

III. Các thủy vực nước tĩnh 32

1. Giới thiệu chung 32

2. Chức năng của hồ ao 32

1. Hồ cung cấp và điều hòa nguồn nước 32

2. Hồ điều hòa vi khí hậu. 32

3. Hồ cung cấp thủy sản 33

4. Hồ là nơi chứa và phân giải chất thải 33

5. Hồ là cảnh quan du lịch 33

3. Tác động tiêu cực của con người đến hồ 33

1. Ô nhiễm hồ ao 33

2. Cạn kiệt hồ ao 34

3. Tác động của hồ nhân tạo 35

4. Quản lý hồ ao 35

Kết luận 36

Tài liệu tham khảo 38

 

doc38 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3967 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý hệ sinh thái dưới nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đánh bắt quá mức hải sản Nước ta có bờ biển trải dài suốt từ Bắc vào Nam, diện tích biển của nước ta là rất lớn so với diện tích đất liền nên rất thuận lơi cho việc đánh bắt hải sản và phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên việc khai thác các nguồn lợi từ biển nếu không được quy hoạch thì sẽ dẫn đến làm suy giảm nguồn tài nguyên quan trọng này. Những năm gần đây chúng ta chúng ta đã phát triển nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản một cách ồ ạt dẫn đến việc khai thác một cách thiếu bền vững, làm suy giảm nguồn tài nguyên quan trọng này, đặc biệt là việc quy hoach nuôi tô cũng đang là một vấn đề cần được quan tâm đúng mức vì bên cạnh đó có rất nhiều các vấn đề môi trường xảy ra. Theo các nhà khoa học nguồn lợi thuỷ sản phá Tam Giang đang bị suy giảm một cách nghiêm trọng. Đó là việc gia tăng khai thác một cách ồ ạt mà biểu hiện bằng việc gia tăng các loại và số lượng ngư cụ trong khai thác từng loại, kích cỡ mắt lưới ngày càng dày đặc, gia tăng thuyền bè, lao động khai thác thuỷ sản đầm phá. Mặt khác do việc sử dụng các dụng cụ có tính chất huỷ diệt như xung điện, mìn đã làm suy giảm nghiêm trọng. Qua một số dữ liệu phân tích thấy trữ lượng nguồn lợi thuỷ sản Phá Tam Giang ngày càng giảm và trữ lượng khai thác ngày càng tăng. Điều đó càng khẳng định nếu không có các biện pháp quản lý hợp lý thì việc giữ gìn và bảo vệ các loài trong hệ sinh thái dưới nước là khó thực hiện được. 4. Nước biển nóng lên, axit hóa và mực nước biển dâng cao CO2 tích tụ trong không khí phần lớn được các đại dương hấp thụ. Lượng CO2 trong khí quyển đang tăng lên, vì vậy, lượng CO2  hòa tan vào nước biển cũng tăng lên, kéo theo nồng độ axit trong nước biển cũng ngày càng tăng lên. Sự axit hóa đại dương ảnh hưởng tới khả năng hấp thụ âm thanh của các phân tử mang điện tích trong nước biển, gây khó khăn cho các sinh vật biển trong việc tìm kiếm thức ăn và bạn tình. Người ta vẫn chưa đánh giá được hết những ảnh hưởng của hiện tượng axit hóa đại dương đến các sinh vật biển. Nhưng kết quả nghiên cứu này một lần nữa cho thấy những tác động của con người (phát thải khí CO2) đối với môi trường và những hậu quả không mong muốn. Sự nóng lên của mặt nước biển đã tiếp cận tới tầng bình lưu nhiệt đới, lớp khí quyển cách mặt đất 7 đến 10 dặm và kéo dài khoảng 30 dặm. Quá trình tăng lưu thông không khí và độ ẩm từ các chí tuyến đến tầng bình lưu đang lan rộng, sau đó lại giảm xuống ở những vĩ độ cao hơn. Đây là sự lưu thông cơ bản trong hệ thống khí hậu của chúng ta, gọi là sự lưu thông Brewer-Dobson. Sự nóng lên của toàn cầu đang thay đổi rõ rệt xu thế lưu thông nhưng cách thức ra sao hiện vẫn chưa được làm sáng tỏ hoàn toàn. Trong một nghiên cứu khoa học mới đây, Rudolf Deckert và Martin Dameris thuộc Viện Vật lí học Khí quyển Đức cho biết sự lưu thông cơ bản này đang tăng tốc. Điều này không chỉ thay đổi những phương diện vật chất quan trọng của lưu thông khí quyển mà có thể còn phân phối lại hoặc thay đổi thành phần hoá học của không khí từ tầng bình lưu đến mặt đất.Các nhà khoa học cho biết sự lưu thông Brewer-Dobson sẽ tác động đến khí hậu tương lai với sự thay đổi không những thành phần hóa học và không khí của tầng bình lưu mà của cả bề mặt trái đất. Sự nóng lên của khí hậu Trái đất kéo theo sự gia tăng hiện tượng tan băng và hiện tượng này khiến mực nước biển dâng cao. Nhìn chung, các nhà khoa học cho rằng trong thế kỷ XXI, nhiệt độ trái đất sẽ tăng 2 - 6oC và mực nước biển sẽ dâng cao thêm 50 - 150 cm; như vậy, rất nhiều vùng của nước ta sẽ chìm dưới mực nước biển. Mực nước biển dâng cao không chỉ khiến nhiều khu vực ven biển bị chìm trong nước biển, kéo theo sự xâm nhập mặn vào sâu trong đất liền mà còn nhấn chìm nhiều rạn san hô. Nhiều loài san hô không thích ứng kịp đã bị chết đuối. 4. Quản lý các hệ sinh thái biển và đại dương 1. Công cụ pháp chế Quản lý biển và đại dương là một vấn đề phức tạp vì sự rộng lớn của đại dương. Nhìn chung, quản lý biển và đại dương đòi hỏi sự hợp tác quốc tế. Chính vì vậy, trên bình diện quốc tế đã có nhiều công ước liên quan đến biển và đại dương đã được phê chuẩn. Điển hình trong số đó là Công ước quốc tế về luật biển được thông qua năm 1982 mà Việt Nam là một thành viên. Đây là công ước quan trọng nhất về biển vì nó quy định quyền của các quốc gia với vùng biển bên cạnh. Công ước quy định rõ về lãnh hải, về vùng đặc quyền kinh tế trên biển của các quốc gia ven biển, về trách nhiệm bảo vệ biển của các quốc gia. Công ước quốc tế về luật biển được đưa ra ký năm 1982 và có hiệu lực từ năm 1994 sau khi được 64 quốc gia phê chuẩn. Hiện công ước có 155 quốc gia thành viên. Công ước quy định: Vùng nước nội thủy (là vùng biển phía trong đường cơ sở) có quy chế pháp lý như vùng lãnh thổ trên đất liền. Lãnh hải là vùng biển rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở, có quy chế như lãnh thổ trên đất liền. Trong vùng lãnh hải, tàu thuyền các nước khác được phép đi lại không gây hại. Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải. Trong vùng này, nước ven biển có quyền quy định về các biện pháp ngăn ngừa và trừng trị các hành vi vi phạm luật lệ. Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng này, các nước có quyền chủ quyền đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động kinh tế nhằm khai thác tài nguyên. Ngoài ra, cũng có thể kể ra các công ước quốc tế về cấm săn bắt cá voi, về hàng hải quốc tế… Ở cấp độ quốc gia, Việt Nam cũng đã có các chính sách, các bộ luật, các quy định về bảo vệ biển như luật biên giới quốc gia, bộ luật hàng hải, luật bảo vệ nguồn lợi thủy sản, luật bảo vệ môi trường, chiến lược về biển, các quy định ứng cứu khi xảy ra sự cố tràn dầu... Tuy nhiên, cái khó trong việc triển khai các công ước ở tầm quốc tế là tính ràng buộc về pháp lý yếu, dẫn đến kém hiệu quả trong thực tiễn. Ở cấp độ quốc gia, khó khăn nhất với các nước nghèo như Việt Nam là khả năng tài chính, kỹ thuật yếu kém, dẫn đến khó khăn trong quản lý vùng biển đặc quyền kinh tế cũng như lãnh hải của mình. 2. Các công cụ khoa học, kỹ thuật Biển và đại dương vô cùng rộng lớn và đầy bí ẩn. Con người luôn luôn có tham vọng và thích thú khám phá biển và đại dương. Các hoạt động thám hiểm biển và đại dương liên tục được tiến hành, các nghiên cứu khoa học về các lĩnh vực về biển và đại dương cũng liên tiếp được công bố. Hiểu biết của con người về biển và đại dương nâng lên là tiền đề cho các biện pháp bảo vệ hệ sinh thái biển phù hợp ra đời. Trình độ công nghệ của con người nâng lên cũng góp phần tăng cường các kỹ thuật bảo vệ hệ sinh thái biển. Hiện nay, Việt Nam đã có quy tắc xử lý sự cố tràn dầu trên biển và trên thực tế nhiều vụ tràn dầu trên biển đã được xử lý thành công. Việc UNESCO tổ chức công nhận các khu dự trữ sinh quyển, các di sản thiên nhiên thế giới cũng như các khu bảo tồn thiên nhiên và việc các quốc gia tổ chức các vườn quốc gia tại các khu vực biển và ven biển cũng là những hoạt động bảo vệ các hệ sinh thái biển có quả. Ở Việt Nam có thể kể đến vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên Cát Bà, vườn quốc gia Cát Tiên hay di sản thiên nhiên thế giới Hạ Long. 3. Quản lý các khu hệ sinh thái biển Việc quản lý hệ sinh thái biển và đại dương có thể được xem xét cụ thể với các khu hệ sinh thái biển riêng biệt. Ở đây, chúng tôi xin đề cập đến các khu hệ sinh thái rạn san hô và khu hệ sinh thái cỏ biển. 3.1. Các hệ sinh thái rạn san hô Các rạn san hô thường được coi là các khu hệ sinh thái với sự đa dạng sinh học vào loại cao nhất. Sống xung quanh các rạn san hô còn có nhiều loài cá, tôm và các sinh vật biển đa dạng khác với mật độ cao. Rạn san hô Great Barrier ở Australia đã được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Đây là một khu vực đa dạng về sinh học, bao gồm cả nhiều loài đang lâm nguy và đang gặp nguy hiểm. 30 loài cá voi, cá heo đã được ghi nhận tại rạn san hô Great Barrier, kể cả loài cá voi Dwarf Minke, cá heo Indo-Pacific Humpback, và cá voi Humpback. Một lượng lớn dân số cá nược cũng sinh sống ở đây. Sáu loài rùa biển đã đến rạn san hô để gây giống, như: Green, Leatherback, Hawksbill, Loggerhead, Flatback, và Olive Ridley. Trên 200 loài chim (bao gồm cả 40 loài chim nước) sống trên vùng trời của rạn san hô Great Barrier, kể cả loài đại bàng biển bụng trắng và chim nhạn hồng. 5000 loài động vật thân mềm cũng đã được ghi nhận, có cả loài trai khổng lồ, nhiều loài Nudibranch và ốc sên vỏ hình nón. 17 loài rắn biển. Hơn 1500 loài cá, có cả Clownfish, Red Bass, Red-Throat Emperor, và nhiều loài cá Snapper và cá hồi san hô. 400 loài san hô kể cả san hô cứng và san hô mềm. Có 15 loài cỏ biển ở gần rạn san hô thu hút các nược và rùa biển. 500 loài tảo đại dương hoặc tảo biển. Loài sứa Irukandji cũng sinh sống ở rạn san hô này. Theo báo cáo năm 2002 của Viện tài nguyên thế giới (WRI), 96% rạn san hô ở VN bị đe doạ bởi các hoạt động của con người. Những mối đe doạ chính là đánh bắt huỷ diệt (dùng chất độc, thuốc nổ, xung điện), đánh bắt quá mức, ô nhiễm từ đất liền ...Cũng theo WRI, ước tính VN có khoảng 1.122km2 rạn san hô và khoảng 300 loài san hô. Tuy nhiên, chỉ 1% rạn san hô có thể được phân loại là ở trong tình trạng tốt. Các rạn san hô bị hủy hoại do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ con người. Con người khai thác san hô phục vụ nhu cầu giải trí, san hô chết làm nguyên liệu cho các lò nung vôi, các chất thải hóa học cũng đe dọa nghiêm trọng các rạn san hô, đánh cá bằng mìn cũng phá hủy các rạn san hô. Có thể nói, chưa bao giờ các rạn san hô Việt Nam lại bị đe dọa nghiêm trọng như bây giờ. Tuy vậy, hiện ở Việt Nam vẫn chưa có các hoạt động thật sự hiệu quả nhằm quản lý và bảo vệ các rạn san hô. Hoạt động bảo vệ các rạn san hô diễn ra lẻ tẻ và nói chung ít có hiệu quả. ngày 28/2/2008, tại huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, Chương trình môi trường Liên hợp quốc tổ chức hội thảo "Bảo vệ rạn san hô và cỏ biển”. Đây là hội thảo lần thứ ba với sự tham dự của ban quản lý dự án điểm trình diễn bảo vệ san hô, thảm cỏ biển thuộc hai tỉnh biên giới Kiên Giang - Việt Nam và Campot – Campuchia. Đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang và tỉnh Campot của Campuchia là 2 tỉnh có vùng biển giáp biên được Liên hợp quốc chọn triển khai 2 điểm trình diễn bảo vệ rạn san hô và thảm cỏ biển thuộc dự án “Ngăn ngừa xu hướng suy thoái môi trường biển đông và vịnh Thái Lan”. Qua 2 năm trển khai điểm trình diễn, hai bên đã tiến hành các bước cơ bản như điều tra sự phân bổ rạn san hô và thảm cỏ biển phục vụ cho việc chọn khoanh vùng bảo vệ; thành lập ban quản lý dự án và nhóm tư vấn; tổ chức giáo dục cộng đồng về ý nghĩa của việc bảo vệ san hô và thảm cỏ biển đến lợi ích phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Cũng đã có một số các biện pháp kỹ thuật được thực hiện để nuôi trồng và nhân giống san hô được thực hiện tại các Viện nghiên cứu hải sản. 3.2. Các hệ sinh thái cỏ biển Số loài cỏ biển trên toàn thế giới đến nay đă biết 58 loài. Ở Việt Nam phân tích các mẫu cỏ biển lưu trữ tại Phân Viện Hải dương học Hải Phòng thuộc Viện Khoa học & Công nghệ Việt Nam, thu được trong các cuộc khảo sát ở một số vùng ven biển và đảo (Long Châu, đảo Trần, Bạch Long, quần đảo Trường Sa, Côn Đảo, Phú Quí, Phú Quốc đă xác định được 14 loài cỏ biển, Phân bố số loài cỏ biển của Việt Nam có xu hướng tăng dần từ Bắc vào Nam, ở vùng biển phía Bắc có 8 loài và ở phía Nam có 13 loài. Ở nước ta cỏ biển thường phát triển ở vùng triều ven biển, ven đảo, vùng cửa sông, rừng ngập mặn, đầm phá, vũng, vịnh. Số liệu thống kê mặc dù chưa đầy đủ, diện tích phân bố cỏ biển cho đến nay đă biết khoảng trên 10.000ha. Các loài cỏ biển phát triển hầu như quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa xuân, đầu hè, phát triển kém vào mùa mưa bão. Chúng phân bố từ vùng triều đến độ sâu 3 -15m, thậm chí 28m (đảo Bạch Long Vĩ). Chúng thích nghi với độ muối 0,5-3,4%, chất đáy là bùn bột nhỏ, bùn cát, cát san hô, cát thô hoặc sỏi. Theo thống kê chung của cả nước thì hiện nay diện tích các bãi cỏ biển của Việt Nam bị giảm 40-60%. Nếu như trước 1995 diện tích các băi cỏ biển Việt Nam là 10.770 ha, đến năm 2003 chỉ cňn hơn 4000 ha, nghĩa là mất đi 60%. Diện tích phân bố của các thảm cỏ biển ở Khánh Hòa giảm trên 30% so với 6 năm trước đây, từ 1235 ha (1997) xuống 795 ha (2002), bình quân cứ một năm lại mất 80 ha (Nguyễn Hữu Đại & al, 2002). Nhiều băi cỏ biển ở Vịnh Hạ Long trước năm 1970 phát triển khá tốt với 5 loài cỏ biển, nhưng cho đến nay diện tích một số băi cỏ đă bị suy giảm hoặc bị mất hoàn toàn ( Nguyễn Văn Tiến, Từ Lan Hương,2002, 2003). Trước khi xây cảng phục vụ du lịch ở Gia Luận (Cát Bà) có 4 loài cỏ biển (Halophila ovalis, H. beccarii, H. decipiens và Zostera japonica), sau khi xây dựng cảng, cỏ biển đã chết hoàn toàn. Nguyên nhân gây ra suy thoái, mất cỏ biển có thể nêu tóm tắt như sau: + Yếu tố tự nhiên: Bão, lắng đọng trầm tích, tăng độ đục, giảm độ muối, độc tố, ngọt hoá. + Yếu tố con người: Sử dụng các phương pháp khai thác thuỷ sản hủy diệt (lưới giã đáy, chất nổ, hóa hất độc hại, kích điện v.v.), sử dụng đất hoặc thay đổi cách sử dụng đất ven bờ, phát triển thuỷ sản và nông nghiệp hay đô thị hóa (khai hoang lấn biển, khoanh bao bãi triều để trồng lúa, đắp đầm nuôi trồng thủy sản, xây dựng khu kinh tế mới v.v.). Nước thải từ lục địa đổ ra biển, dư lượng thuốc trừ sâu, kim loại nặng, chất lơ lửng, dầu, chất phě dinh dưỡng gây hại cho cỏ biển. Sự coi nhẹ công tác quản lý HST cỏ biển trong các hoạt động phát triển kinh tế ở dải ven biển là nguyên nhân phá hủy các bãi cỏ biển. Sự thiếu hiểu biết về giá trị của cỏ biển của nhân dân địa phương, các nhà quản lý và hoạch định chính sách được xem là nguyên nhân quan trọng của việc mất các bãi cỏ ở Việt Nam. Cũng như đối với các rạn san hô, các hoạt động bảo vệ cỏ biển ở Việt Nam tỏ ra yếu ớt và thiếu hiệu quả. Nằm trong dự án “Ngăn ngừa suy thoái môi trường biển Đông và Vịnh Thái Lan”, một hợp phần về san hô và một hợp phần về cỏ biển được triển khai song song. Các hợp phần này đã tiến hành các hoạt động nghiên cứu về san hô và cỏ biển, về các nguyên nhân gây suy giảm san hô và cỏ biển và từ đó đề ra các biện pháp khắc phục. Các hợp phần này cũng đã tổ chức các khu vực trình diễn về nuôi trồng san hô và tảo biển. II. Các hệ dòng chảy 1. Giới thiệu chung Sông là dòng nước lưu lượng lớn thường xuyên chảy, có nguồn cung chủ yếu là từ hồ nước, từ các con suối hay từ các con sông nhỏ hơn nơi có độ cao hơn. Các dòng sông hầu hết đều đổ ra biển, nơi tiếp giáp với biển được gọi là cửa sông. Thông thường, sông được chia làm 2 loại là sông chính và sông nhánh (hay nhánh sông). Sông chính là sông có độ dài lớn nhất hoặc có diện tích lưu vực hay lượng nước lớn nhất; sông nhánh là sông chảy vào sông chính. Ở mức độ chi tiết hơn người ta còn phân cấp sông: theo Horton, các sông ở đầu nguồn được đánh số 1. Hai sông cấp 1 nhập lại tạo thành một dòng sông cấp 2. Một sông cấp 1 hợp với sông cấp 2 thì chỉ tạo thành sông cấp 2; nhưng hai sông cấp 2 nhập lại thành một sông cấp ba. Nghĩa là, hai sông phải có cùng cấp thì hợp lại được thành sông có cấp cao hơn một đơn vị. Cứ như vậy đánh số cho đến cửa sông. Đặc điểm quan trọng của sông là chế độ nước chảy, chế độ nhiệt và nồng độ muối khoáng hoà tan. Sông là loại hình nước chảy tiêu biểu nên hàm lượng oxy hoà tan trong nước sông thường cao, ở những đoạn chảy siết, hàm lượng oxy hoà tan có thể lên đến bão hoà, DO phụ thuộc vào nhiệt độ, cường độ quang hợp, hô hấp của các sinh vật. COD của nước sông thường rất thấp, chỉ dao động trong khoảng 2-5 mg/l. pH phụ thuộc nhiều yếu tố như điều kiện tự nhiên, địa hình, tác động của con người. Nhìn chung pH tương đối ổn định, dao động trong khoảng 6-8. Nhịêt độ: phụ thuộc nhiệt độ, không khí, khí hậu…, ít có sự phân tầng về nhiệt độ. - Độ trong: phụ thuộc vào hàm lượng phù sa, độ lớn, nhỏ của sông và các hoạt động của lưu vực. Nhìn chung, hàm lượng các muối dinh dưỡng và vật chất hữu cơ trong nước sông thường nghèo nàn. Hàm lượng TAN (tổng đạm amôn) ít khi vượt quá 0,1ppm. Hàm lượng NO2- ít khi vượt quá 0,02 ppm, có khi chỉ có lượng vết. Do hàm lượng oxy cao nên dạng này dễ bị hoà tan thành dạng đạm nitrat. Hàm lượng NO3- thường gặp trong khoảng 0,1-0,5ppm. Hàm lượng dạng này trong nước sông thường thay đổi theo mùa: - Mùa hạ: thực vật phù du phát triển mạnh, quá trình quang hợp của chúng hấp thu nhiều NO3- làm hàm lượng muối này trong thuỷ vực giảm đáng kể, có khi bằng 0. - Vào mùa thu: hàm lượng muối này tăng lên hẳn và đạt cực đại ở mùa đông, sang mùa xuân bắt đầu giảm xuống. Hàm lượng PO43- dao động trong khoảng 0,03 - 0,1 ppm và cũng dao động theo mùa, vào mùa lũ hàm lượng thường cao do nước mưa mang vào thuỷ vực. Hàm lượng SiO32- dao động trong khoảng 2 - 10 mg/l. Hàm lượng muối sắt hoà tan trong nước sông thường rất thấp vì hàm lượng oxy hoà tan cao, các muối hoà tan của sắt dễ dàng bị oxy hoá thành dạng keo Fe(OH)3 không hoà tan. Tuy nhiên, hàm lượng sắt tổng sẽ cao đối với những vùng chịu ảnh hưởng của đất phèn ( vùng đồng bằng sông Cửu Long). Thành phần trung bình của các ion khác trong nước sông được trình bày trong bảng sau: Bảng 3: Thành phần trung bình của các ion chính trong nước sông ở các lục địa khác nhau: Lục địa Hàm lượng ion ( mg/L) Na+ Ca2+ Mg2+ K+ HCO3- SO42- Cl- NO2- Châu Á 5,6 18,4 9,3 2,3 79,0 8,4 8,7 0,7 Châu Phi 3,8 12,5 11,0 - 43,0 13,5 12,1 0,8 Bắc Mỹ 5,0 21,0 9,0 1,4 68,0 20,0 8,0 1,0 Châu Âu 5,6 31,1 5,5 1,7 95,0 24,0 6,9 3,7 Châu Úc 2,7 3,9 2,9 1,4 31,6 2,0 10,0 0,05 Nhìn chung thành phần hoá học giữa các khúc sông trong một dòng sông không hoàn toàn giống nhau, nó phụ thuộc vào vị trí địa lý của từng khúc sông và nguồn bổ sung. 2. Giới thiệu một số con sông lớn trên thế giới và Việt Nam 1. Sông Nile Đây là con sông dài nhất hành tinh với chiều dài 6.695 km, bắt nguồn từ cao nguyên Ethiopian. Sông Nile có 3 giai đoạn với 3 màu nước khác nhau được gọi là sông Nile trắng, Nile xanh và Nile chính. Nó chảy qua các nước Uganda, Sudan, Ai cập và cuối cùng đổ ra Địa Trung Hải. Sông Nile có vai trò quan trọng đối với cuộc sống con người và lịch sử. Bắt nguồn từ Burundi, một phần sông Nile chảy vào hồ Victoria - hồ nước ngọt lớn nhất châu Phi và thứ nhì thế giới. Sông Nile chính là yếu tố quan trọng được xây dựng ngay giữa lòng sa mạc Sahara - một trong những nơi khắc nghiệt nhất trên trái đất - một nền văn minh cổ xưa nhất: Ai Cập. Những người dân Ai Cập đã xây dựng một đất nước phát triển ngay bên bờ sông Nile từ cách đây 10.000 năm. Diện tích lãnh thổ Việt Nam ( bao gồm cả các đảo ven bờ và ngoài khơi) khoảng 330.000 km2. Mật độ sông suối trung bình của cả nước là 0,6 km/km2, và đối với ¾ lãnh thổ VN là 1,0 - 1,5 km/km2. Việt Nam có 2.345 con sông với chiều dài hơn 10 km mỗi sông. Do địa hình núi cao và chiều ngang tương đối hẹp nên phần lớn sông VN là nhỏ và trung bình. 90% các sông có lưu vực nhỏ hơn 500 km2. Các hệ thống sông lớn nhất như sông Hồng, sông Cửu long, sông Cả và sông Đồng Nai có lưu vực lớn lan rộng cả sang các nước xung quanh. Hướng chính của sông Việt Nam là Tây Bắc – Đông Nam rồi đổ ra Việt Nam trừ hệ thống sông Kỳ Cùng - Bằng Giang ở Đông Bắc Việt Nam là thượng nguồn của các sông chảy vào từ Trung Quốc. Trong suốt chiều dài 3260 km bờ biển, trung bình cứ 20 km lại có một cửa sông. Việt Nam có 9 hệ thống sông lớn với lưu vực lớn hơn 10.000 km2/hệ thống. Đó là các hệ thống sông: Kỳ Cùng – Bằng Giang, Hồng, Thái Bình, Mã, Cả, Thu Bồn, Ba, Đồng Nai – Sài Gòn, Cửu Long. Hàng năm các sông Việt Nam đổ ra biển khoảng 880 m3 nước. Bảng 4: Đặc trưng của các hệ thống sông chính ở Việt Nam HT sông và sông Diện tích lưu vực (km2) Chiều dài sông (km) Độ cao TB của lưu vực (m) Độ dốc TB của lưu vực (%) Lưu lượng TB (m3/s) Lượng nước TB năm (km3) HT sông Kỳ Cùng - Bằng Giang 1.Bằng Giang 2.Kỳ Cùng 4.565 6.663 108 243 482 386 20,1 18,1 73,5 26,9 2,4 0,85 HT sông Thái Bình 1. Cầu 2.Thương 3. Lục Nam 4.Thái Bình 6.030 3.580 3.070 15.520 288 160 175 385 190 186 207 16.0 9,4 16,5 43,7 32,8 38,6 318 4,7 1,76 1,8 38 HT sông Hồng 1.Thao 2.Đà 3.Lô 4.Hồng 51.750 52.610 38.970 154.720 902 1.013 469 1.126 647 965 884 29,9 36,8 19,7 796 1.744 980 3.630 26,4 56,4 32,2 85 HT sông Mã 1.Mã 2.Chu 28.370 7.552 512 325 762 790 17,6 18,3 525 148 16,60 4,72 HT sông Cả 1.Ngàn Sâu 2.Hiếu 3.Cả 3.813 5.330 27.224 135 228 531 362 303 294 28,2 13,0 18,3 124 112 430 4,0 3,82 13,6 HT sông Thu Bồn 10.590 205 552 25,5 444 14,0 HT sông Ba 13.814 388 400 10,9 184 5,8 HT sông Đồng Nai – Sài Gòn 1.Đồng Nai 2.La Ngà 3.Bé 4.Sài Gòn 29.520 4.000 8.200 5.560 586 272 344 256 470 468 240 4,6 5,6 5,3 693 83 240 167 29,7 5,3 10,3 5,2 HT sông Mê Kông 1.Sêsan 2.Srê pôck 3.Cửu Long 17.500 18.280 795.000 4.200 - - 13.974 12,5 10,6 550 2. Sông Hồng Sông Hồng có tổng chiều dài là 1.149km bắt nguồn từ dãy núi Ngụy Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ở độ cao 1.776 m. Chủ yếu nó chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam và đổ ra biển Đông ở cửa Ba Lạt. Đoạn chảy trên đất Việt Nam dài 510 km. Sông Hồng còn có các tên gọi khác như Hồng Hà, sông Cái Nguyên Giang.Sông Hồng có lưu lượng nước bình quân hàng nǎm rất lớn, tới 2.640 m³/s (tại cửa sông) với tổng lượng nước chảy qua tới 83,5 tỷ m³, tuy nhiên lưu lượng nước phân bổ không đều. Về mùa khô lưu lượng giảm chỉ còn khoảng 700 m³/s, nhưng vào cao điểm mùa mưa có thể đạt tới 30.000 m³/s. Sông Hồng góp phần quan trọng trong sinh hoạt đời sống cũng như trong sản xuất. Phù sa giúp cho đồng ruộng thêm màu mỡ, đồng thời bồi đắp và mở rộng vùng châu thổ ở vùng duyên hải thuộc hai tỉnh Thái Bình, Nam Định. Nguồn cá bột của sông Hồng đã cung cấp giống đáng kể cho nghề nuôi cá nước ngọt ở đồng bằng Bắc Bộ. Nguồn thuỷ năng trong lưu vực sông Hồng tương đối dồi dào. Do lượng phù sa lớn mà lòng sông luôn bị lấp đầy khiến cho lũ lụt thường xuyên xảy ra, vì thế mà từ lâu hai bên bờ sông người ta đã đắp lên nhưng con đê to nhỏ để tránh lũ lụt ngăn nước. 3. Sông Mê Kông Sông Mê Kông là một trong những con sông lớn nhất trên thế giới, bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua Lào, Myanma, Thái Lan, Campuchia và đổ ra Biển Đông ở Việt Nam. Tính theo độ dài đứng thứ 12 (thứ 7 tại châu Á), còn tính theo lưu lượng nước đứng thứ 10 trên thế giới (lưu lượng hàng năm đạt khoảng 475 triệu m³). Lưu lượng trung bình 13.200 m³/s, vào mùa nước lũ có thể lên tới 30.000 m³/s. Lưu vực của nó rộng khoảng 795.000 km² (theo số liệu của Ủy ban sông Mê Kông) hoặc hơn 810.000 km² (theo số liệu của Encyclopaedia Britannica 2004). Sông này xuất phát từ vùng núi cao Guozongmucha tỉnh Thanh Hải, băng qua Tây Tạng theo suốt chiều dài tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), qua các nước Myanma, Thái Lan, Lào, Campuchia trước khi vào Việt Nam, cửa sông là đồng bằng sông Cửu Long. Sông Mê Kông có tiềm năng rất lớn về tất cả các mặt của đời sống xã hội cũng như môi trường sinh thái. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (World Wide Fund for Nature hay World Wildlife Fund - WWF) cho biết các nhà khoa học sẽ tìm kiếm các sinh vật như cá úc, cá trê, cá đuối gai độc khổng lồ, cá nhái răng nhọn, cá chép lớn, cá tầm (để làm trứng cá muối) và cá hồi ăn thịt ở sông Mê Kông – các loài cá này có thể nặng tới hơn 90 kg và dài hơn 1,80 mét 3. Chức năng của sông 1. Sông cung cấp thủy sản Các thuỷ vực nước ngọt là nơi cư trú của rất nhiều loài cá, lưỡng cư, động vật không xương sống, thực vật thuỷ sinh, và các vi sinh vật. Ước tính, chỉ riêng sông Amazon đã có 3000 loài cá, chỉ ít hơn 25% tổng số loài thú trên toàn trái đất. Đa dạng sinh học nước ngọt là ít được biết đến nhất trên trái đất. Các nhà khoa học tin rằng, chẳng hạn Thái Lan có thể có khoảng 1000 loài cá nước ngọt, nhưng chỉ khoảng 475 loài được ghi nhận hiện nay. Hệ động thực vật trên sông có thể kể ra: Thực vật thuỷ sinh: rong… Thực vật nổi: tảo… Động vật nổi: giáp xác, ấu trùng côn trùng Động vật đáy: ốc, trai, hến, tôm, ấu trùng côn trùng Động vật nước: tôm, cua. ốc, côn trùng nước, cá… Các sinh vật thường không ổn định và có sự thay đổi theo dòng nước, theo mùa. Một số loài có tập tính di cư vào mùa sinh sản. Sông cũng là con đường du nhập các loài ngoại lai từ nơi này đến nơi khác theo dòng nước. 2. Sông cung cấp nước ngọt Các nền văn hoá của trên thế giới xưa và nay đều tập trung trên các nơi cư trú nước ngọt. Babylon được xây dựng ở vùng châu thổ giữa sông Tigris và Euphrates, Ai Cập bên cạnh sông Nile, thành Rome bên cạnh sông Tiber, thủ đô Aztec trên một hòn đảo nhân tạo trên hồ Tenochtitlan, Pari bên sông Seine, Kinshsa bên sông Zaire. Đối với dân tộc Việt cũng như những dân tộc trưởng thành từ nền văn minh lúa nước, con sông bồi đắp nên nhiều đồng bằng là chiếc nôi để hình thành cộng đồng cư dân có lối sống định cư định canh và các giá trị văn hoá phi vật thể kèm theo. Các sông, hồ, ao, suối, các vùng đất ngập nước trên thế giới đã cung cấp phần lớn nước sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cũng như một số lượng lớn cá và các thuỷ sản khác cho con người trên toàn thế giới. Nước đóng 1 vai trò không thể thiếu cho việc trồng trọt nông nghiệp, đặc biệt là cây lúa, cây trồng n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản lý hệ sinh thái dưới nước.doc