Đề tài Quản lý nhà nước đối với FDI tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007 đến nay

MỤC LỤC

CHƯƠNG 2 1

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC 1

VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 1

TRONG BỐI CẢNH SUY THOÁI KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2007-2009 1

2.1. Quá trình hình thành và phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trước năm 2007 1

2.1.1. Giai đoạn 1987-1990 1

2.1.2. Giai đoạn 1991-1996 2

2.1.3. Giai đoạn 1997-2000 3

2.1.4. Giai đoạn 2001-2006 4

2.2. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế giai đoạn 2007-2009 5

2.2.1. Tổng quan về cuộc suy thoái kinh tế 5

2.2.1.1. Sụp đổ tài chính phố Wall - khởi đầu suy thoái kinh tế toàn cầu 6

2.2.1.2. Khủng hoảng trở thành toàn cầu - lan truyền dư chấn tới các khu vực kinh tế thực và các nền kinh tế trên toàn thế giới 7

2.2.2. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007-2009 10

2.2.2.1. Tình hình cấp phép và thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài 10

2.2.2.2. Phân bổ FDI theo ngành 13

2.2.2.3. Phân bổ FDI theo địa phương 15

2.2.2.4. Phân bổ FDI theo đối tác đầu tư 17

2.2.4.5. Phân bổ FDI theo hình thức đầu tư 20

2.3. Thực trạng quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế giai đoạn 2007-2009 23

2.3.1. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 23

2.3.2. Xây dựng và thực thi hệ thống chính sách, pháp luật 23

2.3.3. Tạo lập môi trường đầu tư cho nhà đầu tư 29

Những nỗ lực của Việt Nam trong việc đảm bảo ổn định về chính trị, đảm bảo tăng trưởng kinh tế; hoàn thiện cơ sở vật chất và đặc biệt là việc hình thành, phát triển nhiều loại thị trường đã làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn, thu hút được các nhà ĐTNN ngay trong thời kỳ kinh tế khó khăn như hiện nay. Tuy nhiên, theo đánh giá của IFC (International Finance Corporation) và WB (World Bank) trong Báo cáo Môi trường kinh doanh 2008, mức độ kinh doanh Việt Nam chưa cao, chỉ xếp thứ 91/178 nước. 31

2.3.4. Tổ chức hoạt động quảng bá và xúc tiến đầu tư 32

2.3.5. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài 33

2.3.6. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài 37

2.3.7. Thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài 39

2.4. Đánh giá chung 41

2.4.1. Thành tựu 41

2.4.2. Hạn chế 44

2.4.3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế 48

2.4.3.1. Nguyên nhân khách quan 48

2.4.3.2. Nguyên nhân chủ quan 49

CHƯƠNG 3 52

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ 52

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRONG BỐI CẢNH SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN CẦU 52

3.1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đến năm 2010 52

3.2.1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam đến năm 2015 52

3.2.2. Định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam đến năm 2015 53

3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh suy thoái kinh tế 55

3.2.1. Giải pháp về xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài 55

3.2.2. Giải pháp về xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài 58

3.2.3. Giải pháp về đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài 63

3.2.4. Giải pháp về đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài 64

3.2.5. Giải pháp về tạo lập môi trường đầu tư 66

3.2.6. Giải pháp về đẩy mạnh quảng bá và xúc tiến đầu tư 68

PHẦN KẾT LUẬN 72

 

 

doc75 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1817 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý nhà nước đối với FDI tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o đảm sự ăn khớp giữa lưu thông hàng hóa, lưu thông tiền tệ vừa tạo vốn cho hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Cuối tháng 12/2009, thị trường chứng khoán đã có các phiên tăng điểm và phục hồi so với đầu năm; chỉ số VN-Index dao động ở mức gần 500 điểm, gấp hơn 2 lần so với mức điểm thấp nhất vào Quý I năm 2009 Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2009, Tổng cục Thống kê/ . Những diễn biến tích cực ấy đã góp phần lấy lại niềm tin cho các nhà ĐTNN. + Thị trường lao động: Quá trình chuyển đổi từ cơ chế “phân công, tiếp nhận” sang cơ chế chế “tuyển chọn” lao động đã tạo tiền đề cho sự ra đời của thị trường lao động phát triển đặc biệt là thị trường lao động phổ thông. Tuy nhiên, thị trường lao động có trình độ cao nhất là thị trường chất xám còn nhỏ bé. Hơn nữa, suy thoái kinh tế còn dẫn đến tình trạng việc làm bị cắt giảm, xáo trộn, thất nghiệp gia tăng. Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, năm 2009, số người bị mất việc làm tại các KCN trong nước đã tăng lên trên 150.000 người. Theo Ban quản lý các KCN, KCX Hà Nội, hơn 400 doanh nghiệp trong các khu vực này đã cắt giảm trên 8.000 lao động (khoảng 10% tổng số lao động). Tại thành phố Hồ Chí Minh, Ban quản lý các KCN, KCX cho biết số lao động được tạo mới việc làm là 244.000, giảm khoảng 7.000 so với năm 2007 PGS.TS Trần Văn Thiện và ThS. Nguyễn Sinh Công, Thị trường lao động Việt Nam trong cơn suy thoái kinh tế toàn cầu/ . + Thị trường công nghệ: Thị trường công nghệ và hoạt động chuyển giao công nghệ có bước phát triển mới, số lượng giao dịch mua bán công nghệ năm 2009 ước tăng 37% so với năm 2008 với tổng giá trị đạt trên 2.000 tỷ đồng Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 12 và cả năm 2009, Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân – Bộ Kế hoạch và Đầu tư/ . Tuy nhiên, thị trường công nghệ Việt Nam hiện chưa thực sự phát triển so với các nước trên thế giới và khu vực như Ấn Độ, Singapore, Trung Quốc. + Thị trường đất đai: Thực tế, một thị trường ngầm mua bán đất vẫn đang tồn tại, giá trị thật và giá trị danh nghĩa của đất đai có khoảng cách rất lớn. Giá trị của đất chuyển vào giá trị sản phẩm của hàng hóa, dịch vụ không phản ánh đúng giá trị thực tế và mang tính áp đặt hành chính không đảm bảo tương đồng về giá trị với các chi phí khác của hàng hóa tiêu dùng trên thị trường. Những nỗ lực của Việt Nam trong việc đảm bảo ổn định về chính trị, đảm bảo tăng trưởng kinh tế; hoàn thiện cơ sở vật chất và đặc biệt là việc hình thành, phát triển nhiều loại thị trường đã làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn, thu hút được các nhà ĐTNN ngay trong thời kỳ kinh tế khó khăn như hiện nay. Tuy nhiên, theo đánh giá của IFC (International Finance Corporation) và WB (World Bank) trong Báo cáo Môi trường kinh doanh 2008, mức độ kinh doanh Việt Nam chưa cao, chỉ xếp thứ 91/178 nước. Báo cáo Môi trường kinh doanh năm 2008/ 2.3.4. Tổ chức hoạt động quảng bá và xúc tiến đầu tư - Ở tầm quốc gia, các hoạt động quảng bá hình ảnh và môi trường đầu tư Việt Nam sang các thị trường đầu tư trọng điểm được đẩy mạnh gắn liền với tiến trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế nhằm thu hút các nhà đầu tư tiềm năng trong các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ phụ trợ và các lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư. Thực hiện Quyết định số 109/2007/QĐ-TTg, ngày 17/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ, về việc ban hành Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007 - 2010; ban hành Danh mục dự án quốc gia kêu gọi FDI giai đoạn 2006 - 2010, song song với quảng bá đầu tư, hoạt động xúc tiến đầu tư cũng được thực hiện đa dạng bằng nhiều hình thức. Cụ thể là: lập danh mục các dự án kêu gọi đầu tư; quảng bá hình ảnh và môi trường đầu tư thông qua các phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức hoạt động semina tại nước ngoài, tham gia hội chợ thương mại và đầu tư quốc tế; phân nhóm các dự án và nhà đầu tư để quảng bá đầu tư; xúc tiến các hoạt động quảng bá đầu tư thông qua chính các doanh nghiệp ĐTNN đang hoạt động tại Việt Nam. Đối tượng xúc tiến đầu tư bao gồm các doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc các nước và vùng lãnh thổ tiềm năng như Mỹ, Nhật Bản, Australia và các nước NICs; các Hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài; các cơ quan, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam… - Cùng với hoạt động quảng bá và xúc tiến đầu tư ở tầm quốc gia, các cấp chính quyền địa phương đã nhanh chóng xây dựng chiến lược thu hút đầu tư. Đầu năm 2008, nhiều chính quyền địa phương các tỉnh đã nhanh chóng xây dựng chiến lược tiếp thị đầu tư ra các quốc gia có tiềm lực mạnh về công nghệ, vốn, kinh nghiệm quản lý của thế giới như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật, các nước châu Âu, châu Mỹ. Đồng thời, cũng tiến hành các hoạt động giao lưu, đối thoại trực tiếp với các doanh nghiệp FDI và nhà ĐTNN, tháo gỡ các vướng mắc cho nhà đầu tư, tạo cơ hội cho họ phát triển sản xuất. Đặc biệt với sự ra đời của Trung tâm xúc tiến đầu tư phía Bắc (IPCN), Trung tâm xúc tiến đầu tư miền Trung (IPCC), Trung tâm đầu tư nước ngoài phía Nam (SFIC) đã khiến cho hoạt động QLNN về xúc tiến đầu tư tại các địa phương được chặt chẽ, thống nhất. Tuy nhiên, hoạt động quảng bá và xúc tiến đầu tư chưa tạo thành hệ thống thống nhất từ trung ương đến địa phương cũng như giữa các địa phương và giữa các KCN. Công tác xúc tiến đầu tư tại địa phương hoạt động một cách không chuyên nghiệp do không có đủ kinh phí do phần lớn tài chính cho hoạt động đầu tư là từ ngân sách của chính địa phương. Năm 2008, thông qua Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia hàng năm, Chính phủ đã dành một khoản ngân sách hạn hẹp cho công tác này, tuy nhiên việc giải ngân còn chậm chạp, thời gian thực hiện bị rút ngắn và thường dồn về cuối năm do Bộ Tài chính chưa ban hành văn bản hướng dẫn. 2.3.5. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài Sơ đồ 1: Mô hình tổ chức bộ máy QLNN về đầu tư trực tiếp nước ngoài - Việc tổ chức bộ máy QLNN về FDI được xây dựng chủ yếu trên cơ sở phân cấp thẩm quyền giữa 3 cấp: Chính phủ; Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ, ngành liên quan và UBND cấp tỉnh. Trong đó, Chính phủ thống nhất QLNN về đầu tư trong phạm vi cả nước; Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về hoạt động đầu tư; các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện QLNN về đầu tư đối với lĩnh vực được phân công; UBND các cấp có trách nhiệm thực hiện QLNN về đầu tư trên địa bàn theo phân cấp của Chính phủ Điều 81 Luật Đầu tư năm 2005, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2006. (Sơ đồ 1). CHÍNH PHỦ Dự án ngoài KCN Dự án Chính phủ Dự án trong KCN Ban quản lý KCN UBND cấp tỉnh Bộ và cơ quan ngang Bộ Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bổ nhiệm Trưởng BQL KCN Ủy quyền Đề nghị bổ nhiệm Trưởng BQL KCN Phối hợp Cụ thể, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có một bộ phận chuyên quản giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng QLNN về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam và đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài là Cục Đầu tư nước ngoài. Các Bộ, ngành Trung ương thường có các Vụ (hoặc Ban) Kế hoạch hay cũng có khi được ghép thêm chức năng khác (Vụ Kế hoạch – Tài chính) thực hiện chức năng QLNN về đầu tư. Tại cấp tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh có nhiệm vụ QLNN về đầu tư trên phạm vi lãnh thổ. Đối với cấp huyện, hầu hết đều ghép Phòng Kế hoạch với một phòng chuyên ngành khác (thông thường là Phòng Tài chính). Còn cấp xã hầu như không có định biên nào cho công tác kế hoạch và đầu tư Những quy định nói trên đã đảm bảo sự quản lý thống nhất đồng thời cũng tạo nên sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan QLNN về FDI: cơ quan quản lý chung và cơ quan quản lý chuyên ngành, cơ quan QLNN ở Trung ương và cơ quan QLNN ở địa phương. Tuy nhiên, việc phân cấp thẩm quyền quản lý trong cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện đang tồn tại một trạng thái trái ngược với xu hướng tổ chức bộ máy của một số quốc gia phát triển trong khu vực. Ở nhiều nước, QLNN về FDI được đặt trực thuộc dưới sự lãnh đạo của người đứng đầu cơ quan hành pháp là Tổng thống hoặc Thủ tướng Chính phủ (Cơ quan Xúc tiến Đầu tư Malaysia - MIDA, Ủy ban Điều phối Đầu tư Indonesia - BKPM, Hội đồng Phát triển kinh tế Singapore - EDB hay Hội đồng Đầu tư Thái Lan - BOI) thể hiện quyết tâm tăng cường quản lý và thu hút nguồn vốn FDI vào quốc gia mình ở mức cao nhất. Tại Việt Nam, từ chỗ có một cơ quan nhà nước chuyên trách về FDI (SCCI và Ủy ban Kế hoạch Nhà nước trước đây) đã chỉ còn một bộ phận chuyên trách về FDI đặt trong cơ cấu tổ chức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Điều này được các nhà ĐTNN nhận định là không thể hiện quyết tâm cao độ trong thu hút FDI khi họ tìm hiểu những cơ hội đầu tư tại Việt Nam. - Quy định về phân cấp mạnh cho UBND cấp tỉnh và Ban quản lý KCN, KCX, KCNC và KKT cấp Giấy chứng nhận đầu tư cũng như quản lý hoạt động đầu tư theo hướng mở rộng quyền cho các địa phương đã góp phần tăng thêm quyền tự chủ cho cơ quan cấp dưới, đơn giản hóa các thủ tục đầu tư, rút ngắn thời gian cấp phép, quản lý tốt hơn hoạt động FDI và có điều kiện xử lý kịp thời các vấn đề nảy sinh. Tuy nhiên, thực tế đã gặp phải nhiều vướng mắc khi có một số địa phương lại tự đề ra những quy định quản lý riêng gây nên tình trạng tùy tiện, không thống nhất trong hệ thống quản lý. Nhiều địa phương cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho dự án dịch vụ sửa chữa, bảo trì (ô tô, xe máy, điện lạnh) nhưng lại giới hạn việc nhập khẩu phụ tùng, linh kiện. Hay trong khi hoạt động cán thép còn đang dư thừa, chính quyền Bình Định vẫn tiếp tục cấp Giấy chứng nhận cho loại dự án này. - Một vấn đề khác nảy sinh đó là sự chồng chéo, bất hợp lý trong phân cấp quản lý giữa các cơ quan nhà nước mà cụ thể là giữa Ban quản lý KCN và UBND cấp tỉnh, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh. Từ khi giải thể Ban quản lý KCN Việt Nam thì trừ Ban quản lý các KCN lớn, các Ban quản lý khác đều được chuyển về trực thuộc UBND cấp tỉnh, nhưng bên cạnh đó lại làm hiện hữu một số vấn đề bất cập: + Thứ nhất, các Ban quản lý KCN được phân cấp thẩm định và cấp Giấy phép đầu tư các dự án có quy mô lớn hơn các dự án mà UBND tỉnh có quyền thẩm định và cấp phép, trong khi đó Ban quản lý KCN lại là cơ quan trực thuộc UBDN tỉnh. + Thứ hai, phần lớn các dự án đều nằm trong KCN và thuộc thẩm quyền quản lý của Ban quản lý KCN. Như vậy dẫn đến tình trạng vì không có thẩm quyền quản lý, Sở Công thương các tỉnh rất ít quan tâm đến tình hình sản xuất, kinh doanh trong các KCN và vì các dự án ngoài KCN rất ít nên Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh cũng không có nhiều dự án để quản lý. + Thứ ba, việc phân cấp được tiến hành đồng đều trên cả 63 tỉnh, thành phố trong khi không phải chính quyền địa phương nào cũng có đủ năng lực cần thiết để thẩm định các dự án nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia, địa phương và nhà ĐTNN. Cần phải vạch ra lộ trình phân cấp cho đến khi địa phương có đủ năng lực tiếp nhận phân cấp và điều hành vĩ mô hoạt động quản lý FDI. Tóm lại, có thể thấy, cho dù cơ chế phân cấp và hệ thống tổ chức bộ máy QLNN về FDI đã có những thay đổi đáng kể phù hợp với chức năng, thẩm quyền của mỗi cơ quan trong bộ máy quản lý. Song hiện còn quá nhiều các cơ quan thực hiện chức năng QLNN về FDI, trong khi đó việc phân định chức năng QLNN cho từng cơ quan lại chưa rõ ràng, sự phối hợp hoạt động không chặt chẽ dẫn đến tình trạng chồng chéo, giảm thiểu hiệu lực của bộ máy quản lý. 2.3.6. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về FDI đã phát triển cả về số lượng và chất lượng nên cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu QLNN trong lĩnh vực này, thể hiện với các kết quả cụ thể sau đây: - Đã tiến hành rà soát, đánh giá lại hệ thống các chức danh, tiêu chuẩn cán bộ, công chức theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (có hiệu lực năm 2010); và ban hành mới một số chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức. Cho đến nay đã có khoảng hơn 200 chức danh tiêu chuẩn đang được sử dụng. Đồng thời cũng tiến hành phân cấp quản lý biên chế hành chính và thực hiện chế độ hợp đồng để tạo sự chủ động tuyển chọn, thay đổi cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức. - Sắp xếp, tinh giản biên chế, tiến hành phân loại, thay đổi cơ cấu cán bộ, công chức đảm bảo số lượng hợp lý và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức theo tinh thần của Nghị quyết số 16/2000/NQ-CP ngày 18/10/2000 của Chính phủ về việc tinh giản biên chế trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Đồng thời, tiến hành cải cách tiền lương, tạo động lực cho cán bộ, công chức nâng cao trách nhiệm công vụ. - Đổi mới công tác tuyển dụng cán bộ, công chức từ phương thức xét tuyển sang phương thức thi tuyển để chọn lựa những người thực sự có trình độ và năng lực vào làm việc trong cơ quan nhà nước, trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức. Hơn nữa, còn chú trọng xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức ở các vùng sâu, vùng xa, tiến hành công chức hóa từng bước đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở. - Nội dung, chương trình, hình thức, thời gian đào tạo, bồi dưỡng công chức đã bước đầu được đổi mới theo hướng phù hợp với các đối tượng đào tạo, bồi dưỡng. Cụ thể có các chương trình đào tạo, bồi dưỡng QLNN cho chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp; chương trình đào tạo tiền công vụ; chương trình bồi dưỡng Chủ tịch UBND xã. Song song với quá trình này là sự đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên tham gia giảng dạy. - Công tác quản lý cán bộ, công chức tiếp tục được cải cách theo hướng rõ hơn về phân công và phân cấp. Đã có sự phân định rõ về trách nhiệm, thẩm quyền quản lý đội ngũ cán bộ, công chức hành chính của Chính phủ, các Bộ đặc biệt là Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng chính quyền địa phương các cấp. Thẩm quyền và trách nhiệm trong bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức cũng được xác định rõ cho người đứng đầu cơ quan nhà nước và thủ trưởng các đơn vị trực thuộc, đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công. Đặc biệt, công tác đánh giá cán bộ, công chức được thực hiện thường kỳ và sâu sát tại các đơn vị. Nhưng so với yêu cầu của công cuộc phục hồi nền kinh tế sau suy thoái, công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức hiện còn nhiều hạn chế đặc biệt là với bộ phận cán bộ, công chức QLNN về FDI: - Yếu kém lớn nhất là chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu QLNN trong cơ chế và tình hình kinh tế mới. Bằng cấp, chứng chỉ tăng nhưng năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất chính trị của cán bộ, công chức vẫn còn là vấn đề đáng lo ngại. Đội ngũ QLNN về FDI còn ít, hầu như không được đào tạo chính quy những kiến thức QLNN về kinh tế. Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng còn chưa đầy đủ, đến nay mới chỉ có Học viện Hành chính và Đại học Kinh tế quốc dân có chương trình đào tạo chuyên ngành QLNN về kinh tế. - Chưa có sự tập trung, kiên quyết của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong cải cách, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức trên phạm vi cả nước. Điều này dẫn đến những giải pháp mang tính đổi mới, theo hướng hiện đại hóa công tác quản lý cán bộ, công chức (như phân cấp, tăng cường trách nhiệm và thẩm quyền người đứng đầu cơ quan, đơn vị; xây dựng hệ thống thông tin quản lý..v.v..) chậm được triển khai. Các phương pháp khoa học trong đánh giá kết quả công tác của từng cán bộ, công chức chậm áp dụng để thay thế phương pháp đánh giá dựa vào tập thể là chủ yếu. - Chính sách tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội còn nhiều vấn đề chưa thỏa đáng, đời sống công chức còn gặp nhiều khó khăn. Lộ trình cải cách chính sách tiền lương chậm, không phát huy được vai trò trong việc nâng cao mức sống của cán bộ, công chức đặc biệt trong thời kỳ suy thoái kinh tế, giá cả leo thang như hiện nay. Như vậy, hoạt động xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về FDI đã cơ bản được thực hiện lồng ghép theo Kế hoạch Cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2006 - 2010 (Ban hành kèm theo Quyết định số 94/2006/QĐ-TTg ngày 27/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ) đã thu được một số kết quả khả quan. Tuy nhiên, những tồn tại còn hiện hữu đã trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng tham nhũng, những biểu hiện tiêu cực trong phong cách và thái độ làm việc của cán bộ, công chức nhất là cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan gần với doanh nghiệp như cơ quan QLNN về FDI. 2.3.7. Thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài Theo quy định của Luật Thanh tra 2004 và Nghị định số 148/2005/NĐ-CP ngày 30/11/2005 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Kế hoạch và Đầu tư thì hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về FDI thuộc thẩm quyền chủ yếu của Thanh tra Kế hoạch và Đầu tư - là cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực phù hợp với thẩm quyền được giao. Theo đó, ở Bộ Kế hoạch và Đầu tư có Thanh tra thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Thanh tra Bộ); ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Thanh tra thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư (Thanh tra Sở). Các cơ quan này thực hiện chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong phạm vi QLNN về kế hoạch và đầu tư theo quy định của pháp luật. Trong những năm gần đây, Thanh tra Kế hoạch và Đầu tư đã có sự phối hợp mang tính chất liên ngành với các cơ quan nhà nước như Bộ Công an, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công thương… và chính quyền địa phương các cấp để thực hiện tốt công tác QLNN về FDI trên cả nước. Đặc biệt, từ sau vụ việc Công ty Vedan Việt Nam cố tình đấu nối hệ thống đường ống thoát nước để xả nước thải chưa qua xử lý ra sông Thị Vải thì công tác giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm trong hoạt động của các doanh nghiệp FDI được thực hiện ngày càng chặt chẽ hơn. Trong tháng 4/2010, cùng với sự tham gia của nhiều cơ quan chuyên ngành trong đó có Cục Cảnh sát Môi trường, Bộ Tài nguyên Môi trường, Thanh tra Kế hoạch và Đầu tư đã phát hiện và đang tiến hành xem xét xử lý vi phạm với Công ty Tung Kuang (doanh nghiệp 100% vốn Đài Loan) về vụ việc tương tự như với Công ty Vedan là xả chất thải chưa qua xử lý ra sông Cầu Ghẽ (Cẩm Giàng – Hải Dương) gây ô nhiễm môi trường nơi đây. Tuy nhiên, trên thực tế, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động FDI còn nhiều hạn chế. Như việc có quá nhiều cơ quan tham gia vào quá trình thanh tra, kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp FDI (tiêu biểu như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Công thương, UBND tỉnh nơi có dự án…) đã gây nên những trở ngại và phiền hà cho chính các doanh nghiệp này khi trở thành đối tượng thanh tra của cơ quan nhà nước. Thêm vào đó, số doanh nghiệp phải thanh tra và số lượt thanh tra trong năm ngày càng trở nên quá nhiều: kiểm tra dưới 3 lần/năm có 18 doanh nghiệp, từ 3 - 5 lần/năm có 9 doanh nghiệp, từ 6 - 8 lần/năm có 3 doanh nghiệp và từ 8 lần/năm trở lên có 2 doanh nghiệp Ngô Văn Hiền, QLNN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ quản lý hành chính công, Hà Nội, 2009. . Hơn nữa, thực tế cũng cho thấy không phải lúc nào cơ quan thanh tra và các thanh tra viên cũng thực hiện đúng chức năng, thẩm quyền và đạo đức nghề nghiệp cần có khi thực thi công vụ. Từ đó đã gây nên không ít những biểu hiện trái pháp luật và hiện tượng sách nhiễu đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp FDI, làm giảm sự hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam. 2.4. Đánh giá chung 2.4.1. Thành tựu Hoạt động của khu vực kinh tế FDI ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất, thể hiện qua những tác động tích cực dưới đây: - Bổ sung vốn đầu tư xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: FDI đã đóng góp quan trọng vào nền kinh tế, nâng cao tỷ trọng GDP của Việt Nam qua các năm (Biểu đồ 2). Vốn FDI đã tạo ra nhân tố phá vỡ vòng luẩn quẩn của một nền kinh tế kém phát triển do thiếu vốn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 3 năm, từ năm 2007 đến 2009 lần lượt là: 8,44%, 6,23%, 5,32%. Trong bối cảnh nhiều nền kinh tế suy thoái, có những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng âm mà kinh tế nước ta đạt tốc độ tăng trưởng dương tương đối cao như trên là một thành công lớn. Đặc biệt tốc độ tăng trưởng kinh tế của năm 2009 còn vượt mục tiêu so với định mức 5% của kế hoạch. Báo cáo Tình hình kinh tế xã hội năm 2009, Tổng cục Thống kê/ - Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Đối với cơ cấu ngành, cùng với sự gia tăng GDP ở tất cả các nhóm ngành kinh tế, thì tốc độ tăng trưởng trong công nghiệp và dịch vụ luôn nhanh hơn. Tỷ trọng tăng GDP trong công nghiệp và xây dựng năm 2009 là 5,52%, dịch vụ: 6,63%, nông nghiệp chỉ chiếm 1,83%. Đối với cơ cấu vùng, nếu như những năm đầu mở cửa, FDI tập trung chủ yếu ở các tỉnh phía Nam thì những năm gần đây đã phân bố khá đều giữa 3 miền Bắc, Trung, Nam nâng cao năng lực sản xuất của một số ngành, khai thác triệt để lợi thế so sánh của các vùng. Gần đây, với việc đầu tư mạnh FDI vào vùng nông thôn đã góp phần phát triển kinh tế ở những địa phương nghèo, chậm phát triển như Điện Biên, Lai Châu, Đắc Nông. - Thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh toán: Tăng trưởng xuất khẩu của khu vực FDI đã góp phần vào tăng trưởng xuất khẩu chung của cả nước, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 56,6 tỷ USD vào năm 2009 Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam: . Đồng thời, việc mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp từ hoạt động FDI đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán đặc biệt có tác động tích cực đến cán cân thương mại và cán cân vốn của cả nước. - Góp phần chuyển giao khoa học công nghệ: Thông qua FDI, Việt Nam đã tiếp nhận nhiều dây truyền công nghệ hiện đại có vai trò với những ngành kinh tế mũi nhọn như: viễn thông, khai thác dầu khí, hóa chất, điện tử, lọc hóa dầu. Những kỹ thuật mới trong công nghiệp gas, công nghiệp nhẹ, nông nghiệp và xử lý môi trường đã tạo nên sự nhảy vọt về năng suất lao động. Bên cạnh đó, FDI còn đem lại những mô hình quản lý tiên tiến, phương thức kinh doanh hiện đại trong nhiều ngành kinh tế, khuyến khích các nhà sản xuất trong nước không ngừng cải tiến kỹ thuật công nghệ, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI. - Góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế: Hoạt động FDI đã thể hiện sự phân công lao động quốc tế, sự hợp tác với các nước, các tổ chức, cá nhân nước ngoài theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế và chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Hoạt động này đã giúp Việt Nam trở thành thành viên chính thức của APEC, ASEM, WTO; tham gia ký kết các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư… Với sự ủng hộ của các nhà ĐTNN, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng cải thiện. - Giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng lao động: FDI đã góp phần tạo nên một thị trường lao động sôi động với đầy đủ yếu tố cung, cầu và cạnh tranh thu hút số lượng lớn lao động trực tiếp và gián tiếp vào doanh nghiệp có vốn FDI. Đến tháng 8/2008 đã có gần 1,5 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp làm việc trong các doanh nghiệp này, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động. Đây là sự nỗ lực của các cơ quan QLNN về FDI từ Trung ương đến địa phương trong quản lý toàn diện về mọi mặt phù hợp với cam kết quốc tế và giảm thiểu các khó khăn, vướng mắc cho nhà ĐTNN. Qua đó, những thành tựu nổi bật trong QLNN về FDI được thể hiện trên những mặt cụ thể sau: (1) Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và hệ thống chính sách, pháp luật: Việc xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006-2010, Luật Đầu tư 2005 cùng với các chiến lược, chính sách và văn bản pháp luật khác đã tạo nên những phương hướng, khung pháp lý cơ bản nhằm điều chỉnh hoạt động FDI. Hệ thống thể chế QLNN về FDI của Việt Nam ngày một hoàn chỉnh nhất là những chính sách, pháp luật có liên quan đến quá trình tự do hóa thương mại, lành mạnh hóa các quan hệ tài chính, tiền tệ, tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường vốn và thị trường lao động đã tạo nên những bước phát triển phù hợp với thông lệ quốc tế, có sự điều chỉnh kịp thời trước tình hình suy thoái kinh tế hiện nay. (2) Tạo lập môi trường, quảng bá và xúc tiến đầu tư: Nhà nước đã có những cố gắng tích cực nhằm chủ động tổ chức, triển khai, hình thành môi trường đầu tư hấp dẫn theo hướng hỗ trợ và ưu đãi về nhiều mặt đặc biệt là về TTHC, giải phóng mặt bằng và phát triển các dịch vụ hạ tầng. Hoạt động quảng bá và xúc tiến đầu tư được thực hiện đa dạng bằng nhiều hình thức, tổ chức ở nhiều nơi với sự tham gia của các cấp chính quyền từ Trung ương tới địa phương đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư trên thế giới. (3) Tổ chức bộ máy QLNN: Mô hình tổ chức bộ máy QLNN về FDI cơ bản đã đảm bảo sự thống nhất đồng thời cũng tạo nên sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước. Việc phân cấp thẩm quyền quản lý hoạt động FDI cho một số địa phương và Ban quản lý KCN theo hướng mở rộng quyền cho các địa phương đã đạt được những thành công đáng kể. Chủ trương này đã góp phần đơn giản hóa các thủ tục đầu tư, rút ngắn thời gian cấp phép, quản lý tốt hơn hoạt động của doanh nghiệp FDI và có điều kiện xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh. (4) Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQLNN đối với FDI tại Việt Nam trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2007 đến nay.doc
Tài liệu liên quan