Đề tài Quy hoạch môi trường làng nghề Dương Liễu

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

I .Đặc điểm điều kiện tự nhiên xã Dương Liễu 2

1) Vị trí địa lý 2

2) Địa hình 2

3) Khí hậu 2

4) Thuỷ văn 2

5) Đất đai 3

II. Điều kiện kinh tế xã hội 3

.1. Dân số và lao động 3

.2. Cơ cấu kinh tế 3

.3. Thực trạng phát triển các ngành nghề và các lĩnh vực. 3

III. Phương pháp nghiên cứu 4

.1. Phương pháp đánh giá nhanh môi trường 4

2. Phương pháp phân tích và tổng hợp số liệu. 5

IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 5

1. Hiện trạng sản xuất tại làng nghề 5

a. Loại hình sản xuất 5

b. Công nghệ sản xuất 6

2. Hiện trạng môi trường làng nghề 9

a. Chất lượng môi trường nước 9

b. Chất lượng môi trường không khí 10

c. Chất thải rắn 11

3. Hiện trạng quản lý và quy hoạch làng nghề. 12

V: ĐỀ XUẤT QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ 16

1. Quy hoạch đối với một hộ sản xuất : 16

 Về không gian sản xuất: 16

 Về nước thải của hộ sản xuất 18

 Về vấn đề bã thải của hộ sản xuất: 18

.2. Quy hoạch cụm sản xuất: 19

.3. Quy hoạch sử dụng đất 19

.4. Quy hoạch hạ tầng kĩ thuật: 20

a. Giao thông 20

b. Thoát nước và vệ sinh môi trường 21

4. Cấp nước 21

5. Quy hoạch quản lý môi trường làng nghề: 21

VI. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 23

Kết luận: 23

Khuyến nghị: 23

Tài liệu tham khảo: 23

 

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6373 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quy hoạch môi trường làng nghề Dương Liễu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiếm tỷ trọng 20.8%. Ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đạt 50.2 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 52.3%. Ngành thương mại dịch vụ đạt 26 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 26.9%. (Nguồn Báo cáo tình hình môi trường làng nghề xã Dương Liễu tháng 8/2006) .3. Thực trạng phát triển các ngành nghề và các lĩnh vực. Bảng 1: Phân bố ngành nghề của xã Dương Liễu Loại hình sản xuất Số hộ Loại hình sản xuất Số hộ Mô hình hộ gia đình Mô hình doanh nghiệp công ty 1.Sản xuất mì bún 70 1. Sản xuất bánh kẹo 25 2. Nấu nha 100 2. Sản xuất gương, ghế nhựa 4 3. Lọc tinh bột 235 3. Cơ khí 6 4. Sản xuất miến 55 4. In lưới 4 5. Chế biến tinh bột sắn thô 1.200 5. Bóc tách đỗ xanh 15 6. Chế biến tinh bột dong thô 1200 6. Sơ chế vừng lạc 4 7. Dệt len 300 7. Dệt 3 8. Xay, nghiền 300 8. Sản xuất khác 26 9. Sản xuất khác 45 - - Sản xuất và chế biến tinh bột sắn, dong riềng là những loại hình sản xuất chính ở xã Dương Liễu (73%). Bên cạnh đó cũng có một số ngành đang có xu hướng phát triển ngày càng mạnh/. III. Phương pháp nghiên cứu .1. Phương pháp đánh giá nhanh môi trường Đánh giá nhanh môi trường là phương pháp thu thập thông tin về hiện trạng môi trường dựa trên cơ sở quan sát, phỏng vấn, tính toán định tính trung bình trong trường hợp cần thiết. Đánh giá nhanh môi trường giúp cho việc khám phá và chẩn đoán các vấn đề môi trường trong khu vực nghiên cứu, bổ trợ cho việc thiết kế giám định và thực hiện đánh giá dự án. Đánh giá nhanh hỗ trợ quá trình chuyển giao kỹ thuật, hỗ trợ cho việc soạn thảo các quy định và chính sách, giúp cho việc đối phó với các thảm hoạ, thiên tai, đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường do các nguồn phát thải. Đánh giá nhanh môi trường cho phép cùng một lúc thu thập nhiều số liệu toàn diện về môi trường trong một khu vực mà các phương pháp khác khó có thể thực hiện được. Tuy nhiên phương pháp đánh giá nhanh môi trường là phương pháp định tính, ít định lượng, đặc biệt đối với các vấn đề môi trường tự nhiên. Vì vậy, trong nhiều trường hợp cần phải bổ sung bằng phương pháp định lượng. Để thực hiện phương pháp này, chúng tôi đã thực hiện một số kỹ thuật đánh giá nhanh sau đây: a.Tổng kết số liệu thứ cấp: là phương pháp tổng kết từ các số liệu thu được nhờ tham khảo tài liệu đã được nghiên cứu của các tác giả khác. Đó là từ các tài liệu dự án, tạp chí khoa học, báo cáo khoa học, báo cáo của ban lãnh đạo địa phương. Một số tài liệu quan trọng đã thu thập là của: - Uỷ ban nhân dân xã Dương Liễu huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây - Thư viện khoa Môi trường - Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên – Đại Học Quốc Gia Hà Nội. b. Quan sát thực địa: Là phương pháp kiểm tra, quan sát trên địa bàn nghiên cứu. Đây là phương pháp phổ biến đơn giản, nhằm đánh giá sơ bộ hiện trạng môi trường và kiểm chứng lại số liệu đã thu thập được, góp phần quan trọng trong việc hoàn thành bản báo cáo này chính xác và đầy đủ hơn. c. Phỏng vấn bán chính thức: Là sự trò chuyện thân mật với người địa phương, những hiểu biết về các vấn đề mà ta quan tâm. Đây là phương pháp thu thập thông tin có tính linh động, trong thời gian ngắn và khó truyền đạt nội dung. Mục tiêu của phỏng vấn bán chính thức là học hỏi tri thức của đối tượng. Có thể nói, phỏng vấn bán chính thức là sự kết hợp tri thức của địa phương và kiến thức người phỏng vấn. Phỏng vấn bán chính thức có các yêu cầu sau: Người phỏng vấn được chọn ngẫu nhiên và không được thông báo trước về nội dung phỏng vấn. Câu hỏi đặt ra tuỳ theo mức độ thân mật và nội dung thông tin. Không cần thiết phải có mặt quan chức địa phương. Phỏng vấn ngay tại hiện trường 2. Phương pháp phân tích và tổng hợp số liệu. Là phương pháp tổng hợp tất cả các số liệu thu thập được và tổng hợp mối quan hệ giữa chúng , phục vụ cho mục đích nghiên cứu đề tài. IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Hiện trạng sản xuất tại làng nghề a. Loại hình sản xuất Dương Liễu là xã có ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống phát triển từ rất lâu đời đặc biệt là nghề chế biến nông sản như: Chế biến tinh bột thô, miến dong, mạch nha…trong những năm gần đây do nhu cầu thị trường ở Dương Liễu xuất hiện thêm nhiều ngành nghề khác như Dệt may, làm bánh kẹo…toàn xã có 2652 hộ thì có tới 2556 hộ tham gia vào một công đoạn hay cả quá trình sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Bảng : Các loại hình sản xuất và % số hộ xã Dương Liễu tham gia. STT Hoạt động sản xuất Số hộ Tỷ lệ (%) 1 Sản xuất tinh bột sắn 1200 47.1% 2 Sản xuất tinh bột dong 100 7.9% 3 Lọc tinh bột 235 9.2% 4 Sản xuất miến 55 2.1% 5 Sản xuất bún khô 70 2.8% 6 Sản xuất nha 100 3.9% 7 Thuần nông 102 4% 8 Sản xuất khác 584 23% (Nguồn: Uỷ ban nhân dân xã DươngLiễu) Bảng : Thống kê các sản phẩm chủ yếu TT Sản phẩm Số lượng Số hộ Tỷ lệ sản lượng(%) 1 Tinh bột sắn 60.000 1200 55.6% 2 Tinh bột dong 17.000 340 15.7% 3 Bánh kẹo các loại 4000 - 3.7% 4 Đỗ xanh bóc tách 4.500 - 4.2% 5 Vừng lạc sơ chế 1000 - 0.9% 6 Miến dong 4.500 55 4.2% 6 Bún, phở khô 2000 70 1.8% 6 Mạch nha 15.000 100 13.9% b. Công nghệ sản xuất Công nghệ sản xuất bột sắn và dong riềng Sơ đồ công nghệ: Công nghệ sản xuất chính ở làng nghề là bán thủ công với sự trợ giúp của máy móc tại một số khâu như: rửa, nghiền, khuấy trộn,…Quy trình sản xuất tinh bột sắn và dong riềng thể hiện ở sơ đồ dưới đây: Sơ đồ sản xuất tinh bột sắn: Sắn củ Lắng lần 2 Máy cạo vỏ và rửa củ Lắng lần 1 Lọc thô Máy nghiền Điện, nước cấp Điện Điện, nước cấp Bã thải Nước thải, thu bột mủ Nước thải, thu bột đen Nước cấp Nước + vỏ sắn Sơ đồ sản xuất tinh bột dong: Dong củ Nước thải, Tinh bột dong, loại 1 Lắng lần 1 Máy cạo vỏ + rửa củ Lọc lần 2 Điện Điện, nước cấp Nước thải, đất cát, vỏ Lọc lần 1 Máy nghiền Điện, nước cấp Bã thải Bã thải Điện, nước cấp Nước cấp Lắng lần 2 Nước thải, Tinh bột dong, loại 2 Giải trình công nghệ: [5] 1) Quy trình thu mua nguyên liệu Qua quá trình quan sát thực địa và phỏng vấn người dân địa phương, nhóm tác giả đã biết thêm thông tin: Vùng cung cấp nguyên liệu chính cho sản xuất là các tỉnh miền núi phía Bắc như: Sơn La, Lai Châu, và một phần từ Sơn Tây, Vĩnh Phúc, Nghệ An, Vĩnh Phú. Phương tiện vận chuyển chính là ô tô tải, vụ chính bắt đầu từ tháng 8 đến tháng tư năm sau (âm lịch), có hàng trăm xe từ các nơi tới đây họp thành chợ. Tuy quá trình này không phát sinh nhiều rác thải nhưng do đường giao thông của địa phương không tốt gây nên bụi bẩn, mất mĩ quan, gây tiếng ồn. Rửa và bóc vỏ Hiện nay tại xã có sử dụng máy móc trong sản xuất nên khâu rửa và bóc vỏ cũng là một thao tác trong quy trình sản xuất. Lượng nước cấp cần thiết trong khâu này từ 2 – 3 m3/ tấn và từ 4 – 5 m3/tấn củ dong. Khâu này tạo ra nhiều cặn lắng theo nước chảy thẳng xuống làm ách tắc cống rãnh trong khu vực. Nghiền củ Khâu này không cần sử dụng nước nhiều (nghiền khô), thao tác này được thực hiện bởi máy móc, nguyên liệu được nghiền đến độ mịn thích hợp sau đó cho qua quá trình lọc. Lọc Mục đích của quá trình này là lôi kéo các hạt tinh bột nhờ nước và tách riêng phần bã xơ. Toàn bộ nguyên liệu sau khi nghiền được đưa vào lọc li tâm tách riêng phần bã thô, phần bột lẫn nước tiếp tục được đưa qua máy khuấy sau đó sàng qua một cái lá ngâm trong nước để tách bã lần 2. Phần bột lẫn nước được đưa qua bể lắng. Nhu cầu nước cho công đoạn này là 4- 5m3/tấn củ. Năm 2000 – 2001đã xuất hiện máy liên hoàn từ khâu nghiền và lọc, bã thải được xả thẳng cùng nước thải ra ngoài là điều đáng lo ngại vì lượng bã thải lớn này có thể gây tắc xuống hệ thống cỗng rãnh. Đến nay có khoảng 200 hộ sản xuất tinh bột dong đã trang bị loại máy móc này. Quá trình lắng Lắng 1: Mục đích là tách bột đen (lẫn tạp chất khác) và bột tươi riêng ra. Nước thải ở lần lắng này có hàm lượng chất hữu cơ cao do sự lên men của vi sinh vật làm nước có mùi chua rất khó chịu. Lắng 2: Mục đích làm trắng thêm và cứng thêm bột (với bột sắn). Trong quá trình sản xuất bột dong thì bột thu được qua lắng 2 là bột loại 2 vì đó chính là bột còn lại sau khi lọc lần 1. Nhu cầu nước ở quá trình này là 3.5 – 5.5m3/tấn nguyên liệu. 2. Hiện trạng môi trường làng nghề a. Chất lượng môi trường nước Theo ước tính, ở Dương Liễu mỗi ngày nước thải từ các hộ chế biến nông sản khoảng 600m3, thực tế con số này còn cao hơn rất nhiều, nhất là 7 tháng vào vụ chính. Loại nước thải này chứa các chất tẩy rửa hoá học, mang tính axit, kiềm qua quá trình phân huỷ tạo ra những khí độc có mùi hôi thối rất khó chịu. Hệ thống chứa dẫn nước thải rất kém, thường xuyên ứ đọng do các loại rác thải rắn rớt xuống gây tắc nghẽn. Nguy hại hơn nữa là toàn bộ hệ thống nước ngầm bị ô nhiễm nặng. Nhiều giếng khơi bị bỏ không hoặc do không có nước hoặc là có cũng không ai giám dùng. Ao tù nước đen sánh gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của các loài thuỷ sinh. Nước thải từ nghề chế biến nông sản cộng với nước thải rửa chuồng trại gia súc, gia cầm cỡ 7.500 m3/ ngày đêm, chủ yếu không qua xử lý, xả trực tiếp vào hệ thống mương tiêu thoát rồi tuôn thẳng ra sông Nhuệ, sông Đáy. Nước thải, chất thải rắn (bã dong riềng, sắn) làm cho các nguồn nước tại làng nghề nơi đây bị nhiễm khuẩn cao gấp 5 - 8 lần mức cho phép; các bệnh về mắt, đường hô hấp cao gấp 3 - 5 lần so với các địa phương. Qua điều tra cho thấy tại Dương Liễu, Cát Quế, Hà Tây, tỷ lệ dân đau mắt hột chiếm tới 70%. Bảng : Chỉ tiêu ô nhiễm nước thải làng nghề xã Dương Liễu Các chỉ tiêu phân tích Đơn vị tính Nước thải từ các hộ chế biến Nước thải từ các kênh thải TCVN(5945-1995) loại B pH mg/l 4 0,5 5,5-9 BOD mg/l 2116 496,5 50 COD mg/l 3638 987 100 Cặn lơ lửng 2366 501 100 K mg/l 112 197,5 P mg/l 26 10,5 4 N mg/l 108 105,2 30 Tổng vi khuẩn Vk/100ml 750 16450 - Ecoli Vk/100ml - 10883 - Trứng giun đũa Tr/100ml - 2,7 - Trứng giun móc Tr/100ml - 1,8 - Trứng giun tóc Tr/100ml - 0,54 - Hầu hết các chỉ tiêu đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép nhiều lần đặc biệt là BOD, COD cao hơn cả chục lần. Nước thải từ các hộ chế biến được thải trực tiếp qua hệ thống cống rãnh, ao hồ trong khu dân cư đã phần nào được xử lý nên pH và các chất ô nhiễm có giảm đáng kể. b. Chất lượng môi trường không khí Vấn đề ô nhiễm môi trường không khí do sản xuất không được nghiên cứu đầy đủ như ô nhiễm nước, xuất phát từ thực tế rằng phần lớn các công đoạn chế biến và vận hành được thực hiện trong quá trình sản xuất bột sắn đều là quá trình “ướt”. Nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí đặc trưng nhất của làng nghề chế biến nông sản là mùi hôi thối do sự phân hủy của các hợp chất hữu cơ có trong chất thải rắn và nước thải từ các cống rãnh, kênh mương.sinh ra các khí như NH2, H2S, NH3...gây cảm giác khó chịu, ảnh hưởng đến sức khỏe người dân làng nghề. Một nguồn gây ô nhiễm không khí nữa là khói, bụi sinh ra trong quá trình đốt than, củi phục vụ cho đun nấu và đốt lò nấu mạch nha, làm miến. Nhu cầu nhiên liệu tương đối lớn, trung bình các hộ dân sử dụng khoảng 3.000 - 4.000 tấn than đá/năm. c. Chất thải rắn Theo số liệu thống kê cho thấy, bã thải từ sản xuất, chế biến tinh bột sắn, bột dong, các loại bánh kẹo, khu vực chợ của xã mỗi ngày lên tới hơn 400 tấn rác. Bảng : Thống kê tình hình rác thải, bã thải Loại rác thải, bã thải Lưu lượng (kg/ngày) Số hộ tham gia Lượng rác(tấn/ngày) Rác thải sinh hoạt 5 2600 13 Rác thải chăn nuôi 12 900 10.8 Rác thải từ chế biến tinh bột sắn thô 800 400 32 Rác thải từ chế biến tinh bột dong thô 3000 100 300 Rác thải từ loại hình sản xuất khác 50 1200 60 Rác thải sinh hoạt dịch vụ 52 1200 17.4 Tổng 433.2 tấn (_Nguồn: Báo cáo tình hình môi trường làng nghề sản xuất xã Dương Liễu) Bã thải sắn chứa hàm lượng xơ cao, một phần được phơi khô làm nhiên liệu, thức ăn cho gia súc, gia cầm, cá, phụ gia cho sản xuất tương ớt... phần lớn còn lại được thải bỏ. Nguồn thải này góp phần chính làm ô nhiễm môi trường đất và trực tiếp gây ô nhiễm môi trường khí cũng như ảnh hưởng đến chất lượng nước mặt, nước ngầm. Ở làng nghề, xỉ than là chất thải rắn tạo bụi trong quá trình đốt lò. Hầu hết các chất thải của các làng nghề không qua xử lý mà thải trực tiếp ra các mương rãnh ao hồ xung quanh gây mất mỹ quan và ô nhiễm môi trường khu vực. Bảng : Khối lượng bãi thải vào mùa chế biến 2001-2002 tại xã Dương Liễu Nguồn thải Khối lượng nguyên liệu (tấn) Khối lượng bã tươi (tấn) Sắn củ 120.000 48.000 Dong củ 52.000 15.000 Tổng 172.000 63.000 Tổng khối lượng bã thải từ sản xuất sắn và dong riềng là 63.000 tấn, nhưng thực tế lượng bã tạo ra qua quá trình lọc tinh bột chứa rất nhiều nước, có thể lên tới 90% lượng nhiên liệu đầu vào. Chính vì vậy, quá trình vận chuyển hay tái sử dụng các loại bã thải này rất khó khăn. Khoảng 95% lượng bã sắn sử dụng trong chăn nuôi còn lại hầu như toàn bộ lượng bã dong không được sử dụng. 3. Hiện trạng quản lý và quy hoạch làng nghề. Trong những năm qua nhận thức rõ được vấn đề bảo vệ môi trường, Đảng Uỷ, Hội Đồng Nhân Dân (HĐND), Uỷ Ban Nhân Dân (UBND) đã tập trung chỉ đạo các ngành chức năng tuyên truyền vận động sâu rộng trong nhân dân về ý thức bảo vệ môi trường. Cuối năm 2001, HĐND xã đã thành lập tổ vệ sinh môi trường của xã với 15 thành viên với công việc chủ yếu là khơi thông cống rãnh, xử lý cục bộ các điểm ùn tắc; thu gom rác thải trong nhân dân. Tuy nhiên do lượng rác thải quá nhiều, nguồn kinh phí đầu tư có hạn vì vậy họat động của tổ vệ sinh môi trường (VSMT) chỉ đáp ứng được phần nào nhu cầu trong nhân dân, đồng thời hiệu quả tuyên truyền ý thức của nhân dân trong vấn đề thực hiện thu gom còn chưa cao. Quy chế VSMT và bảo vệ môi trường còn hạn chế; các điểm tập kết rác thải, bã thải đang bị quá tải. Xưởng xử lý nước thải của công ty TNHH Mặt Trời Xanh tuy đã đi vào hoạt động nhưng do thiết kế dự tính ban đầu nhỏ hơn so với tốc độ sản xuất của làng nghề hiện tại, mặt khác chưa tính hết khả năng lượng bã thải trong sản xuất củ dong và chăn nuôi của các hộ xả thẳng xuống hệ thống cống rãnh nên những tháng vào niên vụ thường xảy ra quá tải không xử lý theo quy trình dự kiến dẫn đến tắc nghẽn cục bộ, nước thải, chất thải rắn chưa được xử lý. Việc sản xuất, chăn nuôi của các hộ dận tập trung ở trong khu dân cư (Sản xuất song song với sinh hoạt) trong khi đó diện tích bình quân hộ thấp (Đất ở: Sản xuất, kinh doanh và chăn nuôi tập trung ở một nơi, bình quân 120 đến 144 m2/ hộ), mặt bằng chật hẹp không đáp ứng được nhu cầu sản xuất cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường. Hình thức xử lý các loại rác thải, bã thải: Đối với rác thải trong sinh hoạt: Chủ yếu vẫn là hình thức thu gom rác thải của tổ VSMT và các gia đình tự thu gom tập kết ở các bãi rác. Đối với rác thải chăn nuôi: Một phần được các gia đình thu gom làm phân bón, còn lại xả thẳng ra hệ thống cống rãnh. Đối với rác thải CN - TTCN: Sản xuất tinh bột sắn thô: Bã được thu gom làm thức ăn chăn nuôi, nước thải ra hệ thống cống rãnh, vỏ củ sắn, dong một phần được thu gom, một phần thải ra hệ thống cống rãnh và tập kết ở ven các trục đường làng. Sản xuất tinh bột dong thô: Bã được nghiền nhỏ theo hệ thống xả nước của máy liên hoàn, xả thẳng ra hệ thống cống rãnh (Đây là loại hình sản xuất mà bã thải, nước thải có lưu lượng lớn, gây tắc hệ thống cống rãnh và là tác nhân chính gây ô nhiễm nhất). Sản xuất khác như: Miến dong, mạch nha, bánh kẹo, bún phở khô, lọc tinh bột, các ngành nghề khác...một phần chất thải rắn được hộ gia đình tự thu gom còn hầu hết thải xả thẳng ra hệ thống cống rãnh. Rác thải trong thương mại dịch vụ: Được Ban quản lý các khu chợ, hộ gia đình tự thu gom và tập trung tại các điểm xử lý, lượng rác thải chủ yếu ở các khu vực chợ hàng nông sản, chợ tiêu dùng. Nước thải của toàn xã: Được tập trung về 2 cống XIPHONG đầu làng sau đó tập kết về hồ điều hoà lắng đọng, qua hệ thống xử lý sơ bộ của xưởng xử lý chất thải(Do công ty TNHH Mặt trời xanh đảm nhận) thu gom lượng cặn, bã và xử lý sơ bộ. Chất thải xây dựng: Ngoài ra với tốc độ đô thị hoá nhanh như hiện nay phải tính đến lượng chất thải trong xây dựng trong cộng đồng dân cư là rất lớn, các loại chất thải từ vật liệu xây dựng của các công trình thải ra như hiện nay chưa có giải pháp xử lý, gây ô nhiễm, biến dạng cảnh quan môi trường vì các hộ dân có thể đổ và tập kết các loại chất thải này tại bất kì điểm nào, khâu quản lý gặp nhiều khó khăn. Tại xã: Xây dựng và ban hành Quy chế vệ sinh môi trường thời điểm tháng 3/2000 với mức thu 3000 đồng/khẩu hoặc 20.000 đồng/hộ/năm. Năm 2003 sửa đổi bổ sung quy chế VSMT, triển khai thu phí vệ sinh môi trường. Phí VSMT: 5000 đồng/ 01 nhân khẩu. Quỹ bảo vệ môi trường đối với các ngành nghề sản xuất thu theo hướng dẫn của UBND tỉnh với mức thu từ 50.000 đồng đến 1.500.000 đồng/ hộ tuỳ theo ngành nghề sản xuất. Thực tế việc thu này rất hạn chế một phần do nhận thức của nhân dân chưa đầy đủ, thông thường hàng năm mức thu chỉ đạt từ 20 đến 50% kế hoạch đề ra. Đầu năm 2001, UBND xã thành lập tổ vệ sinh môi trường với chức năng thu gom rác thải sinh hoạt trong nhân dân; xử lý ách tắc cục bộ về nước thải ở các điểm nút công cộng với mức lương trung bình 500.000 đồng/ người/ tháng lấy từ nguồn thu phí và quỹ bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, hiện tại nguồn kinh phí này rất hạn chế do sự đóng góp của nhân dân chưa được đầy đủ, vì thế hàng năm ngân sách xã phải đầu tư một khoản kinh phí rất lớn (xấp xỉ 100 triệu đồng) cho hoạt động của tổ VSMT. Nếu với mức thu như hiện nay thì trong những năm sắp tới ngân sách xã gặp rất nhiều khó khăn trong việc duy trì hoạt động của tổ VSMT. Bảng 7: Kinh phí cho hoạt động vệ sinh môi trường Năm Nguồn kinh phí Hoạt động vệ sinh môi trường Quỹ VSMT Phí MT Ngân sách xã bù Chi lương Chi hoạt động 2001 Xóm quản lý 2002 Xóm quản lý 2003 14.605.000 22.989.000 47.705.700 74.124.700 11.175.000 2004 24.628.000 36.535.000 28.091.300 88.054.300 1.200.000 Bảng 8: Các điểm xử lý chất thải, bã thải hiện tại: STT Điểm tập kết Địa hình Diện tích sử dụng (m2) 1 Ao khoảnh 1 cạnh xưởng xử lý chất thải Vùng đồng 1.600 2 Ao ải cạnh nghĩa trang Vùng bãi 1.700 3 Chuôm trũng sen Vùng đồng 4 Hồ lò gạch Vùng bãi 5 Hồ sân kho A( Bụng chứa nước thải) Vùng đồng 4.100 Khoảng cách của các bãi tập kết rác thải tới khu dân cư gần nhất là 200m còn lại cách xa từ 1km đến 2km gây ảnh hưởng tới môi trường sinh thái và sức khoẻ của người dân trong khu vực; nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường, UBND xã đã thường xuyên tổ chức hoạt động san lấp các bãi đổ chất thải. Hình thức vận chuyển chất thải, bã thải của xã hiện nay là bằng xe đẩy (3 người/xe) nên khối lượng rác chuyên chở trong một ngày là không đáng kể. Hiện nay, trong quy hoạch sử dụng đất đai, địa phương đã dự kiến quy hoạch một số khu vực nhằm tập trung các ngành sản xuất, xa khu dân cư như: Ở vùng bãi, dự kiến quy hoạch khu vực mở rộng phát triển làng nghề với diện tích gần 16 ha; ở miền đồng quy hoạch điểm công nghiệp với diện tích gần 12 ha. V: ĐỀ XUẤT QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ 1. Quy hoạch đối với một hộ sản xuất : Đối với những hộ sản xuất lớn, khả năng gây ô nhiễm lớn thì cần được đưa ra khỏi vùng quy hoạch Đối với những hộ sản xuất nhỏ và vừa, lượng chất thải nhỏ: Về không gian sản xuất: Chỉ tiêu: xây dựng cơ sở sản xuất nhỏ trong hộ gia đình một cách hợp lý, sử dụng phần đất vào việc sản xuất một cách hợp lý, đảm bảo sụ thoáng mát, vệ sinh trong môi trường sản xuất. Dưới đây tôi xin đưa ra mô hình của hai loại hình sản xuất phổ biến nhất trong làng, đó là các hộ sản xuất tinh bột sắn, hộ sản xuất tinh bột dong, hộ sản xuất miến dong. Mô hình 1: Nhà ở Nhà bếp Kho sắn củ Máy rửa Máy nghiền Bã, vỏ sắn Máy ép bã và nơi chưá bã Bể nước Bể lắng Kho chứa tinh bột p.giao dịch Cổng vào Sơ đồ quy hoạch hộ sản xuất tinh bột sắn Mô hình 2: Phòng giao dịch Bếp Nhà ở Kho để phên Cổng vào Bể nước Kho thành phẩm Máy làm tấm miến Kho bột nguyên liệu Bể bột sạch Bể lắng Máy cắt Sơ đồ quy hoạch hộ sản xuất miến dong Về nước thải của hộ sản xuất Tình trạng hiện nay là nhiều cống thoát nước thải bị tắc do nước thải kéo theo nhiều rác. Hầu hết các hộ xay bột dong đều xả nước có lẫn bã để trôi theo đường cống vì người dân không muốn giữ bã lại vì sợ bãi thải bốc mùi không có cách xử lý. Vấn đề xử lý bã thải cho các hộ kinh doanh sẽ được phân tích và đề xuất ở phần sau. Vì tình trạng như vậy nên mỗi hộ sản xuất rất cần một hệ thống lọc bã ngay từ nguồn thải để thu gom lại, tránh xả nước có lẫn bã làm tắc cống. Mô hình hệ thống lọc bã từ nguồn thải của hộ sản xuất có thể như sau: Mô hình 3: Cống chính Lưới 2 Lưới 1 Nước thải Nguồn thải Về vấn đề bã thải của hộ sản xuất: Các hộ chế biến tinh bột sắn sẽ thải ra nhiều vỏ sắn, phần sắn thừa và bã sắn.Bã sắn thừa còn chứa nhiều dinh dưỡng nên được tận dụng làm thức ăn cho gia súc. Song, vấn đề đặt ra là trong làng thì lượng bã sắn mỗi mùa sản xuất lại dư ra quá nhiều so với lượng tiêu thụ của gia súc. Vì vậy, mỗi hộ sản xuất với quy mô tương đối lớn cần có dụng cụ ép bã sắn, bã sắn có thể phơi khô và bán cho các hộ chăn nuôi khác hoặc bán cho các hộ chăn nuôi trong làng khi hết mùa sắn. Vỏ và sắn thừa với số lượng không lớn lắm sẽ được thu gom lại để xử lý. Đối với các hộ chế biến tinh bột dong: Theo như số liệu thống kê bên trên thì rác thải từ việc chế biến tinh bột dong thô có lưu lượng thải lớn nhất trong số các loại rác thải khác trong làng. Bã dong chỉ còn lại chất xơ và ít giá trị dinh dưỡng nên gia súc không thể tiêu thụ được. Người dân chỉ biết thải theo dòng nước để tiêu thoát lượng bã khổng lồ. Việc này làm ô nhiễm trầm trọng môi trường nước, mất mỹ quan vì bã rong bị oxy hoá trong không khí nên có màu đen ngòm, mùi hôi nồng nặc. Đối với riêng từng hộ sản xuất và kinh doanh tinh bột dong, tôi có đề xuất như sau: Cũng giống như đề xuất với các hộ chế biến tinh bột sắn, hộ kinh doanh tinh bột dong cũng cần có hệ thống lưới lọc bã phù hợp ngay từ nguồn thải, tránh xả trực tiếp xuống cống. Mắt lưới phải có đường kính phù hợp để bã dong ít lọt khỏi lưới.Mô hình cũng giống với mô hình 3. Bã dong sau khi thu gom lại có thể vận chuyển ra khu thoáng để phơi và ép thành bánh, sấy khô để làm chất đốt. Việc làm này phải đảm bảo không gây ô nhiễm cho người dân xung quanh. Cũng có thể ép thành bánh ngay tại cơ sở sản xuất rồi vận chuyển ra khu thoáng phơi khô làm chất đốt. Bên cạnh bã thải, xỉ than cũng cần được tập trung lại, có thể tận dụng để đổ lên vườn cây hay đưa ra ngoài đồng ruộng, trộn vữa trát tường… .2. Quy hoạch cụm sản xuất: Đối với các hộ có tiềm năng kinh tế đủ lớn và khả năng gây ô nhiễm lớn có thế đưa ra một khu sản xuất riêng. Những hộ sản xuất cùng loại có thể được tập trung lại một cụm sản xuất tập trung. Việc phân cụm sản xuất này không những thuận lợi cho viêc kinh doanh, sản xuất mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu gom xử lý nước thải. Do vậy điều kiện quy hoạch ở đây cũng có những yêu cầu nhất định, cụ thể như sau : Cần xây dựng lại một khu sản xuất tập trung, đảm bảo không gây ô nhiễm ảnh hưởng đến sức khoẻ và sinh hoạt của người dân. Bố trí nơi sản xuất ở cuối hướng gió, xa khu dân cư, gần đường giao thông,thuận tiện cho việc chuyên chở, Có hệ thống cấp thoát nước thuận tiện Giữa các cụm sản xuất nên có khoảng trống nhất định để tạo điều kiện thông thoáng cho xưởng sản xuất, thuận tiện việc vệ sinh phân xưởng. 3. Quy hoạch sử dụng đất Làng nghề Dương Liễu có quy mô nhỏ, mang tính chất đa ngành nghề truyền thống. Với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, phát triển nền kinh tế địa phương cũng như cả nước, thu hút nhiều lực lượng lao động trong nhân dân nên cần phải có quy hoạch sử dụng đất hợp lý. Tổng hợp, nghiên cứu các loại ngành, nghề có tính chất tương đối giống nhau sẽ nằm cạnh nhau theo từng vùng có ưu tiên các ngành nghề thường phải vận chuyển khối lượng nguyên liệu, nhiên liệu và hàng hoá lớn ở cạnh các trục đường lớn. Do tính chất sản xuất là làng nghề nên cần phải quy hoạch các khu vực như nhà xưởng sản xuất, kho chứa hàng hoá, văn phòng giao dịch, giới thiệu sản phẩm… Mô hình sản xuất có tính chất hộ gia đình và cơ sở sản xuất diện tích quy hoạch khoảng từ 300m2 đến 700m2/ 1 nhà xưởng với các chỉ tiêu về kĩ thuật như sau: Công trình xây dựng: nhà cấp bốn độ cao không quá 6m, nền nhà cao so với mặt bằng hiện tại không quá 0,7m. Khoảng cách xây dựng các công trình và tường bao bảo vệ là 0,5m. Yêu cầu đối với khu vực sản xuất không được gây tiếng ồn quá lớn. Nếu gây tiếng ồn phải có biện pháp h ạn chế như xây tương cách âm chống ồn, trồng hàng rào cây xanh… Nước thải và khí thải khi thải ra môi trường cần phải theo đúng quy định và hướng dẫn của luật bảo vệ môi trường. Các nhà xưởng phải có hệ thống cứu hoả, phương án cứu hoả kịp thời khi có sự cố xảy ra. Cân đối sử dụng quĩ đất: Tổng 16,03ha, đất xây dựng nhà xưởng, trồng cây xanh, một số công trình khác là 14,8ha; đất giao thông là 1,21 ha. Bảng : Quy hoạch một số điểm sản xuất chế biến nông sản STT Khu vực Diện tích Loại ngành, nghề 1 Văn sĩ, Cát thành 4,50 ha Chế biến tinh bột-sản xuất khác 2 Khu tạ hàm gốc cây 4,50 ha Nấu nha, bánh kẹo, sản xuất khác 3

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMT (40).doc
Tài liệu liên quan