Đề tài Quản trị rủi ro pháp lý của công ty xuất nhập khẩu thủy sản An Giang

Là một doanh nghiệp lấy xuất khẩu làm chủ đạo, doanh thu của AGIFISH hầu hết bằng ngoại tệ (chiếm gần 90%). Do đó, chính sách quản lý tỷ giá hối đoái của Nhà nước sẽ tác động đến hoạt động kinh doanh của Công ty. Chẳng hạn, khi tỷ giá tăng dẫn đến doanh thu theo tiền đồng tăng lên và ngược lại. Hiện nay, tỷ giá có xu hướng tăng nên chưa có ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Công ty.

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3189 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản trị rủi ro pháp lý của công ty xuất nhập khẩu thủy sản An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng tồn kho _ Cạnh tranh là tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường. Hiện nay, đã có hơn 20 doanh nghiệp sản xuất cá tra, cá basa ở khu vực ĐBSCL, nên sức ép cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước hết sức gay gắt. Các nhà xuất khẩu thủy sản nước ngoài đầu tư vào Việt Nam có lợi thế về vốn và công nghệ, tình hình doanh nghiệp trong nước sẽ càng khó khăn hơn. _ Cái khó hiện nay của DN xuất khẩu thủy sản Agifish là chi phí đầu vào quá cao. Chính sách thắt chặt tín dụng gây khó khăn về vốn và lãi suất quá cao đối với DN. Ngoài ra, từ đầu năm đến nay, tình hình cắt điện thường xuyên khiến giá thành mỗi kg sản phẩm tăng thêm khoảng 1.000 đồng. Bên cạnh đó, việc xuất khẩu hàng tại cảng nhiều khi bị ách tắc. _ Do giá nguyên liệu đầu vào tăng 7% so với tháng đầu năm àgiá nguyên liệu thủy sản tăng cao trong thời gian gần đây khiến các hộ nuôi đẩy mạnh thu hoạch. Thêm vào đó, tại một số nơi, người dân có xu hướng chuyển đổi từ nuôi tôm sang nuôi một số loài thủy sản có giá trị kinh tế cao hơn khiến nguồn nguyên liệu thủy sản cũng giảm sút mạnh. _  Số liệu thống kê gần đây cho biết do liên tục bị thua lỗ nên nhiều hộ nuôi cá tra không còn vốn tái đầu tư. Số ao hầm bị “treo” vào khoảng 30-40%, có thời điểm lên đến 60%. Cả tỉnh có 23 nhà máy chế biến cá tra xuất khẩu, nhưng công suất hoạt động chỉ có 50-60% công suất thiết kế. Đơn giản vì ngoài cây lúa, trái cây ra, ở đây còn tập trung cho con tôm, cá tra, basa nên khi giá thức ăn tăng cao, ngân hàng siết chặt cho vay tín dụng thì nhiều hộ nuôi trồng thủy sản buộc phải “treo” ao. _ Do tình trạng thiếu hụt nguồn nguyên liệu trong nước nên công ty đã chuyển hướng sáng các nước khác để thu mua nguyê liệu nhưng tình hình vẫn không khá hơn bởi vì  bởi giải quyết được bài toán nguyên liệu nhưng sản xuất lại không có lãi do chi phí vận chuyển, bảo quản kho lạnh quá cao. _ Khi Việt Nam gia nhập WTO, thì Mỹ áp thuế chống bán phá giá cá tra, basa với các doanh nghiệp Việt Nam trong 5 năm tới, Biên độ phá giá cho giai đoạn 5 năm tiếp theo được phía Mỹ xác định đến 63,88%. Năm 2009, mức thuế áp dụng với Agifish được điều chỉnh xuống 0,52%, bắt đầu áp dụng từ cách đây 2 tháng. Do đó, công ty phải bắt buộc hoạt động tối đa công suất, với một mức giá hợp lí để hy vọng đem lai doanh thu cao nhưng trong điều kiện nền kinh tế đang gặp rất nhiều khó khăn VI. ĐỊNH HƯỚNG VÀ PHÁT TRIỂN: à Những giải pháp cụ thể trong năm 2010: _ Tổ chức lại lao động từ bộ phận gián tiếp cho đến trực tiếp sản xuất theo hướng tinh gọn bộ máy, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. _ Sản xuất: duy trì sản xuất ổn định và kiểm soát chặt chẽ các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm cung ứng cho khách hàng, cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho khách hàng như giao hàng đúng tiến độ, chất lượng sản phẩm cao, đảm bảo chính xác theo đúng hợp đồng. Tiết kiệm các khoản chi phí để giảm giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh. _ Tiếp thị: đẩy mạnh tìm kiếm khách hàng tiềm năng ở những thị trường mới và thị trường chất lượng cao thông qua các hội chợ thủy sản quốc tế, quảng bá thương hiệu và sản phẩm. Đẩy mạnh xuất khảu hàng sang các thị trường truyền thống của công ty. Riêng tại thị trường Mỹ, nhanh chóng triển khai dự án “ Đầu tư và phát triển hệ thống phân phối tại Mỹ”. _ Liên kết giữa các doanh nghiệp trong Hội nghề nghiệp nhằm đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, trao đổi thông tin về thị trường, đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng và quảng bá thương hiệu chung. _ Tiếp tục thực hiện chiến lược đầu tư vùng nguyên liệu, thực hiện truy suất nguồn gốc sản phẩm, chủ động nguồn nguyên liệu cho sản xuất. Do hiện nay cư dân giảm diện tích nuôi khá nhiều, dự báo nhiều khả năng thiếu hụt nguyên liệu trong 6 tháng đầu năm 2010. Nhiệm vụ trọng tâm của Agifish là chủ động nguồn cá nguyên liệu đủ cho các nhà máy sản xuất thông qua các hình thức hợp đồng đầu tư, nuôi gia công với các thành viên Liên hợp sản xuất cá sạch Agifish. _ Để ngăn ngừa nguy cơ lạm phát cao, Chính phủ đã đưa ra các chỉ tiêu hạn chế tăng trưởng tín dụng ở mức 25%, không còn gói hỗ trợ lãi suất như năm 2008, chi phí sử dụng vốn sẽ tăng thêm. Vì vậy công ty cố gắng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đánh giá hiệu quả các danh mục đầu tư để quyết định duy trì hoặc chuyển nhượng các khoản đầu tư tài chính của Agifish, để tập trung vốn kinh doanh cho công ty. VII. CÁC RỦI RO MÀ CÔNG TY GẶP PHẢI: 1. Rủi ro về kinh tế: Nền kinh tế trong thời gian qua đã không ngừng tăng trưởng và phát triển với tốc độ khá, Chính phủ đã có nhiều biện pháp nhằm khuyến khích và tạo sự thông thoáng cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp nói chung và AGIFISH nói riêng. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều quy định, thủ tục hành chính, đặc biệt là trong lĩnh vực hải quan đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của Công ty. Ngoài ra, việc thực thi và sự ổn định của hệ thống văn bản pháp lý chưa cao cũng là những yếu tố không dự đoán trước được tác động lên hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. 2. Rủi ro về nguồn nguyên liệu đầu vào: _ Ngoài nguồn nguyên liệu tự cấp (chiếm 10%) phần còn lại Công ty thu mua từ ngư dân (chủ bè) do đó, phần lớn sự biến đổi tích cực hay tiêu cực nào của nguồn nguyên liệu đều ảnh hưởng đến quá trình sản xuất của Công ty. _ Điều kiện tự nhiên là một yếu tố rủi ro trong hoạt động nuôi cá bè. Khi thời tiết thay đổi cũng làm ảnh hưởng đáng kể đến số lượng và chất lượng nguồn cá sinh sống. Các Xí nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh của Công ty AGIFISH nằm trong vùng cung cấp nguyên liệu rất thuận lợi cho việc vận chuyển bằng đường bộ cũng như đường sông. Tuy nhiên, tỉnh An Giang lại là một tỉnh thuộc khu tứ giác Long Xuyên, đầu nguồn sông Tiền, sông Hậu, một vùng thường xảy ra lũ lụt hàng năm. Mỗi khi lũ về giao thông vận chuyển thường rất khó khăn. 3. Rủi ro về thị trường tiêu thụ. _ Sản phẩm thủy sản chế biến đông lạnh chịu tác động khắt khe về vệ sinh an toàn chất lượng, hiện nay toàn bộ qui trình sản xuất sản phẩm của AGIFISH được thực hiện theo những hệ thống quản lý chất lượng phù hợp với yêu cầu của những thị trường nhập khẩu. Tuy nhiên, nếu có những thay đổi về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của các thị trường tiêu thụ thì sẽ dẫn tới sự xáo trộn trong sản xuất và tăng thêm chi phí của Công ty. _ Hoạt động xuất nhập khẩu luôn gắn liền với những thông lệ, tập tục quốc tế cũng như ràng buộc pháp lý của nước nhập khẩu. Xuất khẩu cá Tra, cá Basa của Việt Nam mới chỉ ở bước đầu thâm nhập, còn nhiều yếu tố khách quan từ luật pháp các nước sở tại như chính sách bảo hộ, các qui định về mẫu mã, bao bì, thương hiệu sản phẩm ? có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Công ty. 4. Rủi ro về tỷ giá: Là một doanh nghiệp lấy xuất khẩu làm chủ đạo, doanh thu của AGIFISH hầu hết bằng ngoại tệ (chiếm gần 90%). Do đó, chính sách quản lý tỷ giá hối đoái của Nhà nước sẽ tác động đến hoạt động kinh doanh của Công ty. Chẳng hạn, khi tỷ giá tăng dẫn đến doanh thu theo tiền đồng tăng lên và ngược lại. Hiện nay, tỷ giá có xu hướng tăng nên chưa có ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Công ty. 5. Rủi ro về pháp lí:( QUAN TRỌNG) _ Khi giao dịch, làm ăn với các thị trường trên thế giới thì các thị trường đó làm việc dựa trên khung pháp lí quốc tế, mọi thủ tục, hợp đồng đều thông qua các giấy tờ văn bản rõ ràng, mặc dù đó chỉ là hợp đồng nhỏ ( so với cách thức, tập quán làm ăn của người Việt Nam thường chỉ chú trọng đến các hợp đồng lớn, hợp đồng nhỏ cỏ thể bỏ qua hay giao dịch bằng miệng) _ Ngoài ra thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty là thị trường nước ngoài, và đây là những thị trường khó tính, đòi hỏi rất khắt khe _ Là thành viên thứ 150 của WTO, chúng ta đã cam kết thực hiện đầy đủ các ràng buộc về luật pháp mà WTO yêu cầu trong lộ trình cho phép. Do đó, lụât pháp trên thị trường thế giới công ty vẫn còn xem nhẹ, chưa quan tâm đúng mức, gây ra nhiều thiệt hại chẳng hạn như tình trạng bán phá giá: quá trình, thủ tục để có thể chống lại vụ kiện bán phá giá, yêu cầu về chất lượng sản phẩm khi xuất khẩu PHẦN 2 I. Chống bán phá giá 1.1 Khái niệm Là hành động (biện pháp) mà các cơ quan có thẩm quyền ở nước nhập khẩu áp dụng đối với hàng nhập khẩu nhằm vô hiệu hóa hiện tượng bán phá giá hàng nhập khẩu trên đất nước mình. ® Mục tiêu của chống phá giá là: Lập lại trật tự trong hoạt động thương mại nhằm xây dựng môi trường cạnh tranh công bằng. Bảo hộ các nhà sản xuất nội địa hoặc các bạn hàng nhập khẩu khác. Chống bán phá giá trong một số trường hợp được coi là hành vi trả đũa khi hoạt động xuất khẩu của quốc gia mình bị thiệt hại do những biện pháp mà nước nhập khẩu tiến hành đối với hàng xuất khẩu. 1.2 Quy định của WTO về chống bán phá giá và các hình thức đối kháng Quy tắc chống bán phá giá mà hiện nay WTO dựa vào được quy định trong điều 6 của Hiệp định GATT (Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại) ban hành vào tháng 4/1979. Hiệp định xác định những ảnh hưởng tiêu cực của bán phá giá đối với thương mại quốc tế. Thuế chống bán phá giá chỉ có thể sử dụng để đối phó với những loại hình bán phá giá gây thiệt hại nghiêm trọng cho một ngành công nghiệp nào đó, hoặc gây trở ngại nghiêm trọng cho việc xây dựng một ngành công nghiệp. Nội dung chủ yếu của hiệp định như sau: 1. Thiết lập nguyên tắc cơ bản về việc thu thuế chống bán phá giá. Chỉ có thể áp dụng biện pháp đánh thuế chống bán phá giá sau khi tiến hành điều tra theo quy định của điều 6 của Hiệp định GATT. 2. Bản quy tắc còn làm rõ thế nào là bán phá giá. Việc bán phá giá có gây thiệt hại nghiêm trọng cho các bên ký kết khác hay không và thiệt hại ở mức độ nào. Định nghĩa bán phá giá là: giá xuất khẩu của một mặt hàng thấp hơn giá của mặt hàng cùng loại mà các nước xuất khẩu cung ứng cho người tiêu dùng của nước mình, tức thâm nhập vào thị trường một nước khác với giá thấp hơn giá thông thường. Nếu một công ty xuất khẩu sản phẩm với giá thấp hơn giá cả bình thường trong nước, thì sản phẩm đó đã là "bán phá giá". Ở đây có khái niệm giá thông thường. WTO đưa ra 3 cách xác định giá thông thường: một là giá tiêu thụ thông thường trong nước của nước xuất khẩu hàng hoá; hai là giá xuất khẩu của nước xuất khẩu sang nước thứ ba; ba là giá của các chi phí cấu thành. Thông thường, WTO xác định giá thông thường theo cách thứ nhất, trong trường hợp không áp dụng được thì mới áp dụng cách xác định thứ 2, thứ 3. Quy tắc đã định nghĩa chi tiết về "công nghiệp trong nước": đó là tổng thể hoặc đa số các nhà sản xuất trong một nước có các sản phẩm cùng loại. 3. Cam kết về giá cả là những đảm bảo tự nguyện của nhà xuất khẩu thay đổi giá xuất khẩu hoặc giá bán phá giá để loại bỏ những ảnh hưởng gây thiệt hại cho nước nhập khẩu. Nhưng sự đảm bảo này phải dựa trên những điều tra của nước nhập khẩu, hơn nữa không được bắt buộc nước xuất khẩu đưa ra đảm bảo, nhưng công tác điều tra vẫn có thể tiến hành. 4. Kim ngạch của thuế chống bán phá giá không được vượt quá mức chênh lệch do bán phá giá. Việc thu thuế chống bán phá giá hoặc các biện pháp chống bán phá giá tạm thời khác chỉ áp dụng đối với hàng hoá đã được vận chuyển vào lãnh thổ nước nhập khẩu. Khi thu thuế phải được tiến hành bình đẳng không phân biệt đối xử, phải thu thuế từng kiện hàng nhập khẩu qua điều tra thấy gây thiệt hại do bán phá giá. 5. Những hành động chống bán phá giá đại diện cho nước thứ ba phải được nước thứ ba đưa ra lời mời hoặc cung cấp những tài liệu có liên quan. Trong thương mại quốc tế, khi hàng hóa bị xem là bán phá giá thì chúng có thể bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá (anti-dumping) như thuế chống phá giá, đặt cọc hoặc thế chấp, cam kết hạn chế định lượng hoặc điều chỉnh mức giá của nhà xuất khẩu nhằm triệt tiêu nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước nhập khẩu, trong đó thuế chống bán phá giá là biện pháp phổ biến nhất hiện nay. Về thực chất, thuế chống bán phá giá là một loại thuế nhập khẩu bổ sung đánh vào những hàng hóa bị bán phá giá ở nước nhập khẩu nhằm hạn chế những thiệt hại do việc bán phá giá đưa đến cho ngành sản xuất của nước đó nhằm bảo đảm sự công bằng trong thương mại (nói chính xác đó là một sự bảo hộ hợp lý cho sản xuất trong nước). Thuế chống bán phá giá đánh vào các nhà sản xuất riêng lẻ chứ không phải là thuế áp đặt chung cho hàng hóa của một quốc gia. Nguyên tắc chung nêu ra trong Hiệp định của WTO là không được phân biệt đối xử khi áp dụng thuế chống phá giá, tức là nếu hàng hóa bị bán phá giá được xuất khẩu từ những quốc gia khác nhau với cùng biên độ phá giá như nhau thì sẽ áp đặt mức thuế chống phá giá ngang nhau. Mức thuế chống phá giá sẽ phụ thuộc vào biên độ phá giá của từng nhà xuất khẩu chứ không phải áp dụng bình quân (ngay cả khi các nhà xuất khẩu từ cùng một quốc gia) và không được phép vượt quá biên độ phá giá đã được xác định. Tuy nhiên, không phải bất kỳ trường hợp bán phá giá nào cũng bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá. Theo quy định của WTO cũng như luật pháp của rất nhiều nước thì thuế chống bán phá giá chỉ được áp đặt khi hàng hóa được bán phá giá gây thiệt hại đáng kể hay đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất ở nước nhập khẩu. Như vậy, nếu một hàng hóa được xác định là có hiện tượng bán phá giá nhưng không gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất mặt hàng đó ở nước nhập khẩu thì sẽ không bị áp đặt thuế chống bán phá giá và các biện pháp chống phá giá khác. Thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước được hiểu là tình trạng suy giảm đáng kể về sản lượng, mức tiêu thụ trong nước, lợi nhuận sản xuất, tốc độ phát triển sản xuất, việc làm cho người lao động, đầu tư tới các chỉ tiêu khác của ngành sản xuất trong nước hoặc dẫn đến khó khăn cho việc hình thành một ngành sản xuất trong nước. Chính vì những lý do trên mà các nước, nhất là những nước phát triển đã và đang sử dụng lý do chống bán phá giá để chèn ép một cách bất bình đẳng các nước đang phát triển. Điển hình của vụ việc này là các vụ kiện tôm và cá ba sa của Mỹ đối với các nhà sản xuất các mặt hàng này của Việt Nam và một số nước khác. Để đảm bảo tính công bằng trong thương mại quốc tế, tất cả các nước liên quan cần nghiên cứu và thực hiện đúng những quy định của Hiệp định chống bán phá giá của GATT/ WTO. 1.3 Ảnh hưởng của chống bán phá giá: Kiện chống bán phá giá là một rào cản nguy hiểm bởi chúng có thể gây ra những thiệt hại lâu dài, trên diện rộng nếu không được đối phó hợp lý. Gây ảnh hưởng đến tình hình thương mại thế giới:Trong khuôn khổ của WTO, nhiều khi nước áp dụng thuế chống bán phá giá bị nước xuất khẩu hàng hoá là đối tượng chịu thuế chống bán phá giá khởi kiện tới Cơ quan Giải quyết tranh chấp của WTO. Giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá luôn là vấn đề phức tạp và gây nhiều tranh cãi, đôi khi dẫn đến các hành vi trả đũa trong thương mại, gây ra nhiều mâu thuẫn và ảnh hưởng xấu đến tình hình thương mại chung trên thế giới. Vì vậy, các quốc gia thường rất thận trọng khi quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá vào nước mình.  Các nước tốn thêm khỏang chi phí cho việc chống bán phá giá:Trong việc áp dụng hay đối phó với biện pháp chống bán phá giá, chúng ta cũng không thể không tính đến nhiều chi phí cần thiết. Thật vậy, nhiều khi chúng ta cần phải cử các nhóm công tác ra nước ngoài để điều tra, thu thập các thông tin cần thiết, hoặc phải tham dự các cuộc gặp với các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài để giải trình, cung cấp thông tin hoặc thuyết phục họ chấm dứt điều tra, chấp nhận biện pháp cam kết giá hay áp dụng mức thuế chống bán phá giá ở mức càng thấp càng tốt. Có thể sẽ kéo hai nước này lún sâu vào những tranh chấp thương mại Trên thực tế chính sách thương mại quốc tế chịu ảnh hưởng lớn bởi quan hệ chính trị giữa các đối tác. Các biện pháp chống bán phá giá cũng không nằm ngoài qui luật chung đó. Khi một nước chủ động tiến hành điều tra áp dụng biện pháp này với hàng nhập khẩu thì có thể dự đoán rằng một số nước có thể dùng sức mạnh chính trị để ép các nước đó nhượng họ, chẳng hạn họ có thể dùng những lá bài như viện trợ phát triển chính thức (ODA), gia hạn qui chế đối xử tối huệ quốc (MFN) v.v... để đem ra mặc cả . Ảnh hưởng đến những vấn đề nhạy cảm: Thông thường thì tranh chấp liên quan tới bán phá giá chỉ thuần tuý mang tính thương mại, nhưng đôi khi ẩn đằng sau lại là các vấn đề có tính chính trị nhạy cảm tại nước nhập khẩu cũng như giữa nước nhập khẩu với nước xuất khẩu. Tại nước nhập khẩu việc điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá sẽ động chạm trực tiếp tới lợi ích vật chất của hai nhóm lợi ích căn bản là những nhà sản xuất mặt hàng tương tự và những người tiêu dùng mặt hàng đó, trong số này phải kể tới những nhà sản xuất sử dụng mặt hàng này như đầu vào cho quá trình sản xuất của họ. Gây ra nhiều thiệt hại to lớn: ¿ Thứ nhất, thiệt hại có thể là rất nặng nề bởi thuế chống bán phá giá là loại thuế bổ sung bên cạnh thuế nhập khẩu thông thường, và với những mức thuế cao (đôi khi lên tới hàng chục, hàng trăm phần trăm) khả năng cạnh tranh của hàng hóa sẽ bị ảnh hưởng lớn. Riêng với trường hợp của Việt Nam, do không được hưởng cách tính toán chuẩn dựa trên chi phí sản xuất thực tế nên nguy cơ bị thuế cao hơn thực tế là rất lớn. Hơn nữa mức thuế này lại không ổn định (do có thể bị rà soát để điều chỉnh lại mỗi năm). ¿ Thứ hai, thiệt hại có thể ở phạm vi rất rộng, bởi một vụ kiện chống bán phá giá có thể ảnh hưởng đến tất cả các doanh nghiệp đang hoặc sẽ xuất khẩu mặt hàng liên quan sang thị trường đó (dù có bị nêu tên trong đơn kiện hay không) ngay cả khi mới có nguy cơ bị kiện (đơn hàng giảm sút), trong quá trình kiện (chi phí theo kiện) và sau khi có biện pháp thuế (mức thuế cao). ¿ Thứ ba, thiệt hại có thể kéo rất dài bởi thời hạn áp thuế chống bán phá giá thường là 5 năm, và có thể bị gia hạn nhiều lần. Thiệt hại từ các vụ kiện chống bán phá giá là rất nghiêm trọng không chỉ đối với doanh nghiệp xuất khẩu mà còn đối với người lao động trong doanh nghiệp, các đơn vị cung cấp nguồn nguyên liệu đầu vào và tương lai phát triển của cả ngành sản xuất liên quan… Vì vậy các doanh nghiệp, hiệp hội cần có biện pháp phòng tránh từ xa và nếu không thể tránh được thì có biện pháp đối phó thích hợp với các vụ kiện này. II/ Vai trò chống bán phá giá và các biện pháp tự vệ Chống bán phá giá giúp các nước hạn chế các nước khác đạt mục tiêu chính trị. Chính phủ Mỹ đặc biệt quan tâm đến xuất khẩu gạo bởi vì cạnh tranh giá gạo bây giờ ảnh hưởng lớn đến việc đạt các mục tiêu quan trọng khác. Mỹ sẵn sàng bỏ ngân sách mua phần lớn số gạo trên thị trường thế giới rồi bán phá giá. Điều này làm cho nhiều nước xuất khẩu gạo phải lao đao và sẽ phải chịu vòng phong toả của Mỹ. Vì thế khi áp dụng các chính sách bán phá giá sẽ giúp các nước loại khỏi nguy cơ trên. Chống bán phá giá giúp hạn chế đối thủ cạnh tranh, những mục tiêu chiếm lĩnh thị trường của các nước xuất khẩu. Chống bán phá giá cùng các biện pháp tự vệ là các công cụ bảo vệ thương mại để củng cố niềm tin tạm thời cho một số ngành nhất định khi bị ảnh hưởng bởi cạnh tranh từ nước ngoài. Việc quản lý hiệu quả và đúng đắn cơ chế này là cần thiết không chỉ nhằm hỗ trợ các hoạt động bị ảnh hưởng bởi các hành vi thương mại không công bằng mà còn cần thiết để đảm bảo tính liên tục của chương trình tự do hóa thương mại. Nhìn chung, thách thức mà chính phủ phải đối mặt là làm thế nào xây dựng được một hệ thống hợp lí nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia đi đôi với hỗ trợ chính trị cần thiết nhằm đẩy mạnh quá trình mở cửa nền kinh tế. Khi áp dụng chính sách bán phá giá ,chính sách thương mại của các quốc gia rõ ràng và minh bạch hơn: Theo Hiệp định chống bán phá giá của WTO, tất cả các quốc gia thành viên áp dụng chính sách này đều phải thiết lập một thủ tục hành chính để đánh giá nhu cầu bảo hộ chống bán phá giá. Cũng theo quy định trong Hiệp định, trước khi chính phủ có thể áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu thông qua chống bán phá giá, cơ quan hành chính của quốc gia đó cần thu thập các số liệu đầy đủ để khẳng định các điều kiện của thị trường và hành vi của các nhà xuất khẩu nước ngoài đáp ứng các tiêu chí pháp lý và kỹ thuật của WTO. Chống bán phá giá đã trở thành công cụ bảo hộ hàng đầu của rất nhiều quốc gia, mức độ áp dụng công cụ này của các ngành trong nước đã trở thành một chỉ số quan trọng phản ánh mức độ bảo hộ nhập khẩu của các quốc gia đó. Các ngành công nghiệp trong nước dựa trên luật chống bán giá và các ưu đãi kinh tế mà nó tạo ra để đat được mức độ bảo hộ mà họ mong muốn. Các ngành công nghiệp khi đeo đuổi chính sách chống bán phá giá thì có tỷ lệ hàng nhập khẩu cao hơn so với những ngành công nghiệp còn lại. Các nhà xuất khẩu có thể tận dụng biên độ phá giá nhằm nâng cao cạnh tranh của mình nhưng không bị buộc là bán phá giá. Trong trường hợp thắng kiện chống bán phá giá, các doanh nghiệp xuất khẩu không phải chịu mức thuế chống bán phá giá và sản phẩm tăng sức cạnh tranh trên thị trường nước nhập khẩu. III. Các đề xuất về các giải pháp chống bán phá giá: 1) Nghiên cứu kỹ thị trường Việc nắm rõ thị trường mục tiêu, nắm rõ các điều kiện cạnh tranh, các đối thủ, điểm mạnh và điểm yếu của bản thân có lẽ là vấn đề cơ bản đối với tất cả các doanh nghiệp khi có ý định xuất khẩu sản phẩm của mình sang một thị trường mới. Và đối với vấn đề bán phá giá, công việc này cũng hết sức cần thiết. Ngoài các yếu tố, thông số thuộc về thị trường, nhà xuất khẩu cần nắm rõ những thông tin liên quan đến luật chống bán phá giá như các quy định của luật chống bán phá giá, cách thức và trình tự tiến hành một vụ kiện bán phá giá, yêu cầu đối với các bên liên quan,… Việc nắm vững những yếu tố trên sẽ giúp nhà xuất khẩu hiểu rõ hơn về bản chất của luật chống bán phá giá, từ đó xây dựng những chính sách cụ thể nhằm hạn chế tầm ảnh hưởng của luật chống bán phá giá đến hoạt động xuất khẩu và kinh doanh trên thị trường Mỹ. Hơn thế nữa, việc nắm vững bản chất của luật chống bán phá giá sẽ giúp doanh nghiệp giảm thiểu được thế bị động một khi bị kiện bán phá giá. 2) Xây dựng một chính sách giá hợp lý Trên cơ sở đã nghiên cứu kỹ thị trường Mỹ và các yếu tố liên quan khác, nhà xuất khẩu cần xây dựng một chính sách giá hợp lý. Đây là một yếu tố hết sức mấu chốt và cũng hết sức nhạy cảm bởi rõ ràng là việc bị kiện bán phá giá đều xuất phát từ yếu tố giá cả của sản phẩm nhập khẩu vào thị trường Mỹ. Việc xây dựng một chính sách hợp lý quả thực không phải một chuyện đơn giản và còn phải tuỳ thuộc vào tình hình kinh doanh và hoàn cảnh của nhà xuất khẩu, tuy nhiên, về cơ bản một chính sách giá hợp lý nhằm tránh bị liên quan đến các vụ kiện bán phá giá phải đáp ứng được một số tiêu chí sau: (1) Đảm bảo được sự thống nhất về mức giá giữa các thị trường xuất khẩu khác nhau, giữa thị trường xuất khẩu và thị trường nội địa. (2) Đảm bảo được tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu trên cơ sở có cân nhắc đến mức giá hợp lý-LTFV. Điều này có nghĩa là trước khi hình thành một mức giá xuất khẩu, nhà xuất khẩu cần cân nhắc mức độ cạnh tranh của mức giá đó tại thị trường nước nhập khẩu, khả năng thoả mãn thị trường của mức giá đó (xác định lượng cung – cầu của mức giá đó) và mức lợi nhuận mà mức giá đó đem lại. Tuy nhiên có một vấn đề khi thực hiện mục tiêu này : đó là áp lực cạnh tranh giữa các công ty nội địa của nước xuất khẩu với nhau sẽ đẩy mức giá xuất khẩu xuống thấp. Do đó cần phải liên kết các công ty trong cùng một mặt hàng lại với nhau để tránh sự cạnh tranh không cần thiết dẫn đến thiệt hại cho tất cả các bên, một khi bị kiện bán phá giá. Điểm mấu chốt để thực hiện được hai tiêu chí này đó là yếu tố thông tin. Nhưng hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam luôn gặp phải vấn đề thiếu thông tin khi xúc tiến công việc kinh doanh của mình. Bản thân các doanh nghiệp khó có thể tự thu thập đủ thông tin mà mình cần. Do đó cần có sự hỗ trợ từ các tổ chức khác như Cục Xúc tiến Thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội đồng Thương mại Việt – Mỹ,… 3) Đa dạng hoá sản phẩm Đây cũng là một biện pháp để hạn chế tầm ảnh hưởng của luật chống bán phá giá đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Việc đa dạng hoá sản phẩm không chỉ phù hợp với xu hướng phát triển tất yếu của mỗi doanh nghiệp mà còn giúp doanh nghiệp tận dụng thị trường và giảm nguy cơ bị kiện bán phá giá. Điều này thể hiện ở chỗ thay vì dồn tất cả các yếu tố đầu vào vào một chủng loại sản phẩm nhất định, doanh nghiệp có thể dàn các yếu tố này vào nhiều chủng loại khác nhau, tạo cho mỗi chủng loại một đặc tính khác nhau, do đó có thể bán ở các mức giá khác nhau với những thương hiệu khác nhau. Trước hết nếu khối lượng đầu vào là không đổi (lượng nguyên liệu là không đổi) thì khối lượng đầu ra trên mỗi chủng loại sản phẩm sẽ giảm đáng kể tỉ lệ theo số lượng các chủng loại. Ví dụ như trong trường hợp cá Tra và cá Basa của Việt Nam, thay vì chỉ xuất khẩu sang Mỹ 30 tấn các sản phẩm cá chưa chế biến, nhà xuất khẩu có thể đa dạng hoá sản phẩm bằng cách xuất 10 tấn cá chưa chế biến, 10 tấn cá bán chế biến (các sản phẩm như cá tẩm gia vị) và 10 tấn cá đã chế biến (các sản phẩm như cá hộp). Việc dàn trải ra nhiều chủng loại sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ bị kiện bán phá giá do khối lượng sản phẩm nhỏ hơn sẽ làm giảm khả năng bị kiện gây thiệt hại

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản trị rủi ro pháp lý của công ty xuất nhập khẩu thủy sản An Giang.doc
Tài liệu liên quan