Thủ tục khiếu nại bị pha tạp giữa thủ tục hành chính và thủ tục tố tụng gây khó khăn cho việc thực hiện cuả cả người khiếu nại và người có thẩm quyền GQKN, không có sự tách bạnh giữa thủ tục khiếu nại QĐHC, HVHC với thủ tục đòi bồi thường thiệt hại.
Mặc dù pháp luật về khiếu nại quy định: Trường hợp không đồng ý với quyết định GQKN cuả người có thẩm quyền, người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính nếu pháp luật không quy định khác. Nhưng với quy định về thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính cuả Tòa án theo pháp luật hiện hành thì có rất nhiều loại KKHC, người khiếu kiện không thể khởi kiện đến Tòa án vì pháp luật không trao quyền cho Tòa án giải quyết. Nói cách khác quyết định GQKN cuả cơ quan hành chính chính là quyết định giải quyết khiếu kiện cuối cùng (không được quyền khởi kiện tại Toà án). Trong những trường hợp này quyền TPHC là quyền riêng có của cơ quan hành chính
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3179 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan niệm về Tài phán hành chính ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện có.
Phải đặt trong tổng thể cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phải căn cứ vào hiến pháp và các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước. TPHC là một trong những nội dung cuả nền hành chính nhà nước. Cùng với những đổi mới về tư duy chúng ta phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động cuả hệ thống chính trị, đổi mới bộ máy nhà nước, cải cách hành chính nhà nước và cải cách tư pháp, tức là phải đổi mới thiết chế nhà nước, đổi mới về tổ chức, hoạt động cuả bộ máy nhà nước, quy định rõ quy chế công chức, công vụ. TPHC phải thực sự là công cụ kiểm soát hoạt động cuả các cơ quan hành chính và cán bộ công chức nhà nước, bộ máy tổ chức phải gọn nhẹ, thủ tục tố tụng phải chặt chẽ nhưng đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, phải bảo đảm được quyền kiểm tra, giám sát cuả nhân dân đối với hoạt động cuả cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước.
Phải dưạ trên cơ sở tổng kết thực tiễn giải quyết KKHC cuả công dân, cơ quan, tổ chức đối với các QĐHC, HVHC. Việc giải quyết KKHC phải là sự kế thưà và nâng lên một bước cao hơn việc giải quyết các khiếu nại cuả người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu. Trên thế giới có nhiều mô hình tổ chức KKHC khác nhau, có thể nói không có mô hình nào là hòan thiện hơn cả, nó phù hợp ở nước này nhưng chưa hẳn đã phù hợp với nước khác, vì vậy ta không thể sao chép bất kỳ máy móc vào điều kiện cuả nước ta mà phải tiếp thu nó một cách có chọn lọc, vận dụng một cách thích hợp vào hòan cảnh kinh tế- xã hội, đặc điểm nền hành chính và truyền thống pháp lý cuả nước ta.
Phải bảo đảm tính độc lập, chỉ tuân theo pháp luật; Các đương sự phải bình đẳng khi tham gia tố tụng. Nguyên tắc này liên quan đến việc lưạ chọn mô hình tổ chức, xác định thẩm quyền và thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm việc độc lập cuả cơ quan tài phán khi giải quyết vụ việc. Bảo đảm sự phân định giữa hành chính quản lý và hành chính tài phán. Điều đó có nghĩa là tổ chức TPHC phải thóat khỏi quan hệ mệnh lệnh - phục tùng. Có như vậy hoạt động tài phán mới bảo đảm sự độc lập và bảo đảm sự bình đẳng giữa các cá nhân với pháp nhân, giữa cơ quan nhà nước với cá nhân, cơ quan, tổ chức khác.
Phải đánh giá đúng yếu tố cán bộ và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho tổ chức và hoạt động cuả cơ quan TPHC. Cán bộ quyết định mọi vấn đề, đó là nhân tố chủ yếu, nhân tố hành đầu. Tổ chức cơ quan TPHC phụ thuộc trước hết vào trình độ hiểu biết và năng lực hành động cuả công chức làm việc trong cơ quan tài phán, đặc biệt là những cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác giải quyết khiếu kiện. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của TPHC đòi hỏi cán bộ trực tiếp giải quyết vụ việc phải có phẩm chất, đạo đức chính trị vững vàng, năng lực trí tuệ, năng lực chuyên môn ngang tầm công việc.
Phải thể hiện được sự ưu việt cuả mô hình so với các mô hình giải quyết KKHC trước đó. Xã hội loài người luôn vận động và phát triển theo chiều hướng cái sau sẽ hoàn thiện hơn cái trước, mô hình tài phán mới phải bảo đảm khắc phục được những hạn chế cuả các mô hình trước đó. Mô hình này phải đáp ứng được các đòi hỏi cuả công dân đó là phải bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp cuả người khởi kiện; tổ chức phải gọn gàng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh xã hội; thủ tục tố tụng phải chặt chẽ nhưng phải đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện.
1.1.3.2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động tài phán hành chính
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động cuả TPHC là những tư tưởng, nguyên lý chủ đạo, xuyên suốt trong tổ chức và hoạt động TPHC. Việc tuân thủ các nguyên tắc này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả, hiệu lực cuả hoạt động TPHC. Các nguyên tắc này là một hệ thống thống nhất, việc thực hiện chúnglà điều kiện, tiền đề cho việc thực hiện các nguyên tắc khác. Vì vậy, cần phải thực hiện đồng bộ tất cả các nguyên tắc này Việc thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động sẽ bảo đảm cho bộ máy tổ chức tài phán có một cơ cấu hợp lý, gọn nhẹ, tránh được những trùng lắp không cần thiết. Trong hoạt động, việc tuân thủ các nguyên tắc làm cho bộ máy tài phán hoạt động đồng bộ, thông suốt, phát huy được tính chủ động, độc lập cuả đội ngũ cán bộ, công chức, bảo đảm cho pháp luật được áp dụng một cách nhất quán và phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp cuả các cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TPHC bao gồm các nguyên tắc chung và các nguyên tắc đặc thù.
1) Những nguyên tắc chung : Những nguyên tắc chung là những nguyên tắc làm cơ sở chỉ đạo tổ chức và hoạt động của Nhà nước nói chung, trong đó có TPHC.
Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
. Nhà nước ta là nhà nước XHCN, là tổ chức để nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ cuả mình, là nhà nước cuả dân, do dân và vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, trong đó có quyền về tư pháp.
Thực hiện nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động giải quyết KKHC, thực chất là bảo đảm quyền lực cuả nhân dân trong quản lý nhà nước và xã hội. Hoạt động TPHC phải bảo đảm cũng là một hoạt động nhằm thực hiện quyền lực nhà nước cuả nhân dân. Điều này có nghiã là nhân dân phải được đóng góp ý kiến cuả mình về mô hình tổ chức TPHC, hoạt động tài phán phải chiụ sự giám sát cuả nhân dân (việc giám sát này có thể được thực hiện thông quá hoạt động giám sát cuả các cơ quan dân cử như Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc các hình thức khác như thông qua việc khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị cuả công dân...). Thậm chí nhân dân cũng có thể trực tiếp tham gia vào hoạt động giải quyết khiếu kiện với tư cách là Hoà giải viên, Hội thẩm nhân dân hoặc bồi thẩm đoàn ...
Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thực ra, nội dung cơ bản nhất cuả tập trung dân chủ là yếu tố tập trung. Điều này là chân lý do bản chất quyền uy cuả hoạt động quản lý tạo ra, bởi ở đâu có quản lý là ở đó phải có tập trung. Tuy nhiên, theo quan điểm tiến bộ thì tập trung phải được thực hiện trên cơ sở phát triển dân chủ, trên nền tảng cuả dân chủ. Yêu cầu cơ bản cuả nguyên tắc này là phải bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành tập trung thống nhất cuả các cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà nước cấp dưới, giữa thủ trưởng với nhân viên, đồng thời, bảo đảm quyền chủ động, sáng tạo và khả năng độc lập nhất định trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ được giao cuả các cán bộ, công chức, cơ quan cấp dưới.
Đặc biệt là bảo đảm sự độc lập cuả cán bộ, công chức và cơ quan tài phán cấp dưới đối với thủ trưởng cơ quan tài phán, đối với cơ quan tài phán cấp trên hoặc đối với các cơ quan hành chính bị kiện khi giải quyết các KKHC.
Nguyên tắc pháp chế XHCN.
Thực hiện nguyên tắc pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động cuả TPHC có nghĩa là mọi cơ quan, cán bộ, công chức khi giải quyết các KKHC cũng như mọi đối tượng khi tham gia vào hoạt động tố tụng cuả TPHC đều phải nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và nghiêm minh; bảo đảm sự thống nhất cuả trật tự, kỷ cương, hiệu lực cuả phán quyết; bảo đảm dân chủ và công bằng xã hội. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ góp phần đấu tranh chống các tư tưởng cục bộ, tuỳ tiện, vô chính phủ, đấu tranh có hiệu quả để ngăn chặn tệ quan liêu, tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác trong việc giải quyết khiếu kiện.
Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo cuả Đảng.
Thông qua hoạt động TPHC, Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo cuả mình đối với xã hội. Sự lãnh đạo cuả Đảng cộng sản nhằm bảo đảm cho ý chí cuả giai cấp lãnh đạo được thực hiện trong thực tế. Vì vậy bảo đảm sự lãnh đạo cuả Đảng là một yêu cầu khách quan đặt ra khi tổ chức cơ quan TPHC. Sự lãnh đạo cuả Đảng không chỉ nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động cuả TPHC được thực hiện theo đúng đường lối, chính sách cuả Đảng mà còn là điều kiện cơ sở để bảo đảm các quyền tự do dân chủ cuả công dân.
2) Những nguyên tắc đặc thù
Đây là những nguyên tắc riêng chỉ đạo tổ chức và hoạt động tài phán hành chính.
Tổ chức mô hình phải phù hợp với chức năng tài phán; Phải bảo đảm sự hoàn chỉnh và thống nhất.
TPHC không phải là hoạt động quản lý, không phải là hoạt động nghiên cứu khoa học, đồng thời cũng không phải là một hoạt động dịch vụ mà là hoạt động trọng tài cuả Nhà nước để giải quyết các tranh chấp liên quan đến QĐHC, HVHC. Do đó, về hình thức, cơ cấu tổ chức cuả TPHC phải bảo đảm làm sao cho phù hợp với chức năng cuả mình, không nên tổ chức một khâu, một bộ phận nào đó cuả tài phán hành chính nếu khâu, bộ phận đó không liên quan đến hoạt động cuả tài phán và không trực tiếp thực hiện hoặc phục vụ cho hoạt động tài phán. TPHC phải có bộ phận chuyên môn để trực tiếp giải quyết khiếu kiện, đồng thời phải có bộ phận phục vụ để bảo đảm cho các hoạtđộng chuyên môn. TPHC cũng phải được tổ chức thành hệ thống bảo đảm vụ việc khiếu kiện sau khi đã được giải quyết lần đầu phải được xem xét lại bởi một một cấp tiếp theo nếu có đương sự không đồng ý.
Phải phân định thẩm quyền rõ ràng.
Quyền lực nhà nước được thực hiện bởi hệ thống các cơ quan nhà nước nhưng làm thế nào để không xảy ra sự chồng chéo về thẩm quyền giữa chúng. Vấn đề đặt ra là cần có quy định cụ thể, rõ ràng về thẩm quyền cho từng cơ quan và phải đúng nguyên tắc, phương pháp phân định thẩm quyền. TPHC phải được trao quyền một cách cụ thể, rõ ràng. Các trường hợp có thể có chồng chéo về thẩm quyền thì cần phải chú ý phân định.
1.2. Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về tài phán hành chính ở Việt Nam.
1.2.1. Thực trạng pháp luật về tài phán hành chính ở Việt Nam
1.2.1.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
Như trên đã nói, trong đề tài này khái niệm “tài phán hành chính” được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm GQKN hành chính và giải quyết vụ án hành chính.
Thủ trưởng cơ quan cấp trên cuả cơ quan có QĐHC, HVHC bị khiếu nại có thẩm quyền GQKN tiếp theo đối với các khiếu nại mà hết thời hiệu GQKN lần đầu nhưng không được giải quyết hoặc thủ trưởng cơ quan cấp dưới đã GQKN lần đầu nhưng người khiếu nại vẫn không đồng ý. Riêng khiếu nại đối với QĐHC, HVHC cuả bộ trưởng hoặc khiếu nại đối với QĐHC, HVHC cuả UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh mà nội dung QĐHC, HVHC đó không thuộc lĩnh vực quản lý cuả bộ, ngành kinh tế, kỹ thuật thì việc GQKN chỉ có một cấp. Nếu không đồng ý với quyết định GQKN lần đầu cuả bộ trưởng hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh thành phố trực thuộc trung ương thì người khiếu nại chỉ có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án và không có quyền khiếu nại tiếp theo nếu pháp luật không quy định khác (Điều 39 Luật 2005 ).
Về thủ tục khiếu nại: Người khiếu nại lần đầu phải khiếu nại đến người có QĐHC, HVHC bị khiếu nại nếu đó là người có thẩm quyền mà Luật 1998 quy định; trong trường hợp người đã có QĐHC, HVHC bị khiếu nại không phải là người có thẩm quyền mà Luật 1998 quy định thì cần khiếu nại đến thủ trưởng cơ quan có trách nhiệm quản lý người đó.
Người khiếu nại chỉ được quyền khiếu nại khi: thời hiệu khiếu nại vẫn còn; QĐHC,HVHC phải liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp cuả người khiếu nại. Hiện nay về vấn đề thời hiệu khiếu nại, pháp luật vẫn có những quy định khác nhauTrong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại, người có thẩm quyền GQKN phải thụ lý để giải quyết vụ việc. Tuỳ theo ở điều kiện vùng sâu, vùng xa, vùng đi lại khó khăn hay vùng bình thường, vụ việc phúc tạp hay đơn giản mà từ 30 ngày đến 60 ngày kể từ ngày thụ lý, người có thẩm quyền GQKN phải giải quyết xong vụ việc.
Khi GQKN, người có thẩm quyền GQKN lần đầu có quyền giữ nguyên, sưả đổi hoặc huỷ bỏ một phần hay toàn bộ QĐHC, chấm dứt HVHC bị khiếu nại, giải quyết các vấn đề cụ thể trong nội dung khiếu nại.
Trường hợp không đồng ý với quyết định GQKN cuả người có thẩm quyền GQKN lần đầu hoặc hết thời hạn GQKN lần đầu mà khiếu nại đó không được giải quyết người
Trường hợp không đồng ý với quyết định GQKN cuả người có thẩm quyền GQKN lần đầu hoặc hết thời hạn GQKN lần đầu mà khiếu nại đó không được giải quyết người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính hoặc khiếu nại đến người có thẩm quyền GQKN lần hai.( Điều 39 Luật 2005). Theo luật năm 2004 thì “ Trường hợp không đồng ý với quyết định GQKN cuả người có thẩm quyền, người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của pháp luật ”.
1.2.1.2. Thực trạng pháp luật về giải quyết các vụ án hành chính
Thông qua nghiên cứu pháp luật về giải quyết các vụ án hành chính hiện nay,có thể rút ra một số nhận xét như sau :
1) Tính chất hoạt động xét xử cuả Toà án nước ta:
Tòa án xét xử là nhân danh Nhà nước. Do đó, việc xét xử cuả Tòa án có tính dứt khóat, có nghĩa là Tòa án là cơ quan được pháp luật trao quyền phán quyết cuối cùng. Chỉ có Tòa án cấp trên mới có quyền xem xét lại bản án cuả Tòa án cấp dưới theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Những phán quyết cuả Tòa án là sự phán quyết mang tính quyền lực nhà nước. Khi các phán quyết này có hiệu lực pháp luật thì bắt buộc các đương sự phải chấp hành nghiêm chỉnh, trường hợp đương sự không tự giác chấp hành sẽ có các biện pháp cưỡng chế buộc họ phải chấp hành.
Hoạt động xét xử cuả Tòa án là một hoạt động sáng tạo. Khi xây dựng pháp luật, nhà làm luật không thể dự kiến hết được mọi sự việc, tình tiết các hành vi sẽ diễn ra trong đời sống xã hội. Do đó, khi xét xử Hội đồng xét xử phải nghiên cứu kỹ, đánh giá toàn diện, khách quan các tình tiết, hòan cảnh, điều kiện liên quan đến vụ án để tìm ra phương án giải quyết phù hợp với quy định cuả pháp luật.
2) Đặc trưng của hoạt động xét xử cuả Toà án nước ta:
Chỉ có Tòa án mới có chức năng xét xử. Ngoài Tòa án không có cơ quan nhà nước nào được thực hiện việc xét xử. Tòa án căn cứ vào pháp luật đưa ra phán xét,quyết định cuối cùng nhằm kết thúc vụ án.
Hoạt động xét xử được thực hiện bởi những phương thức được quy định cụ thể trong pháp luật.
Là hoạt động mang tính dưới luật. Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập chỉ tuân theo pháp luật.
Là hoạt động được thực hiện theo thủ tục chặt chẽ, nghiêm ngặt được quy định trong các văn bản pháp luật.
Là hành động thể hiện thái độ cuả Nhà nước trong việc đánh giá một vụ việc cụ thể, căn cứ vào pháp luật Tòa án xác định trách nhiệm pháp lý áp dụng chế tài phù hợp. Đây cũng là hành động thể hiện thái độ dứt khoát cuả Nhà nước đối với các hành vi vi phạm pháp luật. Là sự biểu hiện cuả công lý và quyền lực nhà nước trong quan hệ qua lại hưũ cơ với nhau
1.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tài phán hành chính ở Việt Nam
1.2.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
Mặc dù các cơ qua hành chính nhà nước đã tích cực giải quyết nhưng số lượng đơn khiếu nại gửi đến các cơ quan hành chính nhà nước vẫn ngày càng gia tăng, tính chất, mức độ cuả khiếu nại cũng phức tạp và gay gắt hơn.
Việc GQKN hành chính thường kéo dài, không đảm bảo thời hạn luật định, nhiều tầng nấc, không có điểm dừng. Có những vụ việc đã có quyết định GQKN có hiệu lực thi hành từ hơn 10 năm, nay đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại và khiếu nại này vẫn được cơ quan hành chính nhà nước thụ lý, giải quyết.
Việc áp dụng pháp luật giữa các cơ quan nhà nước và cuả cùng một người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước trước, sau hoặc trong cùng một loại việc không nhất quán với nhau.
Có những trường hợp, người có thẩm quyền đã ban hành nhiều quyết định GQKN cuối cùng hoặc quyết định có hiệu lực thi hành đối với một vụ việc nhưng nội dung lại khác nhau.
Có nhiều quyết định GQKN được ban hành sai về thẩm quyền, thủ tục và hình thức văn bản.
Còn có tình trạng đùn đẩy trách nhiệm GQKN giữa các cơ quan hành chính nhà nước hoặc tranh chấp về thẩm quyền GQKN giữa các cơ quan.
Đơn khiếu nại tồn đọng ở các cơ quan hành chính còn nhiều, nhiều đơn đã quá hạn nhưng chưa được giải quyết. Thời gian GQKN cuả các cơ quan hành chính còn kéo dài quá thời hạn luật định. Việc theo dõi, cập nhập hồ sơ khiếu nại chưa khoa học nên chưa theo dõi và trả lời kịp thời được cho người khiếu nại về tiến độ giải quyết.
Việc tổ chức thực hiện các quyết định GQKN đã có hiệu lực pháp luật tuy có chuyển biến nhưng vẫn còn chậm hoặc chưa được thực hiện.
Xem xét tình hình thực tiễn GQKN cuả các cơ quan hành chính nhà nước, ta có thể rút ra một số nguyên nhân cuả tình trạng trên như sau:
Cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến việc khiếu nại và GQKN còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tế. Thậm chí có một số vấn đề mới phát sinh nhưng chúng ta chưa kịp thời có văn bản pháp luật điều chỉnh.
Thẩm quyền giải quyết KKHC cuả Tòa án còn nhiều hạn chế.
Ở một số điạ phương các cấp chính quyền chưa thực sự quan tâm nhiều đến công tác GQKN, chưa coi đây là một nhiệm vụ quan trọng, chưa kịp thời giải quyết những thắc mắc cuả người dân để cho các thắc mắc này ứ đọng lại thành phức tạp.
Nhiều nơi, cơ quan có thẩm quyền chậm ra quyết định GQKN, chậm khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp cuả người khiếu nại làm phát sinh các khiếu nại mới.
Còn nhiều trường hợp không thể tổ chức thực hiện quyết định GQKN đã có hiệu lực pháp luật được vì phải chờ ý kiến hoặc chờ phối hợp cuả các bộ, ngành liên quan.
Về phía người khiếu nại, vẫn còn tình trạng không chấp hành quyết định GQKN đã có hiệu lực pháp luật, tiếp tục khiếu nại vượt cấp, khiếu nại đến nhiều nơi.
1.2.2.2. Thực trạng hoạt động giải quyết các vụ án hành chính
Số lượng các vụ án hành chính mà ngành Tòa án nhân dân thụ lý, giải quyết không nhiều. Nhìn chung, khi nhận được đơn khiếu kiện đúng thẩm quyền, ngành Tòa án đã tích cực giải quyết và giải quyết đạt tỷ lệ rất cao.Việc giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án được thực hiện đúng các quy định của pháp luật về tố tụng. Nội dung các phán quyết bảo đảm được các quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự .
Việc giải quyết các vụ án hành chính vẫn bộc lộ một số nhược điểm:
Trong một số trường hợp việc giải quyết chưa đúng thủ tục tố tụng, áp dụng pháp luật về nội dung chưa chính xác dẫn đến vụ án bị kháng cáo, kháng nghị, bản án bị cấp phúc thẩm huỷ, sửa gây ảnh hưởng đến niềm tin cuả các đương sự đối với Tòa án. Còn trường hợp áp dụng pháp luật, đánh giá chứng cứ chưa thống nhất giữa cáccấp Tòa án. Tòa án vẫn còn thái độ dè dặt, ngại đụng chạm đến người bị kiện là các cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước.Do đó, đã phát sinh tư tưởng ngại giải quyết các vụ án hành chính và coi mỗi vụ ánhành chính là một gánh nặng khi thụ lý giải quyết. Do chưa có các quy định cụ thể về mối quan hệ giữa các nguyên tắc Đảng lãnh đạo, tập trung dân chủ, cấp trên chỉ đạo cấp dưới, khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nên nhiều cấp Tòa án còn lúng túng khi kết hợp các nguyên tắc này, đặc biệt là những trường hợp có ý kiến khác nhau về cách giải quyết vụ án giữa thẩm phán được giao trách nhiệm giải quyết vụ án với lãnh đạo Tòa án.
1.2.3. Các hạn chế cuả mô hình tổ chức và hoạt động tài phán hành chính ở nước ta hiện nay.
Mặc dù cơ chế và thực tế giải quyết khiếu kiện hành chính hiện nay ở nước ta cũng có nhiều ưu điểm, cơ bản đã giải quyết được phần lớn các KKHC. Tuy nhiên cơ chế này vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế.
1.2.3.1. Các hạn chế cuả cơ chế giải quyết các khiếu nại hành chính.
Việc trao quyền GQKN hành chính cho các cơ quan hành chính nhà nước có các hạn chế:
Không bảo đảm tính công khai, minh bạch cuả hoạt động GQKN hành chính và quyền tranh tụng cuả các đương sự.
Tạo ra tình trạng cơ quan nhà nước“ vưà đá bóng, vưà thổi còi ”, gây tâm lý nghi ngờ cuả người khiếu nại về sự khách quan, vô tư và thực tế giải quyết cũng khó tránh khỏi sự thiếu khách quan vô tư.
Chúng ta đang đứng trước một yêu cầu khách quan cuả sự phát triển chung, đó là yêu cầu về tính chuyên môn hoá và yêu cầu phải có một sự phân công lao động rõ ràng thì sự không phù hợp trong việc giao quyền TPHC cho chính các cơ quan hành chính nhà nước càng bộc lộ rõ như:
Việc GQKN cuả cơ quan hành chính không bảo đảm tính chuyên nghiệp nên hiệu quản không cao;
Cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính không được trang bị kiến thức cần thiết để giả GQKN, trong khi đó các khiếu nại thường rất đa dạng, phức tạp làm các cơ quan hành chính mất quá nhiều thời gian, công sức vào việc GQKN nên không đủ thời gian và điều kiện để thực hiện nhiệm vụ chính là quản lý, điều hành.
Trình tự, thủ tục GQKN cuả cơ quan hành chính còn phức tạp, thiếu dân chủ, công khai, minh bạch. Việc khiếu nại phải được tiến hành qua nhiều cấp, tại nhiều cơ quan. Khiếu nại đã có quyết định giải quyết cuối cùng vẫn được xem xét lại làm cho việc khiếu nại kéo dài không có điểm dừng gây xáo trộn hoạt động quản lý điều hành, lãng phí thời gian, công sức, tiền bạc cuả Nhà nước cũng như cuả người khiếu nại.
Thủ tục khiếu nại bị pha tạp giữa thủ tục hành chính và thủ tục tố tụng gây khó khăn cho việc thực hiện cuả cả người khiếu nại và người có thẩm quyền GQKN, không có sự tách bạnh giữa thủ tục khiếu nại QĐHC, HVHC với thủ tục đòi bồi thường thiệt hại.
Mặc dù pháp luật về khiếu nại quy định: Trường hợp không đồng ý với quyết định GQKN cuả người có thẩm quyền, người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính nếu pháp luật không quy định khác. Nhưng với quy định về thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính cuả Tòa án theo pháp luật hiện hành thì có rất nhiều loại KKHC, người khiếu kiện không thể khởi kiện đến Tòa án vì pháp luật không trao quyền cho Tòa án giải quyết. Nói cách khác quyết định GQKN cuả cơ quan hành chính chính là quyết định giải quyết khiếu kiện cuối cùng (không được quyền khởi kiện tại Toà án). Trong những trường hợp này quyền TPHC là quyền riêng có của cơ quan hành chính
Như vậy, nhìn phiến diện quyền quyết định cuối cùng về tài phán hành chính tưởng như chỉ thuộc về cơ quan Tòa án nhưng thực chất chúng ta vẫn tồn tại song song hai hệ thống cơ quan nhà nước cùng có chức năng giải quyết các KKHC. Việc tồn tại song song hai hệ thống cơ quan TPHC làm cho bộ máy nhà nước cồng kềnh, trùng lắp, lãng phí nhân, tài lực, trong nhiều trường hợp còn tạo ra sự lẫn lộn, tranh chấp không cần thiết về thẩm quyền giải quyết giữa hai hệ thống cơ quan này.
1.2.3.2. Các hạn chế cuả mô hình Tòa hành chính hiện hành.
Việc pháp luật Việt Nam cho phép các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án hành chính đối với các QĐHC, HVHC cuả cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước ra trước Toà án một bước phát triển đáng kể trong việc xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghiã, là bằng chứng cụ thể cuả một xã hội dân chủ, với mục tiêu xây dựng một nền tư pháp vững mạnh, không ngừng bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp cuả công dân. Mặc dù từ năm 1996 đến nay, nhà nước ta liên tục có các điều chỉnh về pháp luật để hoạt động giải quyết các vụ án hành chính cuả Toà án phát huy được vai trò cuả mình, nhưng mô hình tổ chức giải quyết các KHHC củaToà án hiện hành vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Một là, pháp luật về khiếu nại không hạn chế quyền khởi kiện cuả các đương sự đối với QĐHC, HVHC nhưng pháp luật về tố tụng vụ án hành chính lại hạn chế quyền khởi kiện này cuả các đương sự. Điều này thể hiện sự không thống nhất giữa các văn bản pháp luật khác nhau về cùng một vấn đề có liên quan, thể hiện sự vi phạm nguyên tắc pháp chế trong lĩnh vực ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cuả Nhà nước. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả và hạn chế vai trò cuả Tòa án trong việc giải quyết KKHC.
Hai là, tổ chức hệ thống Tòa án hiện hành, trong đó có Tòa hành chính, tương ứng với cấp hành chính đã bộc lộ nhiều điểm không phù hợp với thực tiễn, cụ thể:
Mặc dù cách tổ chức này đã tạo những điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp công tác giữa cơ quan Tòa án với chính quyền điạ phương cùng cấp, nhưng khi phát sinh vụ án hành chính mà bị đơn là chính cơ quan nhà nước hoặc những người có thẩm quyền thì mối quan hệ nêu trên lại trở thành một áp lực có khả năng làm ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử cuả Tòa án.
Ba là, theo quy định cuả pháp luật hiện hành, ở các Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án cấp huyện không tổ chức bộ phận chuyên trách để giải quyết các khiếu kiện hành chính nên không phát huy được tính chuyên nghiệp, chuyên sâu cuả nghề nghiệp và công việc cuả đội ngũ thẩm phán Tòa án. TPHC chính là cơ chế để giải quyết các khiếu kiện ành chính. Tùy theo điều kiện chính trị, kinh tế và xã hội cụ thể, mỗi quốc gia có thể có hình thức tổ chức họat động TPHC khác nhau, cách thức của nước này có thể không phù hợp với nước khác. Ở nước ta, việc giải quyết KKHC được pháp luật trao cho các cơ quan hành chính. Đối với một số khiếu kiện, pháp luật cho phép người dân được quyền lựa chọn hoặc khiếu nại theo thủ tục hành chính hoặc khởi kiện tại Tòa án. Với cơ chế này, thời gian qua chúng ta đã giải quyết được một phần lớn các khiếu kiện phát sinh.
Tuy nhiên, trong việc giải quyết khiếu kiện của các cơ quan hành chính cũng như của Tòa án vẫn còn bộc lộ các hạn chế cần phải được tiếp tục nghiên để đổi mới.
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HÒAN THIỆN MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TÀI PHÁN HÀNH
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Niên luận (2).doc