Lời mở đầu 2
Chương I 3
Quản lý Nhà nước về sở hữu trí tuệ nhãn hiệu hàng hóa 3
1/ Lịch sử hình thành và phát triển nhãn hiệu hàng hóa 3
1.1/ Trên thế giới 3
1.2/ Ở Việt Nam 8
2/ Quản lý Nhà nước sở hữu trí tuệ nhãn hiệu hàng hóa 13
2.1/ SHTT nhãn hiệu hàng hóa 13
2.2/ Quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam 15
Chương II 15
Thực trạng quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa trong giai đoạn 2005-2007 15
1/ Thực trạng về SHTT nhãn hiệu hàng hóa 15
1.1/ Thực trạng chung 15
1.2/ Tại địa bàn Hà Nội 17
1.3/ Đánh giá, kết luận 20
2/ Thực trạng quản lý nhà nước đối với SHTT nhãn hiệu trong Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam giai đoạn 2005-2007 tại địa bàn Hà Nội 21
2.1/ Hệ thống các văn bản Luật và dưới luật liên quan đến quản lý SHTT nhãn hiệu hàng hóa 21
2.1.1/ Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam ban hành năm 2005 21
2.1.2/ Một số nghị định, thông tư liên quan đến SHTT nhãn hiệu 25
2.1.3/ Một số hiệp ước quốc tế liên quan đến SHTT nhãn hiệu hàng hóa 29
2.1.3.1/ Hiệp ước marid 29
2.1.3.2/ Hiệp ước nhãn hiệu 30
2.1.3.3/ Hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ 31
2.2/ Quy trình xét duyệt và cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa 31
2.2.1/ Quy trinh xét duyệt truyền thống 31
2.2.2/ Hệ thống quản trị sở hữu công nghiệp-IPAS 37
2.2.3/ Hệ thống nộp đơn điện tử phi trực tuyến 39
2.3/ Hệ thống quản lý thông tin về nhãn hiệu hàng hóa 42
2.4/ Hoạt động thanh tra, kiểm tra của Cục 44
46 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1594 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý Nhà nước đối với sở hữu trí tuệ nhãn hiệu hàng hóa của Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam tại địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h biểu diễn của các nghệ sĩ biểu diễn, các bản ghi âm và chương trình phát thanh, truyền hình
(3) Sáng chế và giải pháp hữu ích trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người
(4) Các phát minh khoa học
(5) Kiều dáng công nghiệp;
(6) Nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ dẫn thương mại và tên thương mại
(7) Bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh
Kể từ khi thông qua công ước này, quyền sở hữu trí tuệ còn được mở rộng thêm, bao gồm đối với giống cây trồng, mạch dẫn tích hợp bán dẫn, bí mật thương mại và thông tin bí mật và thể hiện nghệ thuật truyền thống dân gian. Một danh mục đầy đủ hơn về các quyền sở hữu trí tuệ được liệt kê trong phần II của hiệp định TRIPS với danh nghĩa là các đối tượng của hiệp định nay, cụ thể là quyền tác giả và quyền liên quan, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn và thông tin bí mật
Sở hữu trí tuệ được chia thành hai nhánh: Sở hữu công nghiệp và quyền tác giả và quyền liên quan đến tác giả.
Tuy nhiên đứng trên góc độ người nghiên cứu xin mạnh dạn đưa ra một số ý hiểu về lĩnh vực SHTT:
Sở hữu: là thuật ngữ dùng để chỉ quyền của mỗi người đối với tài sản mà người đó hay còn gọi là quyền sở hữu. Quyền sở hữu bao gồm ba quyền năng: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tài sản tương ứng.
Tài sản: là đối tượng của sở hữu, bao gồm: tài sản vật chất và tài sản trí tuệ.
Tài sản vật chất: bao gồm vật có thực, tiền, các giấy tờ trị giá bằng tiền và các quyền về tài sản; chúng được chia thành bất động sản (đất đai, nhà ở, công trình xây dựng...) và động sản (những tài sản không phải là bất động sản: đồ dùng cá nhân, các phương tiện đi lại, trang thiết bị gia đình....).
Tài sản trí tuệ: là sản phẩm do trí tuệ con người tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo, bao gồm các tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật (tiểu thuyết thơ ca, các tác phẩm điêu khắc, hội họa...) và các thành quả sáng tạo khoa học kỹ thuật (sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp....).
Sở hữu trí tuệ: là khái niệm dùng để chỉ quyền của chủ thể đối với tài sản trí tuệ tương ứng. Sở hữu trí tuệ được chia thành hai lĩnh vực chủ yếu bao gồm sở hữu công nghiệp và bản quyền.
b/ SHTT nhãn hiệu hàng hóa
Từ khái quát về SHTT ở phần trên ta có thể hiểu một cách khái quát về sở hữu trí tuệ nhãn hiệu hàng hóa : Nhãn hiệu hàng hóa một mặt là sản phẩm trí tuệ và sáng tạo của cá nhân , tập thể để phân biệt hàng hóa của mình với các doanh nghiệp khác vì vậy các cá nhân, tập thể đó có quyền sở hữu nó và được quyền yêu cầu bảo hộ nó vì nó là sản phẩm phải tốn chất xám, công sức và vật chất để tạo ra, mặt khác nó là cơ sở để các cơ quan chức năng dám sát hoạt động kinh doanh và tuân thủ theo pháp luật của các doanh nghiệp trên thị trường. Vì vậy đứng trên cả hai khía cạnh kinh doanh và quản lý thì SHTT nhãn hiệu hàng hóa là bộ phận quan trọng không thể không hiểu và áp dụng một cách chính xác và thống nhất. Tuy nhiên ở Việt Nam, hiểu rõ và hiểu chính xác về nó không phải nhiều doanh nghiệp thậm chí cơ quan quản lý nhà nước làm được. SHTT nhãn hiệu hàng hóa trước đây chỉ áp dụng với các sản phẩm là hàng hóa nhưng ngày nay nó đã được mở rộng ra cả dịch vụ.
2.2/ Quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam
Quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa là một trong các hoạt động để quản lý kinh tế cũng như thực hiện các chính sách giám sát, thực thi pháp luật trong lĩnh vực này. Năm 2005, luật SHTT ra đời là một bước tiến lớn và là cơ sở để các cơ quan quản lý trong lĩnh vực SHTT thực hiện tốt hơn hoạt động quản lý nhãn hiệu trên thị trường. Thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa có một số cơ quan chủ yếu là :Cơ quan quản lý sở hữu công nghiệp ( Cục SHTT Việt Nam); Các cơ quan quản lý thị trường; Cơ quan Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng; Bộ Văn hóa – Thông tin – Thể thao và du lịch; Ủy ban nhân dân các cấp; Cơ quan công an và các cơ quan hành pháp khác ( Cục hải quan )
Chương II
Thực trạng quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa trong giai đoạn 2005-2007
1/ Thực trạng về SHTT nhãn hiệu hàng hóa
1.1/ Thực trạng chung
Việc sản xuất hàng giả, hàng nhái đã trở thành một ngành công nghiệp có qui mô lớn nằm rải rác khắp nơi. Có thể tìm thấy dễ dàng trên đường Nguyễn Trãi hay Nguyễn Đình Chiểu (TP.HCM) những áo thun từ xuất xứ trong nước đến Hong Kong, TQ, Thái Lan, Indonesia, Ý... với số lượng lớn, có giá thượng vàng hạ cám từ 60.000-300.000 đồng/chiếc, gồm các nhãn hiệu CK, Dolce & Gabbana hay Chanel, Versace... nổi tiếng. Ngay đồ chơi trẻ em, công nghiệp sản xuất hàng nhái, hàng giả tại TQ và Đông Nam Á đã chiếm tỉ lệ 80% trên thị trường thế giới, thu về hằng năm trên 4 tỉ đôla chứ không còn là hàng thủ công như xưa kia.
Trong lĩnh vực sản xuất xe máy: Honda bị vi phạm quyền SHCN nhiều nhất vì đây là thương hiệu mạnh. Không chỉ một số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong nước mà một số liên doanh nước ngoài cũng làm nhái kiểu dáng, phụ tùng của Honda. Cứ mỗi khi có một dòng xe mới ra đời, không bao lâu sau trên thị trường đã xuất hiện những chiếc xe "hệt 100%", chỉ khác tên gọi. Dòng xe Best của Suzuki, Jupiter của Yamaha được làm nhái khá nhiều.Giá một chiếc Honda giả, nhái có từ 5,2-12 triệu không kể cả giá cao ngất trời của một chiếc Dylan hay SH chính gốc Nhật là 7.000-8.000 đôla (tương đương giá một chiếc ôtô mới cỡ nhỏ ở Mỹ), trong khi hàng giả của TQ chào bán 30 triệu đồng (tương đương 1.600-1.700 đôla. Từ sản phẩm công nghiệp nhẹ đến cơ khí như máy phay - bào - tiện, thổi nhựa, khuôn mẫu cho ngành bao bì, thực phẩm, in ấn, đúc... đều có tương tự các nhãn hiệu thế giới tại thị trường trung gian ở Hong Kong, Đài Loan hay các nước dung dưỡng và tiêu thụ hàng nhái ở khắp nơi.
Danh sách hàng hiệu bị làm giả, nhái nhiều nhất là giày thể thao, túi xách phụ nữ, quần áo, đồng hồ, dụng cụ gia đình bằng điện (tủ lạnh, TV, video...), phần mềm máy tính, phim ảnh, đĩa DVD, VCD, thuốc lá, mỹ phẩm, đồ chơi trẻ em, nữ trang, thuốc chữa bệnh... (theo vietbao.vn :
Mỗi năm Cục Quản lý thị trường phát hiện và xử lý khoảng 5.000 vụ sản xuất và tiêu thụ hàng giả, trong đó hình thức "mượn" nhãn hiệu có tên tuổi chiếm phần lớn. Theo phản ánh của một số công ty sản xuất xe máy thì nhiều hộ kinh doanh đã bước đầu nhận thức được hành vi vi phạm quyền SHCN và hậu quả pháp lý của nó. Nhiều hộ đã yêu cầu các nhà sản xuất, lắp ráp xe máy trong nước phải cam kết sản phẩm của mình không vi phạm quyền SHCN
Trong lĩnh vực dược phẩm, theo Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), mỗi năm Việt Nam có khoảng 80 bằng độc quyền được cấp liên quan đến dược phẩm. Tuy nhiên, đó hầu hết là các loại dược phẩm nước ngoài, trong khi doanh nghiệp dược trong nước cũng như cơ quan quản lý chưa thích ứng kịp với các quy định liên quan đến vấn đề này. Điều này đồng nghĩa với việc các sản phẩm dược nội địa đã và đang đứng ở một vị trí bất lợi mà nó có thể gây ra thiệt hại rất lớn khi tranh chấp sở hữu trí tuệ xảy ra.
Trong lĩnh vực phần mềm Việt Nam vẫn đang đứng trên top-5 thế giới về tỉ lệ phần mềm lậu (88%) năm 2006. Không chỉ phần mềm lậu, Việt Nam vốn nổi tiếng là “thiên đường” của các sản phẩm sở hữu trí tuệ lậu, nhất là phim ảnh, âm nhạc, sách tiếng Anh, và games. Trong khi đó, chúng ta đã ký công ước Berne và nó có hiệu lực từ ngày 26 tháng 10 năm 2004
1.2/ Tại địa bàn Hà Nội
Không ít doanh nghiệp vẫn thờ ơ, thậm chí thiếu hiểu biết về bảo hộ sở hữu công nghiệp hay lợi ích thực sự của việc làm này. Trong khi đó, pháp luật về sở hữu trí tuệ của VN chưa hoàn chỉnh, còn nhiều kẽ hở. Đây là một thực tế khiến tình trạng vi phạm diễn ra ngày càng nghiêm trọng và phức tạp.
Theo thống kê, mỗi năm Cục Quản lý thị trường phát hiện và xử lý khoảng 5.000 vụ sản xuất và tiêu thụ hàng giả, trong đó hình thức "mượn" nhãn hiệu có tên tuổi chiếm phần lớn. Thực trạng này đang gây thiệt hại rất lớn cho các doanh nghiệp cả về uy tín và doanh thu. Theo ông Trịnh Sỹ, Phó Giám đốc Công ty Bánh kẹo Tràng An, do sự gia tăng của các sản phẩm bánh kẹo giả, doanh thu của công ty năm nay đã giảm 30% so với năm ngoái. Tương tự như vậy, các sản phẩm bánh kẹo giả mạo sản phẩm của Công ty Hải Hà đã làm giảm 40% sản lượng của công ty so với trước đây. Những đối tượng vi phạm ngày càng có nhiều hành vi tinh vi hơn. Thậm chí, hành vi của nhiều đối tượng còn có một lực lượng hậu thuẫn giúp việc "tư vấn" để lách luật
Trên thực tế là nhiều doanh nghiệp không thể lường trước được việc nhãn hiệu hàng hóa uy tín của mình đã có người khác nhanh chân đăng ký bảo hộ "giúp" một cách hợp pháp. Thậm chí nhiều sản phẩm hàng hóa giả và nhái nhãn mác của họ đã được sản xuất và tung ra thị trường với số lượng lớn gây sự nhầm lẫn khó phân biệt cho người tiêu dùng. Nhiều doanh nghiệp phải làm lại từ đầu, bằng cách xây dựng một nhãn hiệu mới, điều này đồng nghĩa với việc họ tự đánh mất mình. "Trước thực tế trên, nhiều doanh nghiệp nhằm tránh những "vết xe đổ" đi trước, vội vàng làm thủ tục đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp cho cả những sản phẩm/dịch vụ chưa thực sự chiếm lĩnh được thị trường.
Tại địa bàn Hà Nội, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2007 khi Cục quản lý thị trường tiến hành khảo sát đã có HN có 19 tụ điểm nghi vấn có hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả, đã lập danh sách 178 đầu mối sản xuất nghi có sản xuất hàng giả, kém chất lượng. Trong đó, có 33 cơ sở lương thực, thực phẩm, 128 cơ sở hàng tiêu dùng, 7 cơ sở vật liệu xây dựng, 20 cơ sở thuốc bảo vệ thực vật và thức ăn chăn nuôi. Bên cạnh đó, còn có 171 điểm giáp ranh mà lực lượng QLTT khó kiểm soát (13 khu vực giáp ranh với các tỉnh bạn, 55 khu vực giữa các quận, huyện, 103 khu vực giữa các phường, xã). Ngoài ra, với 631 chợ, 73 bến ôtô, 7 ga xe lửa, 4 khu vực triển lãm và 603 tụ điểm về hình sự... là những nơi hoạt động thương mại phức tạp. Có thể nói, hàng hoá Trung Quốc nhập vào TP đã tác động lớn tới thị trường HN và đây là nguồn chính của hàng giả mạo nhãn hiệu, xuất xứ. Qua 860 vụ vi phạm trong 6 tháng đầu năm 2007, có tới 415 vụ hàng giả, kinh doanh trái phép và vi phạm quy chế hàng hoá. Nổi lên một số thủ đoạn giả mạo và vi phạm nhãn hiệu hàng hoá như sau: Thị trường hàng giả đã "nội địa hoá" bằng phương thức nhập linh kiện, bán thành phẩm vào VN qua các làng nghề chế tác, gia công, gắn bao bì nhãn mác mới thành các sản phẩm "made in" Thái Lan và Nhật Bản như giày da các loại, kính mắt, bánh kẹo, tất chân...
Một số DN, đơn vị VN đặt hàng Trung Quốc sản xuất giống y hàng hiệu đã được thị trường chấp nhận như: Thiết bị vệ sinh (hiệu Joden, Clever), bếp ga Rinnai, Paloma, hoá mỹ phẩm (Gucci, Chanel...), máy nghe nhạc MP3, MP4. Hàng hoá này được đưa ra thị trường, bày bán công khai tại các khu phố thương mại với số lượng lớn.
Cũng trong thời gian này, cơ quan QLTT HN đã phát hiện thêm thủ đoạn mới của một số đối tượng như: Mở cửa hàng lấy tên thương hiệu nổi tiếng sau đó lừa bán cả cửa hàng và hàng hoá cho người khác (tập trung chính vào mặt hàng hoá mỹ phẩm). Một số đơn vị, cá nhân đăng ký tên thương mại trùng với tên nhãn hiệu đã được bảo hộ hàng hoá nổi tiếng để lừa dối người tiêu dùng như Cty TNHH cáp điện Trần Phú đặt Cty Thiên Phú sản xuất dây điện mang tên "Trần Phú" của Cty cơ điện Trần Phú đã bị CP15 và QLTT tịch thu tiêu huỷ 328 cuộn dây.
Trong lĩnh vực kỹ thuật số hàng giả đã đến mức báo động không chỉ đồng hồ, máy ảnh mà các loại linh kiện, cạc, sim, bộ nhớ, USB, màn hình LCD... giả mạo nhãn hiệu xuất xứ tăng rõ rệt với giá bán cạnh tranh tỉ lệ nghịch với chất lượng hàng hoá. Ông Vương Trí Dũng - Phó Chi cục trưởng Chi cục QLTT HN - cho biết: "Việc kinh doanh sử dụng tem NK giả, in ấn bao bì nhãn mác giả có quy mô và số lượng lớn đang tăng lên khó kiểm soát. Một số vụ hàng giả cho thấy có yếu tố móc nối với cá nhân, tổ chức nước ngoài làm hàng giả, nhất là giả mạo xuất xứ đưa vào VN ( theo Viêtbao.vn :
Bên cạnh đó, việc lợi dụng các nhãn hiệu nổi tiếng để sản xuất và tiêu thụ các mặt hàng kém chất lượng cũng là tình trạng phổ biến và dễ bắt gặp. Chẳng hạn nhãn vụ nhãn hiệu Bia Hà nội, một thương hiệu được người dân biết đến như là một thương hiệu nổi tiếng trong thị trường bia và cũng không ngoại lệ nhãn hiệu này bị các cơ sở sản xuất khác nhái và cung cấp ra thị trường.
thống kê vi phạm nhãn hiệu – Cục sở hữu trí tuệ
1.3/ Đánh giá, kết luận
Xét trên bình diện chung, vi phạm sở hữu trí tuệ nhãn hiệu hàng hóa có thể được xem như một vấn nạn mà nền kinh tế nói riêng và toàn xã hội nói chung phải ghánh. Qua thực trạng trên ta thấy mặc dù các cơ quan chức năng ngày càng nâng cao khả năng kiểm soát cũng như nhận thức của các cá thể kinh tế đã thay đổi khá nhiều nhưng về căn bản do còn quá nhiều mâu thuẫn cũng như bất cập và yếu kém đã làm cho vấn đề này không được giải quyết thấu đáo và hiệu quả mà ngược lại nó càng diễn ra phức tạp, sâu rộng và khó kiểm soát. Bản thân người làm chuyên đề khi khảo sát cũng như tìm hiểu cũng thực sự ngạc nhiên là thực trạng của vấn đề này lại lại phức tạp và mang tính thời sự hơn là những nhận định và cái nhìn cục bộ trước đó nhiều đến như vậy. Do đặc thù về địa bàn mà Hà nội là một trong nhưng trọng điểm của vấn đề sở hữu trí tuệ nhãn hiệu hàng hóa. Điểm sáng thì ít nhưng điểm tối lại dễ thấy và nhiều hơn nhiều lần so với những thống kê vì trên thực tế rất khó kiểm soát nếu không có một cơ chế, một nền tảng của pháp chế thực thi và kiểm soát gắn liền với thực tế và hiệu quả. Vậy các cơ quan chức năng và một trong số đó là Cục Sở hữu trí tuệ đã quản lý lĩnh vực này thế nào trong những năm gần đây khi mà Việt Nam đã và đang đứng trước quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu và đã ra nhập WTO ?
2/ Thực trạng quản lý nhà nước đối với SHTT nhãn hiệu trong Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam giai đoạn 2005-2007 tại địa bàn Hà Nội
2.1/ Hệ thống các văn bản Luật và dưới luật liên quan đến quản lý SHTT nhãn hiệu hàng hóa
2.1.1/ Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam ban hành năm 2005
Luật Sở hữu trí tuệ - một đạo luật lớn và phức tạp đã được quốc hội thông qua ngày 29/11/2005. Đây là một sự kiện quan trọng đối với hoạt động sở hữu trí tuệ nói riêng và hoạt động quản lý nhãn hiệu nói chung. Nó là một nền tảng lớn để Việt Nam thắng lợi trong quá trình đàm phán ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, góp phần thúc đẩy hoạt động sáng tạo khoa học, công nghệ, văn học nghệ thuật và kinh doanh đồng thời là công cụ quan trọng đối với hoạt động quản lý nhãn hiệu của Cục Sở hữu trí tuệ. Chúng ta điểm qua một vài điều quan trọng liên quan đến hoạt động quản lý nhãn hiệu hàng hóa của Cục Sở hữu trí tuệ.
Theo điều 3- Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ thì nhãn hiệu hàng hóa nằm trong đối tượng quyền sở hữu công nghiệp cần được bảo hộ SHTT. Đối tượng SHCN bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý. Tuy vậy vẫn có nhiều người nhầm lẫn rằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa là tách biệt hoàn toàn với sở hữu công nghiệp trong khi trên thực tế nó lại là một bộ phận của SHCN. Quyền SHCN là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiều dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh
Theo nội dung điều 3 ta thấy khi các sản phẩm được trao đổi, tiêu dùng sẽ phát sinh nhu cầu được bảo hộ nhãn hiệu của hàng hóa đó trong hoàn cảnh ngày càng có nhiều sản phẩm có chức năng và thiết kế giống nhau. Điều này càng làm tăng ý nghĩa và tầm quan trọng của nhãn hiệu trong kinh tế thương mại và đời sống.
Điều 6 : Căn cứ phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu công nghiệp được xác lập như sau:
Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Như vậy cũng như quyền sở hữu công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa chỉ được công nhận và xác lập quyền sở hữu trí tuệ khi nó được đăng kí bảo hộ tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Cục Sở hữu trí tuệ, tuân theo quy định tại luật SHTT và các điều ước quốc tế Việt Nam tham gia như Thỏa ước Marid về đăng kí quốc tế nhãn hiệu hàng hóa, Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp... Nếu nhãn hiệu hàng hóa không đăng kí hoặc đăng kí chậm thì nhãn hiệu đó mất quyền bảo hộ SHTT; bị loại trừ không được tồn tại và lưu hành trong các hoạt động kinh tế và xã hội. Như vậy bộ luật nhấn mạnh vào điều kiện để một nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ sở hữu trí tuệ là phải đăng kí đầu tiên và có đầy đủ điều kiện để thẩm định nhãn hiệu theo quy định của pháp luật. Điều này nghe có vẻ không phức tạp nhưng trên thực tế do sự thiếu hiểu biết và không nắm được luật mà có cá nhân doanh nghiệp bị thiệt hại rất lớn. Điển hình là các nhãn hiệu của Việt Nam bị mất quyền bảo hộ quốc tế hay bị kiện vì vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trong điều 6 này có một thuật ngữ không phải ai cũng hiểu rõ đó là ”nhãn hiệu nổi tiếng”. Theo giải thích từ ngữ trong bộ luật có ghi” Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Tuy nhiên để hiểu rõ nhãn hiệu khi nào trở thành nhãn hiệu nổi tiếng cần có những tiêu chí như đánh giá như :(Theo điều 75 trong bộ luật này)
Số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông qua mua bán sử dụng hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo
Phạm vi lãnh thổ mà hàng hóa dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu hành
Doanh số từ việc bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc số lượng hàng hóa đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được cung cấp
Thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu
Uy tín rộng rãi của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu;
Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu;
Số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu nổi tiếng;
Giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử dụng, giá trị gop vốn đầu tư cảu nhãn hiệu.
Cũng bởi những tiêu chí đánh giá này mà sự thừa nhận nó lại không phụ thuộc vào thủ tục đăng kí mà lại dựa trên cơ sở sử dụng. Đây là điểm khác biệt mà người làm kinh tế cũng như các nhà hành pháp và lập pháp cần quan tâm.
Điều 72. Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ
Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc;
- Có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác.
Điều 73. Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu
Các dấu hiệu sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu:
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc huy của các nước;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước ngoài;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu không được sử dụng, trừ trường hợp chính tổ chức này đăng ký các dấu đó làm nhãn hiệu chứng nhận;
- Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ
Điều 105. Yêu cầu đối với đơn đăng ký nhãn hiệu
- Tài liệu, mẫu vật, thông tin xác định nhãn hiệu cần bảo hộ trong đơn đăng ký nhãn hiệu bao gồm:
+ Mẫu nhãn hiệu và danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu;
+ Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể, quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận.
+ Mẫu nhãn hiệu phải được mô tả để làm rõ các yếu tố cấu thành của nhãn hiệu và ý nghĩa tổng thể của nhãn hiệu nếu có; nếu nhãn hiệu có từ, ngữ thuộc ngôn ngữ tượng hình thì từ, ngữ đó phải được phiên âm; nhãn hiệu có từ, ngữ bằng tiếng nước ngoài thì phải được dịch ra tiếng Việt.
+ Hàng hoá, dịch vụ nêu trong đơn đăng ký nhãn hiệu phải được xếp vào các nhóm phù hợp với bảng phân loại theo Thoả ước Ni-xơ về phân loại quốc tế về hàng hoá và dịch vụ nhằm mục đích đăng ký nhãn hiệu, do cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp công bố.
- Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
+ Tên, địa chỉ, căn cứ thành lập và hoạt động của tổ chức tập thể là chủ sở hữu nhãn hiệu;
+ Các tiêu chuẩn để trở thành thành viên của tổ chức tập thể;
+ Danh sách các tổ chức, cá nhân được phép sử dụng nhãn hiệu;
+ Các điều kiện sử dụng nhãn hiệu;
+ Biện pháp xử lý hành vi vi phạm quy chế sử dụng nhãn hiệu.
- Quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận phải có những nội dung chủ yếu sau đây:
+ Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu nhãn hiệu;
+ Điều kiện để được sử dụng nhãn hiệu;
+ Các đặc tính của hàng hoá, dịch vụ được chứng nhận bởi nhãn hiệu;
+ Phương pháp đánh giá các đặc tính của hàng hóa, dịch vụ và phương pháp kiểm soát việc sử dụng nhãn hiệu;
+ Chi phí mà người sử dụng nhãn hiệu phải trả cho việc chứng nhận, bảo vệ nhãn hiệu, nếu có.
2.1.2/ Một số nghị định, thông tư liên quan đến SHTT nhãn hiệu
2.1.2.1/ Nghị định số 106/2006/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp.
Nghị định này quy định các hành vi vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp, hình thức, mức phạt, thẩm quyền, thủ tục xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả. Trong nghị định, các hình thức vi phạm, mức phạt, thẩm quyền, thủ tụcđều được quy định một cách chi tiết giúp các cơ quan chức năng có cơ sở, thang đo cụ thể trong các hoạt động đánh giá mức độ vi phạm, mức phạt, tình tiết giảm nhẹ cũng như cách thức để khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm. Nghị định này ra đời cũng giúp các cơ quan áp dụng luật không còn bối rối trước hoạt động vận dụng luật vào trong công tác quản lý, giám sát và xử lý các hành vi vi phạm vì vấn đề vi phạm quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam vẫn còn mới mẻ, chưa đi vào được đông đảo ý thức người dân và ngay cả các cán bộ làm luật và áp dụng luật cũng không phải là hiểu hết, hiểu tường tận và có tầm nhìn xa đối với vấn đề sở hữu trí tuệ. Trong nghị định có một điểm đề cập đến tình tiết giảm nhẹ đó là phụ nữ có thai, người già, khuyết tật làm hạn chế khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi của mình. Điều này thực sự rất khó hiểu. Chưa có chứng minh cụ thể nào về việc ảnh hưởng đến nhận thức và kiểm soát hành vi của những đối tượng này và hơn thế nữa cũng chưa có quy định cụ thể trong việc giảm nhẹ hình phạt, giạm nhẹ tối đa là bao nhiêu trong khung hình phạt hay được giảm trong tất cả các trường hợp vi phạmCũng trong các hình thức xử phạt có một điều đáng chú ý đối với hành vi vi phạm nhãn hiệu hàng hóa đó là mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm càng lớn thì mức xử phạt càng tăng. Điều này sát với thực tế về hành vi vi phạm nhằm dăn đe và nghiêm khắc với các hành vi có mức độ vi phạm gây thiệt hại lớn.
2.1.2.2/ Nghị định sô 103/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp
Nghị định này quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ về việc xác lập, chủ thể, nội dung, giới hạn quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, đại diện sở hữu công nghiệp và các biện pháp thúc đẩy hoạt động sở hữu công nghiệp.
2.1.2.3/ Nghị định sô 105/2006/ NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về SHTT
NghÞ ®Þnh nµy quy ®Þnh chi tiÕt, híng dÉn thi hµnh mét sè ®iÒu cña LuËt Së h÷u trÝ tuÖ vÒ b¶o vÖ quyÒn së h÷u trÝ tuÖ, gåm viÖc x¸c ®Þnh hµnh vi, tÝnh chÊt vµ møc ®é x©m ph¹m quyÒn së h÷u trÝ tuÖ, x¸c ®Þnh thiÖt h¹i, yªu cÇu vµ gi¶i quyÕt yªu cÇu xö lý x©m ph¹m, xö lý x©m ph¹m b»ng biÖn ph¸p hµnh chÝnh, kiÓm so¸t hµng ho¸ xuÊt khÈu, nhËp khÈu liªn quan ®Õn së h÷u trÝ tuÖ, gi¸m ®Þnh së h÷u trÝ tuÖ vµ quy ®Þnh qu¶n lý nhµ níc vÒ së h÷u trÝ tuÖ
2.1.2.4/ Thông tư số 49/2001/TT-BKHCNMT
Thông tư của Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Thông tư số 825/2000/TT-BKHCNMT ngày 3/5/2000 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ban hành Thông tư này nhằm sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Thông tư số 825/2000/TT-BKHCNMT ngày 03/5/2000 hướng dẫn thi hành Nghị định số 12/1999/NÐ-CP, như sau:
1. Nội dung sửa đổi, bổ sung
Ðiểm 7.3 Thông tư số 825/2000/TT-BKHCNMT được thay thế bằng nội dung mới như sau:
7.3. Cách xác định yếu tố vi phạm
c. Yếu tố vi phạm đối với nhãn hiệu hàng hoá, kể cả nhãn hiệu nổi tiếng, và tên gọi xuất xứ hàng hoá có thể thuộc một tron
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6205.doc